điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình “3 giảm 3 tăng” tại huyện chợ mới tỉnh an giang năm 2004-2005
Chương I GIỚI THIỆU
1.1. Mở đầu
Trong những năm gần đây sản lượng lúa gạo nước ta liên tục gia tăng, từ một nước phải cứu đói nay chúng ta đã vươn lên đứng hàng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo, sánh vai cùng các quốc gia như Hoa Kỳ, Thái Lan, khiến cho nhiều quốc gia phải thán phục khả năng sản xuất nông nghiệp của nông dân Việt Nam. Trong đó Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa lớn nhất của cả nước không chỉ góp phần thực hiện vấn đề an ninh lương thực mà còn đóng vai trò quan trọng bậc nhất cho xuất khẩu gạo của cả nước.Mặc dù chúng ta đã đạt được một sản lượng khá như vậy nhưng lợi 
nhuận của nông dân không là bao do chi phí sản xuất cao và chất lượng hạt gạo chưa thật tốt nên giá gạo của chúng ta vẫn còn ở mức thấp hơn so với Hoa Kỳ, Thái Lan. Bên cạnh đó việc yêu cầu tập trung sản xuất lúa gạo để đáp ứng cho đà tăng dân số nhanh chóng đã đưa đến sự thay đổi nhanh trong kỹ thuật sản xuất lúa. Những thay đổi gần đây đã gây ra tần số dịch hại lớn. Sự mở rộng diện tích trồng lúa đã tạo điều kiện cho các loại côn trùng phát tán trong thời kỳ của chúng, có cơ hội để tìm những cây ký chủ thích hợp, cho phép những đối tượng gây hại thay vì bị giới hạn ở những khu vực đơn lẻ có thể lan rộng đến những vùng mới, tăng số các loài côn trùng, các loài này đã chuyển từ ký chủ hoang qua lúa khi tập quán tự nhiên của chúng bị phá vỡ (W.H. Reissing và ctv, 1993). Vì vậy một trong những khâu quan trọng trong quá trình sản xuất khiến nông dân vừa tốn sức người sức của chính là công tác phòng trừ sâu bệnh cho ruộng lúa của mình. Với quan niệm sạ thật dầy, bón thật nhiều phân đạm thì mới đủ số chồi để đạt được năng suất làm cho tình hình dịch hại ngày càng gia tăng. Vì nóng lòng cho ruộng lúa của mình mà nông dân đổ vào đồng rộng một lượng thuốc hoá học ngày càng nhiều với hi vọng là sẽ tiêu diệt hết dịch hoạ. Một sự thật hiển nhiên là nơi nào người nông dân phun nhiều thuốc trừ sâu, bệnh càng nhiều thì nơi ấy dịch hại ngày càng phát triển nhiều thêm và những nơi ấy môi trường nước, đất ngày càng bị ô nhiễm (Võ Tòng Xuân, 1993). Chính vì vậy mà ngày càng có nhiều chương trình như:“IPM quốc gia”, “Nông dân tham gia thí nghiệm”, “Quản lý dinh dưỡng cho cây lúa” do Cục Bảo Vệ Thực Vật (BVTV), Viện Lúa ĐBSCL, Sở Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn phát động nhằm hạn chế dịch hại đồng thời giữ vững được năng suất của cây lúa. Các chương trình trên mặc dù đã giải quyết được phần lớn những vấn đề về dịch hại nhưng vẫn còn bộc lộ một số khuyết điểm như chương trình IPM nặng về quản lý sâu hơn là bệnh, chương trình nông dân tham gia thí nghiệm đồng ruộng chỉ tập trung cho việc không phun thuốc đầu vụ . chưa giúp nông dân hoàn thiện kỹ năng trong canh tác lúa của họ. Một trong những bước đột phá trong quản lý dịch hại 
trên lúa được Cục BVTV, Viện Nghiên Cứu Lúa Ô Môn, IRRI triển khai đó là chương trình quản lý dinh dưỡng và dịch hại tổng hợp gọi tắt là "ba giảm ba tăng". Sức thuyết phục của các chương trình này chính từ những hiệu quả thực tế trên đồng ruộng. An Giang là một trong những tỉnh đi đầu trong thi đua sản xuất lúa chất lượng cao và cũng là trọng điểm của chương trình 3G3T. Từ vụ Hè Thu 2001, Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật An Giang được sự hỗ trợ của Cục Bảo Vệ Thực Vật Phía Nam đã triển khai 4 lớp huấn luyện 3G3T và kể từ đó chương trình đã phát triển rộng khắp 11 huyện thị trong tỉnh. Mặc dù chương trình đã phát động một cách rất rầm rộ ở quy mô lớn, các báo cáo tổng kết của chi cục và trạm BVTV cho thấy hiệu quả của chương trình rất rõ rệt. Nhưng vẫn còn một số ý kiến trong nông dân cho rằng áp dụng 3G3T chỉ giảm được giống gieo sạ, giảm thuốc BVTV chứ không giảm được lượng phân đạm (N). Ngoài ra theo báo cáo về hiệu quả của chương trình 3G3T tại xã Vĩnh Nhuận huyện Châu Thành- một trong điểm của chương trình 3G3T ở An Giang của tác giả Nguyễn Thanh Xuân, Khoa Kinh Tế- Quản Trị Kinh Doanh- Trường Đại Học An Giang thì lượng phân N của nông dân áp dụng 3G3T là 148 kg/ha so với nông dân không áp dụng 3G3T là 116 kg/ha, cao hơn 32kg. Chính vì vậy, chương trình này còn nhiều chuyện bỏ ngỏ và hiệu quả của chương trình cần được chứng minh để củng cố lòng tin trong nông dân góp phần đẩy mạnh chương trình phát triển ở quy mô rộng hơn. Địa bàn chọn điều tra là huyện 
Chợ Mới, một huyện cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu với dân số là toàn huyện năm 1999 là 351.762 người. Tổng diện tích tự nhiên là 35.571 ha, diện tích đất nông nghiệp là 23.585 ha trong đó đất lúa là 19.873 ha, huyện bao đê khép kín 60/73 tiểu vùng (Huỳnh Hiệp Thành, 2000). Do tình hình đặc thù của huyện Chợ Mới là vùng đê khép kín, đây là một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất lúa trong khi lượng phân bón cứ tăng lên đặc biệt là phân đạm (N), áp lực dịch hại ngày càng tăng nên nông dân phải sử dụng một lượng lớn thuốc BVTV không những làm cho chi phí sản xuất tăng lên, lợi nhuận có phần giảm sút mà còn làm ô nhiễm môi trường đặc biệt là trong vùng đê bao khép kín do đó việc quán triệt chương trình đến nông dân thực sự rất có ý nghĩa trong bối cảnh ngành nông nghiệp của huyện Chợ Mới hiện nay.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 74 trang
74 trang | 
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2286 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình 3 giảm 3 tăng tại huyện chợ mới tỉnh An Giang năm 2004-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÊ BÁ PHÚC
MSSV: DPN010740
ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH 
“3 GIẢM 3 TĂNG” TẠI HUYỆN CHỢ MỚI 
TỈNH AN GIANG NĂM 2004-2005
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 
 Ths. Nguyễn Văn Minh
Ks. Trần Văn Khải
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Tháng 6. 2005
ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH
3 GIẢM 3 TĂNG TẠI HUYỆN CHỢ MỚI
TỈNH AN GIANG NĂM 2004-2005
Do sinh viên: LÊ BÁ PHÚC thực hiện và đệ nạp
Kính trình Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xét duyệt
Long Xuyên, ngày 30 tháng 5 năm 2005
 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 
Ths. Nguyễn Văn Minh 
 Ks. Trần Văn Khải
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn đính kèm với tên đề tài: 
ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH “BA GIẢM 
BA TĂNG” TẠI HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG NĂM 2004 -2005
Do sinh viên: LÊ BÁ PHÚC
Thực hiện và bảo vệ trước Hội đồng ngày:...............................................
Luận văn đã được hội đồng đánh giá ở mức:............................................
Ý kiến của Hội đồng:................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
Long xuyên, ngày 30 tháng 5 năm 2005
 DUYỆT Chủ Tịch Hội đồng
 BAN CHỦ NGHIỆM KHOA NN-TNTN
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
Họ và tên: LÊ BÁ PHÚC
Ngày tháng năm sinh: 11-02-1983
Nơi sinh: Xã Trung Nhứt, huyện Thốt Nốt, tỉnh Hậu Giang.
Con Ông: LÊ QUANG NHƯỜNG
và Bà: LÊ KIM NGA
Địa chỉ : Ấp Phúc Lộc II, xã Trung Nhất, huyện Thốt Nốt, TP Cần Thơ
Đã tốt nghiệp phổ thông năm 2001 tại Trường Phổ Thông Trung Học Thốt 
Nốt- huyện Thốt Nốt- tỉnh Cần Thơ.
Vào Trường Đại học An Giang năm 2001, học lớp ĐH2PN2 khoá II, thuộc 
Khoa Nông Nghiệp và Tài Nguyên Thiên Nhiên và đã tốt nghiệp kỹ sư ngành Phát 
Triển Nông Thôn năm 2005.
LỜI CẢM TẠ
Kính dâng lên đấng sinh thành lòng biết ơn chân thành và thiêng liêng nhất đã 
nuôi dưỡng và dạy dỗ con để có ngày hôm nay.
Kính gửi lời cảm tạ và lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Văn Minh, thầy 
Trần Văn Khải đã tận tình dạy dỗ và và hướng dẫn em trong suốt quá trình học tập 
cũng như thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Chân thành cảm tạ cô Nguyễn Thị Thu Hồng, cô Nguyễn Thị Hạnh Chi chủ 
nhiệm lớp ĐH2PN2 đã quan tâm, giúp đỡ và hướng dẫn trong suốt quá trình học tập 
tại trường.
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn em chân thành cảm ơn:
- Thầy Nguyễn Phú Dũng, thầy Trịnh Hoài Vũ cùng tập thể các Thầy Cô trong 
khoa Nông Nghiệp- TNTN đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn 
thành luận văn này.
- Các bạn Trịnh Tấn Đạt, Nguyễn Bá Lộc, Trần Thanh Hùng, Văn Công Của, 
Lê Phước Sang, Trần Rước Đêm cùng tập thể các bạn lớp ĐH2PN2 đã nhiệt tình giúp 
đỡ tôi trong suốt quá trình điều tra và phỏng vẫn nông dân
- Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật An Giang đã giúp đỡ và cung cấp các tư liệu về 
chương trình 3G3T.
- Chú Dũng trưởng Trạm Khuyến Nông huyện Chợ Mới, cô Châu phó chủ tịch 
uỷ ban nhân dân xã Long Điền A, cùng các anh kỹ thuật viên nông nghiệp các xã Mỹ 
An, Long Điền A, Long Kiến, Kiến An, Nhơn Mỹ, Mỹ Hội Đông đã giúp đỡ tôi trong 
suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Trong quá trình thực hiện đề tài này do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên 
chắc chắn bài luận văn sẽ có những sai sót, kính mong các Thầy Cô và Hội Đồng 
đóng góp ý kiến để bài luận văn của em được hoàn thiện hơn, em chân thành cảm ơn. 
i
Lê Bá Phúc. 2005. Điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình “3 giảm 3 tăng” tại 
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang năm 2004-2005. Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành 
Phát Triển Nông Thôn. Khoa Nông Nghiệp- TNTN, Đại Học An Giang. Giáo viên 
hướng dẫn: Ths. Nguyễn Văn Minh, Ks. Trần Văn Khải
TÓM LƯỢC
Chương trình “3 giảm 3 tăng” (3G3T) là kết quả của những thành tựu trong kỹ 
năng canh tác lúa: giảm giống, giảm phân, giảm thuốc bảo vệ thực vật, giúp nông dân 
loại bỏ những phương pháp canh tác truyền thống không còn phù hợp và tránh những 
lãng phí không đáng có nhằm nâng cao lợi nhuận cho người trồng lúa. Ở An Giang 
chương trình được triển khai từ vụ Hè Thu 2001 đã mang lại những kết quả tương đối 
thắng lợi nhưng vẫn còn một số ý kiến trong nông dân cho rằng áp dụng 3G3T chỉ có 
thể giảm giống, giảm thuốc BVTV mà không giảm được phân bón đặc biệt là phân 
đạm. Vì vậy mục đích của đề tài nhằm đánh giá lại một lần nữa và củng cố thêm kết 
quả của chương trình 3G3T. Bằng phương pháp phỏng vấn nông dân với 120 phiếu 
điều tra (60 hộ áp dụng 3G3T và 60 hộ không áp dụng 3G3T) và tính các giá trị trung 
bình, tối đa, tối thiểu trên phần mềm Excel, kết quả cho thấy: Lượng giống gieo sạ của 
nông dân áp dụng 3G3T giảm từ 90-98 kg/ha/vụ, lượng phân đạm giảm từ 22-32,20 
kg/ha/vụ, số lần phun thuốc trừ sâu giảm trung bình từ 0,9-0,2 lần/vụ, số lần phun 
thuốc trừ bệnh giảm trung bình từ 0,5-0,75 lần/vụ, chi phí sản xuất giảm từ 811.000 
đ/ha/vụ, năng suất tăng từ 0,12-0,38 tấn/ha/vụ, giá bán tăng từ 60-90 đ/kg, lợi nhuận 
tăng từ 1.800.000- 2.300.000 đ/ha/vụ
Chương trình 3G3T đã thực sự mang lại hiệu quả cho nông dân cụ thể là nông 
dân tại huyện Chợ Mới. Đây là một chủ trương đúng đắn giúp nông dân hạ giá thành 
và tăng lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp nên cần được phát huy và nhân rộng 
đúng như ý nghĩa của nó. 
ii
MỤC LỤC
Nội dung Trang
CẢM TẠ i
TÓM LƯỢC ii
MỤC LỤC iii
DANH SÁCH BẢNG v
DANH SÁCH HÌNH vi
Chương 1 GIỚI THIỆU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3
Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở của chương trình 3G3T 4
2.1.1. Chương trình “Quản lý dịch hại tổng hợp- IPM” 4
2.1.1.1 IPM là gì? 4
2.1.1.2. Các đặc trưng của IPM 6
2.1.1.3. Các nguyên lý và nguyên tắc của IPM 7
2.1.1.4. Các yêu cầu của IPM 8
2.1.1.5. Các biện pháp trong IPM 8
2.1.2 Chương trình FPR. 20
2.1.3. Quản lý dinh dưỡng tổng hợp. 21
2.1.4. Thâm canh tổng hợp 21
2.2. Chương trình “Ba Giảm Ba tăng” 23
Chương 3 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30
3.1. Phương tiện 30
3.2. Phương pháp 30
3.2.1 Thu thập số liệu thứ cấp 30
3.2.2. Chọn địa điểm điều tra 30
3.2.3. Phương pháp điều tra 30
3.2.4. Các chỉ tiêu theo dõi 30
3.2.4.1. Ba giảm 30
3.2.4.2. Ba tăng 31
3.3. Xử lý số liệu 31
Chương 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN 32
4.1. Mô tả điểm nghiên cứu 32
4.2. Phân bố mẫu điều tra 34
4.1 Thông tin chung về nông hộ 34
4.1.1. Độ tuổi nông dân 34
4.1.2 Diện tích canh tác 35
4.1.3. Nguồn cung cấp thông tin về 3G3T cho nông dân 37
4.1.4. Những lý do để nông dân áp dụng và không áp dụng 3G3T 39
4.2 Thuận lợi của chương trình 3G3T 41
4.2.1. Giảm yếu tố đầu vào 41
iii
4.2.1.1 Giảm lượng lúa giống 41
4.2.1.2. Giảm lượng phân đạm (N) 44
4.2.1.3. Giảm số lần phun thuốc trừ sâu 46
4.2.1.4. Giảm số lần phun thuốc bệnh 47
4.2.1.5. Giảm chi phí nhờ áp dụng 3G3T 48
4.2.2. Tăng năng suất và lợi nhuận 49
4.2.2.1 Tăng năng suất 49
4.2.2.2. Tăng chất lượng 50
.2.2. Tăng lợi nhuận 51
Chương 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 53
5.1. Kết luận 53
5.2. Đề nghị 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
PHỤ CHƯƠNG pc-1
iv
DANH SÁCH BẢNG 
Bảng 
số Tựa bảng Trang
1 Công thức bón phân chung cho vụ Hè Thu và Thu Đông 11
2 Công thức bón phân chung cho vụ Đông Xuân 12
3 Một số ngưỡng kinh tế đối với một số sâu hại 15
4 Phân bố mẫu điều tra 34
5 Độ tuổi của nông dân 34
6 Diện tích của nông dân có và không áp dụng 3G3T 35
7 Nguồn cung cấp thông tin về 3G3T cho nông dân 37
8 Lý do để nông dân áp dụng và không áp dụng 3G3T 39
9 Lượng lúa giống gieo sạ/ha 41
10 Lượng phân đạm (N)/ha 44
11 Số lần phun thuốc trừ sâu/vụ 46
12 Số lần phun thuốc trừ bệnh/vụ 47
13 Tổng chi phí lúa sản xuất/vụ 48
14 Năng suất lúa của nông dân có và không áp dụng 3G3T 49
15 Giá bán lúa của nông dân có và không áp dụng 3G3T 50
16 Lợi nhuận của nông dân 51
PHỤ CHƯƠNG pc-1
Phụ chương 1: Phiếu phỏng vấn chương trình “3 giảm 3 
tăng” pc-1
Phụ chương 2: Thông tin chung về nông dân áp dụng 
3G3T pc-4
Phụ chương 3: Thông tin chung về nông dân áp dụng 
3G3T pc-7
Phụ chương 4: Các chỉ tiêu khác biệt về áp dụng và không 
áp dụng 3G3T pc-9
v
DANH SÁCH HÌNH
Hình 
số
Nội dung Trang 
1 Bản đồ phân bố địa điểm điều tra 33
2 Độ tuổi nông dân áp dụng 3G3T 35
3 Độ tuổi nông dân không áp dụng 3G3T 35
4 Diện tích canh tác của nông hộ 36
5 Tỷ lệ diện tích áp dụng 3G3T 37
6 Tỷ lệ diện tích không áp dụng 3G3T 37
7 Nguồn thông tin cho nông dân áp dụng 3G3T 38
8 Nguồn thông tin cho nông dân không áp dụng 3G3T 38
9 Lợi ích của chương trình 3G3T 40
10 Lý do nông dân không áp dụng 3G3T 41
11 Giảm lượng giống nhờ áp dụng 3G3T 42
12 Sử dụng màu sạ hàng để giảm giống gieo sạ 43
13 Ruộng áp dụng 3G3T 43
14 Giảm lượng phân đạm 45
15 Bón phân theo bảng so màu lá lúa 45
16 Giảm số lần phun thuốc trừ sâu 46
17 Giảm số lần phun thuốc trừ bệnh. 48
18 Giảm chi phí nhờ áp dụng 3G3T 49
19 Tăng năng suất nhờ áp dụng 3G3T 50
20 Giá lúa bán cao hơn nhờ áp dụng 3G3T 51
21 Tăng lợi nhuận nhờ áp dụng 3G3T 52
vi
Chương I GIỚI THIỆU
1.1. Mở đầu
Trong những năm gần đây sản lượng lúa gạo nước ta liên tục gia tăng, 
từ một nước phải cứu đói nay chúng ta đã vươn lên đứng hàng thứ 2 thế giới 
về xuất khẩu gạo, sánh vai cùng các quốc gia như Hoa Kỳ, Thái Lan, …khiến 
cho nhiều quốc gia phải thán phục khả năng sản xuất nông nghiệp của nông 
dân Việt Nam. Trong đó Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa lớn 
nhất của cả nước không chỉ góp phần thực hiện vấn đề an ninh lương thực mà 
còn đóng vai trò quan trọng bậc nhất cho xuất khẩu gạo của cả nước.
Mặc dù chúng ta đã đạt được một sản lượng khá như vậy nhưng lợi 
nhuận của nông dân không là bao do chi phí sản xuất cao và chất lượng hạt 
gạo chưa thật tốt nên giá gạo của chúng ta vẫn còn ở mức thấp hơn so với 
Hoa Kỳ, Thái Lan. Bên cạnh đó việc yêu cầu tập trung sản xuất lúa gạo để 
đáp ứng cho đà tăng dân số nhanh chóng đã đưa đến sự thay đổi nhanh trong 
kỹ thuật sản xuất lúa. Những thay đổi gần đây đã gây ra tần số dịch hại lớn. 
Sự mở rộng diện tích trồng lúa đã tạo điều kiện cho các loại côn trùng phát 
tán trong thời kỳ của chúng, có cơ hội để tìm những cây ký chủ thích hợp, 
cho phép những đối tượng gây hại thay vì bị giới hạn ở những khu vực đơn lẻ 
có thể lan rộng đến những vùng mới, tăng số các loài côn trùng, các loài này 
đã chuyển từ ký chủ hoang qua lúa khi tập quán tự nhiên của chúng bị phá vỡ 
(W.H. Reissing và ctv, 1993).
 Vì vậy một trong những khâu quan trọng trong quá trình sản xuất 
khiến nông dân vừa tốn sức người sức của chính là công tác phòng trừ sâu 
bệnh cho ruộng lúa của mình. Với quan niệm sạ thật dầy, bón thật nhiều 
phân đạm thì mới đủ số chồi để đạt được năng suất làm cho tình hình dịch hại 
ngày càng gia tăng. Vì nóng lòng cho ruộng lúa của mình mà nông dân đổ 
vào đồng rộng một lượng thuốc hoá học ngày càng nhiều với hi vọng là sẽ 
tiêu diệt hết dịch hoạ. Một sự thật hiển nhiên là nơi nào người nông dân phun 
nhiều thuốc trừ sâu, bệnh càng nhiều thì nơi ấy dịch hại ngày càng phát triển 
1
nhiều thêm và những nơi ấy môi trường nước, đất ngày càng bị ô nhiễm (Võ 
Tòng Xuân, 1993). Chính vì vậy mà ngày càng có nhiều chương trình 
như:“IPM quốc gia”, “Nông dân tham gia thí nghiệm”, “Quản lý dinh dưỡng 
cho cây lúa” …do Cục Bảo Vệ Thực Vật (BVTV), Viện Lúa ĐBSCL, Sở 
Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn phát động nhằm hạn chế dịch hại 
đồng thời giữ vững được năng suất của cây lúa. Các chương trình trên mặc dù 
đã giải quyết được phần lớn những vấn đề về dịch hại nhưng vẫn còn bộc lộ 
một số khuyết điểm như chương trình IPM nặng về quản lý sâu hơn là bệnh, 
chương trình nông dân tham gia thí nghiệm đồng ruộng chỉ tập trung cho việc 
không phun thuốc đầu vụ…. chưa giúp nông dân hoàn thiện kỹ năng trong 
canh tác lúa của họ. Một trong những bước đột phá trong quản lý dịch hại 
trên lúa được Cục BVTV, Viện Nghiên Cứu Lúa Ô Môn, IRRI triển khai đó 
là chương trình quản lý dinh dưỡng và dịch hại tổng hợp gọi tắt là "ba giảm 
ba tăng". Sức thuyết phục của các chương trình này chính từ những hiệu quả 
thực tế trên đồng ruộng.
 An Giang là một trong những tỉnh đi đầu trong thi đua sản xuất lúa 
chất lượng cao và cũng là trọng điểm của chương trình 3G3T. Từ vụ Hè Thu 
2001, Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật An Giang được sự hỗ trợ của Cục Bảo Vệ 
Thực Vật Phía Nam đã triển khai 4 lớp huấn luyện 3G3T và kể từ đó chương 
trình đã phát triển rộng khắp 11 huyện thị trong tỉnh. Mặc dù chương trình đã 
phát động một cách rất rầm rộ ở quy mô lớn, các báo cáo tổng kết của chi cục 
và trạm BVTV cho thấy hiệu quả của chương trình rất rõ rệt. Nhưng vẫn còn 
một số ý kiến trong nông dân cho rằng áp dụng 3G3T chỉ giảm được giống 
gieo sạ, giảm thuốc BVTV chứ không giảm được lượng phân đạm (N). Ngoài 
ra theo báo cáo về hiệu quả của chương trình 3G3T tại xã Vĩnh Nhuận huyện 
Châu Thành- một trong điểm của chương trình 3G3T ở An Giang của tác giả 
Nguyễn Thanh Xuân, Khoa Kinh Tế- Quản Trị Kinh Doanh- Trường Đại Học 
An Giang thì lượng phân N của nông dân áp dụng 3G3T là 148 kg/ha so với 
nông dân không áp dụng 3G3T là 116 kg/ha, cao hơn 32kg. Chính vì vậy, 
chương trình này còn nhiều chuyện bỏ ngỏ và hiệu quả của chương trình cần 
được chứng minh để củng cố lòng tin trong nông dân góp phần đẩy mạnh 
2
chương trình phát triển ở quy mô rộng hơn. Địa bàn chọn điều tra là huyện 
Chợ Mới, một huyện cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu với dân số là 
toàn huyện năm 1999 là 351.762 người. Tổng diện tích tự nhiên là 35.571 ha, 
diện tích đất nông nghiệp là 23.585 ha trong đó đất lúa là 19.873 ha, huyện 
bao đê khép kín 60/73 tiểu vùng (Huỳnh Hiệp Thành, 2000). Do tình hình 
đặc thù của huyện Chợ Mới là vùng đê khép kín, đây là một trong những 
nguyên nhân làm giảm năng suất lúa trong khi lượng phân bón cứ tăng lên 
đặc biệt là phân đạm (N), áp lực dịch hại ngày càng tăng nên nông dân phải 
sử dụng một lượng lớn thuốc BVTV không những làm cho chi phí sản xuất 
tăng lên, lợi nhuận có phần giảm sút mà còn làm ô nhiễm môi trường đặc biệt 
là trong vùng đê bao khép kín do đó việc quán triệt chương trình đến nông 
dân thực sự rất có ý nghĩa trong bối cảnh ngành nông nghiệp của huyện Chợ 
Mới hiện nay.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình 3G3T tại huyện Chợ 
Mới, tỉnh An Giang thông qua đánh giá từng mặt giảm và tăng nhằm củng cố 
hiệu quả của chương trình 3G3T góp phần giúp chương trình phát triển nhanh 
hơn và sâu rộng hơn tại huyện Chợ Mới, giúp nông dân giảm được chi phí 
đầu vào và tăng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp .
3
Chương II LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
Chương trình 3G3T trước đây còn được gọi là Quản lý dinh dưỡng & 
dịch hại tổng hợp được gọi tắt là ICM (Integrated Crop Management) là 
chương trình quản lý dịch hại dựa trên mối quan hệ của dinh dưỡng cây trồng 
và sự gây hại của dịch hại. Dựa vào những mối tương quan biết được, các nhà 
khoa học IRRI, và Cục BVTV đã triển khai ứng dụng trong quản lý dịch hại 
cho cây lúa (Sở Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, 2002)
Cốt lõi của chương trình này là sự kế thừa và phát huy chương trình 
IPM và thâm canh tổng hợp trong sản xuất lúa.
2.1. Cơ sở của chương trình 3G3T
2.1.1. Chương trình “Quản lý dịch hại tổng hợp- IPM”
2.1.1.1 IPM là gì?
Thuật ngữ IPM là khái niệm rất quen thuộc đối với người nông dân 
sản xuất lúa, được xem như là giải pháp tổng hợp trong quản lý dịch hại. Tuy 
nhiên để nông dân hiểu rõ và có thể thực hiện đầy đủ các khái niệm này 
không thực sự đơn giản (Trần Văn Hai, 2004)
IPM là chữ viết tắt của từ tiếng Anh: Integrated Pest Management, có 
nghĩa là quản lý dịch hại tổng hợp.
Theo Rainer Daxl (1994) thì quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) là một 
hệ thống quản lý dịch hại mà trong khung cảnh cụ thể của môi trường và 
những biến động quần thể của các loài gây hại, sử dụng tất cả các kỹ thuật và 
biện pháp thích hợp có thể được, nhằm duy trì mật độ của các loài gây hại ở 
dưới mức gây ra thiệt hại kinh tế.
Quản lý dịch hại tổng hợp cũng có thể định nghĩa là một hệ thống các 
biện pháp phòng trừ hợp lý về kinh tế và vững bền, dựa trên sự phối hợp các 
biện pháp trồng trọt, sinh học di truyền chọn giống và hoá học nhằm đạt được 
4
sản lượng cây trồng cao nhất và tác hại của môi trường ít nhất (Oudejans, 
1991, trích dẫn bởi Nguyễn Công Thuật 1996)
Các biện pháp trên cần được sử dụng phối hợp với nhau và ở mức độ 
thích hợp tuỳ theo từng điều kiện cụ thể về tình hình dịch hại, khả năng chịu 
đựng và đền bù cả cây trồng, điều kiện đất đai, thời tiết khả năng về kinh tế… 
phối hợp ở đây chủ yếu là sử dụng nhiều biện pháp để hỗ trợ cho nhau, tăng 
hiệu quả phòng trừ, không nên chỉ đơn thuần dựa vào một biện pháp, nhất là 
không nên chỉ dựa vào biện pháp hoá học. Mức độ thích hợp tức là không nên 
dùng quá liều yêu cầu cần thiết và phải phù hợp với từng điều kiện cụ thể (Võ 
Văn Á và ctv, 1998)
Ngày nay khi nền sản xuất nông nghiệp đã theo hướng thâm canh, 
bên cạnh năng suất gia tăng thì kéo theo sự gia tăng về dịch hại. Người ta ước 
tính có khoảng 10 ngàn loài sâu hại và hàng trăm ngàn loại bệnh gây hại trên 
các loại cây trồng làm giảm năng suất cây trồng trung bình từ 20-30%. Nhiều 
nước trên thế giới đã ghi nhận những đợt dịch hại nghiêm trọng. Ở nước ta, 
trong vòng 30 năm qua cũng từng xảy ra những đợt dịch sâu bệnh gây hại 
nặng nề, điển hình như đợt rầy xanh đuôi đen và bệnh vàng lụi lúa ở các tỉnh 
phía Bắc những năm 1964-1965, dịch rầy nâu và bệnh lùn xoắn lá ở các tỉnh 
Nam Bộ trong những năm 1977-1980 và các năm 1991-1992. Ngoài ra các 
loài dịch hại khác như bệnh, cỏ dại, chuột tuy không gây hại thành dịch 
nghiêm trọng nhưng đã làm giảm năng suất đáng kể và tốn chi phí phòng trừ 
rất tốn kém (Võ Văn Á và ctv, 1998)
Để phòng trừ các loài dịch hại bảo vệ cây trồng nhiều biện pháp kỹ 
thuật ngày càng tiến bộ đã được áp dụng vào đồng ruộng. Ban đầu là các biện 
pháp thủ công như bắt giết, biện pháp canh tác, sử dụng một số chất vô cơ có 
sẵn trong tự nhiên và các chất hoá học tổng hợp đổ vào đồng ruộng ngày 
càng nhiều hơn như hợp chất Clo hữu cơ, Lân hữu cơ, Cacbamat, Cúc tổng 
hợp. Các hợp chất này có hiệu lực trừ sâu cao nhưng cũng rất độc hại với môi 
trường và con người, giết hại nhiều loại thiên địch, làm sâu hại dễ quen thuốc. 
Dần dần người ta nhận ra rằng biện pháp hoá học là “con dao hai lưỡi”, nó có 
thể giúp phòng trừ sâu hại có hiệu quả cao nhưng cũng rất có hại tới sức khoẻ 
5
con người và huỷ hoại môi trường sinh thái (Võ Văn Á và ctv, 1998) Vì vậy 
áp dụng biện pháp phòng trừ vừa đảm bảo về năng suất vừa duy trì được tính 
bền vững của nền nông nghiệp là hết sức cần thiết.
2.1.1.2. Các đặc trưng của IPM
Theo Rainer Daxl (1994) IPM có các đặc trưng sau:
 Sự kiểm soát được dựa trên sự hiểu biết về dịch hại và thiên 
địch của chúng
Một sự hiểu biết về sinh học và sinh thái học về sâu hại và thiên địch 
của chúng đặc biệt ở đâu và khi nào chúng xảy ra và di chuyển như thế nào 
vào cây trồng làm nơi cư trú để hình thành cơ sở cho sự kiểm soát . Người áp 
dụng IPM cũng cần hiểu quan hệ giữa dịch hại và thiên địch để có thể quyết 
định mật độ của chúng
 Mật độ quần thể của dịch hại được giữ ở mức độ thấp.
Dịch hại xảy ra ở một qui mô nhỏ thì không hẳn gây ra tức thì sự tổn 
thất nào. Ở một mật độ quần thể thấp, tác động của chúng có thể cân bằng 
với cây trồng. sự thiệt hại xảy ra khi cây không đủ khả năng đền bù. Tuy 
nhiên, kiểm soát dịch hại chỉ đảm bảo bằng tài chính nếu chi phí của biện 
pháp kiểm soát đó thấp hơn chi phí thiệt hại mà nó sẽ gây ra.Theo một qui 
luật, chi phí của các biện pháp kiểm soát thì cao hơn trong khi kết quả đạt 
được chỉ một thời đoạn ngắn. Bởi thế từ quan điểm về kinh tế của người 
nông dân nó là một sự kỳ vọng ổn định mật số quần thể của dịch hại ở một 
mức độ thấp, nhưng không loại trừ được chúng một cách hoàn toàn. Người ta 
đã chứng tỏ rằng không thể thực hiện được cũng như không có hiệu quả kinh 
tế để diệt từ tận gốc những dịch hại cây trồng tại một miền hay ở cấp độ quốc 
gia. Hơn nữa từ quan điểm sinh thái học xem cơ thể sâu hại là nguồn thức ăn 
cho thiên địch để duy trì sự cân bằng hệ sinh thái.
 Kết hợp các phương pháp kiểm soát
Kết hợp các phương pháp kiểm soát là một đặc trưng quan trọng của 
IPM. Và ít ra cũng là một công cụ cho việc định nghĩa khái niệm đó. Sự kết 
hợp giữa các biện pháp ngăn ngừa và diệt trừ để chặn đứng hoặc giúp ngăn 
6
chặn mật số dịch hại chống lại sự phát triển tới một mức độ mà sự thiệt hại 
lớn xảy ra.
IPM nhắm vào mục tiêu này chủ yếu thông qua các kỹ thuật không sử 
dụng thuốc hoá học. Dựa trên điều kiện cây trồng và điều kiện từng địa 
phương các biện pháp có thể bao gồm: phương pháp canh tác chọn giống, vệ 
sinh đồng ruộng, sự can thiệp và cuối cùng ít ra thúc đẩy sự phát triển của 
thiên địch.
2.1.1.3. Các nguyên lý và nguyên tắc của IPM
Việc áp dụng biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp phải dựa trên 
những nguyên lý và nguyên tắc của nó. Theo Nguyễn Công Thuật (1996), 
phòng trừ dịch hại tổng hợp có những nguyên tắc và nguyên lý như sau:
- Một là, trong hệ thống phòng trừ dịch hại tổng hợp tất cả các kỹ 
thuật tham gia cần được xét dến sự hài hoà giữa các yếu tố của môi trường, 
đặc biệt là phải khai thác tối đa các yếu tố gây chết tự nhiên của sâu hại. Mặt 
khác, tác động của tất cả các kỹ thuật được sử dụng cũng phải được xem xét 
về mặt này.
- Hai là, không thể suy nghĩ một cách nông cạn cho rằng có thể tiêu 
diệt hết các cơ thể gây hại trên đồng ruộng, mà cần hiểu rằng chỉ có thể duy 
trì mật độ của chúng ở dưới mức gây ra thiệt hại kinh tế. Như vậy một biện 
pháp phòng trừ chỉ được áp dụng trong trường hợp mà nếu không thực hiện 
thì giá trị tổn thất về sản lượng cây trồng sẽ lớn hơn những chi phí của việc 
xử lý.
- Ba là, không thể quan niệm phòng trừ tổng hợp là một qui trình in 
sẵn để có thể áp dụng trong mọi trường hợp, ở mọi nơi, mọi lúc, mà phải coi 
đó như là một nguyên tắc cần phải tuân theo để cho phép xác định, trong mỗi 
tình huống cụ thể, một giải pháp tối ưu, xét về mọi mặt.
- Bốn là, những biện pháp áp dụng trong phòng trừ tổng hợp rất 
phong phú và đa dạng. Đồng thời những thành tựu mới trong nghiên cứu 
khoa học BVTV ngày nay càng được đưa ra sử dụng trong sản xuất nhiều 
hơn, rộng rãi hơn và không ngừng lại một chỗ.
7
Sau cùng, khái niệm phòng trừ tổng hợp có liên quan đến hai khái 
niệm là ngưỡng gây hại và ngưỡng kinh tế.
2.1.1.4. Các yêu cầu của IPM
Theo Võ Văn Á và ctv (1998) để việc áp IPM trên ruộng lúa đạt kết 
quả tốt cần có những yêu cầu sau:
- Trồng cây khoẻ.
- Bảo vệ thiên địch.
- Thăm đồng thường xuyên.
- Nông dân trở thành chuyên gia.
Trồng cây khoẻ chủ yếu là chọn giống kháng sâu bệnh và chăm sóc 
cây đầy đủ bằng các biện pháp canh tác.
Bảo vệ thiên địch chủ yếu là sử dụng thuốc hoá học hợp lý khi cần 
thiết và dùng loại thuốc ít gây hại thiên địch, tạo điều kiện môi trường cho 
thiên địch tồn tại và phát triển.
Hai yêu cầu đầu tiên thể hiện nội dung cơ bản về mặt kỹ thuật của IPM 
là điều khiển cân bằng hệ sinh thái trên cơ sở tác động vào cây trồng và thiên 
địch để chủ động khống chế sự phát triển của dịch hại. Hai yêu cầu sau là 
những công việc quan trọng cần làm để thực hiện các biện pháp quản lý dịch 
hại tổng hợp có kết quả. Trong quá trình thực hiện phải nắm vững và vận 
dụng đồng thời 4 yêu cầu này. Muốn xác định những biện pháp thích hợp, có 
hiệu quả thì phải thường xuyên điều tra đồng ruộng để nắm vững kết cấu và 
sự biến động của hệ sinh thái. Cụ thể là nắm vững tình hình sinh trưởng của 
cây trồng, thành phần và số lượng các loài thiên dịch, dự kiến khả năng biến 
động của sự tương quan giữa chúng để có biện pháp xử lý thích hợp. Cuối 
cùng là tất cả các biện pháp trên chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi người 
nông dân, người chủ thực sự của đồng ruộng thông hiểu và thực sự tin tưởng 
các biện pháp IPM. Khi đó mỗi người nông dân áp dụng các biện pháp tức là 
cả cánh đồng, cả địa phương, cả nước đã áp dụng được IPM thì IPM mới thực 
sự có kết quả mong muốn.
8
2.1.1.5. Các biện pháp trong IPM
Trên cơ sở các nguyên tắc, nguyên lí và các yêu cầu của IPM, các biện 
pháp được áp dụng trong IPM là:
 Kiểm dịch và khử trùng: 
Để ngăn ngừa các loài dịch hại mới từ nước ngoài vào hoặc lan 
truyền giữa các vùng trong nước, kiểm dịch để phát hiện các loài dịch hại có 
trong nông sản (Võ Văn Á và ctv, 1998).
Khử trùng các vật liệu làm giống bị nhiễm sâu bệnh trước khi đem 
gieo trồng để ngăn ngừa sâu bệnh lan rộng và phá hại trên đồng ruộng, giảm 
được chi phí phòng trừ trong sản xuất (Nguyễn Công Thuật, 1996).
 Biện pháp canh tác:
- Làm đất và vệ sinh đồng ruộng: Làm đất sớm và vệ sinh đồng ruộng 
sau mỗi vụ: việc làm này rất có ý nghĩa trong việc diệt trừ các mầm mống sâu 
bệnh sống trong đất và tàn dư của cây trồng và cỏ dại. Cày lật đất sớm sau 
mỗi vụ lúa diệt được sâu non và nhộng sâu đục thân lúa sống trong rạ và gốc 
rạ, đồng thời làm mất nơi cư trú của rầy nâu và rầy xanh ..là côn trùng môi 
giới truyền các bệnh siêu vi trùng nguy hiểm cho lúa, như bệnh vàng lụi, bệnh 
lùn xoắn lá lúa và bệnh mạ lạ. Các chuyên gia của Viện Lúa Gạo Quốc Tế 
cũng đánh giá việc cày lật đất sau mỗi vụ thu hoạch và vệ sinh đồng ruộng có 
tác dụng hạn chế sâu hại và các bệnh do virus trên lúa và coi đây là một biện 
pháp quan trọng trong phòng trừ tổng hợp sâu bệnh trên lúa. Nguyên lý tác 
động của biện pháp vệ sinh đồng ruộng và xử lý tàn dư cây trồng sau mỗi vụ 
thu hoạch là cắt đứt vòng chu chuyển của sâu bệnh từ vụ này sang vụ khác và 
hạn chế nguồn sâu bệnh tích luỹ, lây lan ngay từ đầu vụ gieo trồng (Nguyễn 
Công Thuật, 1996).
 - Gieo trồng đúng thời vụ: Thời vụ gieo trồng thích hợp là thời vụ 
đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, đạt năng suất cao tránh 
được các rủi ro do thời tiết khí hậu gây ra. Trên thực tế đồng ruộng tuy cùng 
gieo cấy trong khung thời vụ thích hợp nhưng các giống lúa gieo cấy sớm hơn 
lúa đại trà xung quanh thường bị bọ xít và sâu đục thân phá hại nặng. Nguyên 
9
nhân là sâu hại tập trung lại những chỗ ruộng này vào giai đoạn sinh trưởng 
thích hợp của cây trồng để phá hại.
Gieo cấy đồng loạt để rút ngắn thời gian của một vụ lúa đã được các 
chuyên gia của Viện Lúa Gạo Quốc Tế coi là một trong những biện pháp kỹ 
thuật có hiệu quả vì nó hạn chế sâu hại phát sinh và tích lũy trong nhiều thể 
hệ (Nguyễn Công Thuật, 1996).
- Trồng giống ngắn ngày và gieo sạ với mật độ thích hợp: Trồng 
giống lúa ngắn ngày có thể tránh được sâu đục thân và sâu cắn gié lúa. Trong 
phòng trừ rầy nâu các giống lúa cực ngắn (với thời gian sinh trưởng từ 80-90 
ngày) cũng coi là một biện pháp có hiệu quả vì rầy nâu không kịp tích luỹ đủ 
mật số để gây hại nặng trên ruộng lúa cực ngắn (Nguyễn Công Thuật, 1996).
Trồng dày tạo nên môi trường thuận lợi cho sâu bệnh phát triển. các 
ruộng lúa gieo dày thường khép hàng sớm tạo điều kiện cho rầy nâu và bệnh 
đốm vằn phát triển và phá hại mạnh lúc cuối vụ
 - Bón phân cân đối và hợp lý: Theo Võ Văn Á và ctv (1998) phân 
bón có ảnh hưởng trực tiếp rất rõ rệt đến sinh trưởng và phát triển của cây 
trồng, qua đó ảnh hưởng tới dịch hại. Để góp phần hạn chế dịch hại trong kỹ 
thuật bón phân cần chú ý các đặc điểm sau:
Theo Hoàng Minh Châu (1998) việc hiểu rõ các thời kỳ tăng trưởng 
và phát triển của cây trồng cùng những nhu cầu dinh dưỡng của chúng trong 
các thời kỳ đó là điều kiện tiên quyết để điều hành việc cung cấp dinh dưỡng . 
Với N trong giai đoạn đầu sẽ tích lũy ở thân cho đến tận của cuối giai đoạn 
của thời kỳ tăng trưởng. Việc di chuyển N từ các bộ phận đến hạt thật đáng 
kể sau lúc trổ hoa.
Hàm lượng NPK tăng dần theo độ tăng trưởng và sau đó giảm đi sau 
khi đã đạt tới giá trị cực đại.
Tỷ lệ của N trong cây giảm đến cực tiểu khi cấy rồi tăng dần cho đến 
lúc trổ. Sau đó hàm lượng N tiếp tục giảm cho đến thời kỳ đông sữa rồi giữ 
mức cố định cho đến lúc lúa chín
10
Bảng 1: Công thức bón phân chung cho vụ Hè Thu và Thu Đông
Đv. Kg/công
 Nguồn: Viện Lúa ĐBSCL 2005 
Thời gian và liều lượng bón phân (1 công = 1000 m2)
Loại đất Bón ra rễ
(7-10 ngày sau 
sạ)
Bón thúc 
chồi
(22-25 
nss)
Bón thúc 
đòng
(42-45 nss)
Bón nuôi hạt
(55-60 nss)
Đất phù 
sa
15 kg
NPK 20-20-15
4-5 kg 
DAP
7-8 kg urê
5-6 kg urê
3 kg kali 
clorua
Phun KNO3 2 đợt, 
trước và sau trổ 7 
ngày,150g/bình 8 
lít (4 bình / công)
Đất phèn
15 kg
NPK 20-20-15
6-7 kg 
DAP
6-7 kg urê
4-5 kg urê
3 kg kali 
clorua
Phun KNO3 2 đợt, 
trước và sau trổ 7 
ngày,150g/bình 8 
lít (4 bình / công)
Đất phèn 
mặn
15 kg
NPK 20-20-15
6-7 kg 
DAP
6-7 kg urê
5-6 kg urê
3 kg kali 
clorua
Phun KNO3 2 đợt, 
trước và sau trổ 7 
ngày,150g/bình 8 
lít (4 bình / công)
11
Bảng 2: Công thức bón phân chung cho vụ Đông Xuân
 Đv. Kg/công
Thời gian và liều lượng bón phân (1 công = 1000 m2)
Loại đất Bón ra rễ
(7-10 ngày sau 
sạ)
Bón thúc 
chồi
(22-25 nss)
Bón thúc 
đòng
(42-45 nss)
Bón nuôi hạt
(55-60 nss)
Đất phù 
sa
10 kg
( 20-20-15)
4-5 kg urea
4-5 kg 
DAP
7-8 kg urê
7-8 kg urê
3 kg kali 
clorua
Phun KNO3 2 đợt, trước 
và sau trổ 7 
ngày,150g/bình 8 lít (4 
bình / công)
Đất phèn 15 kg
NPK 20-20-15
5-6 kg 
DAP
6-7 kg urê
5-6 kg urê
3 kg kali 
clorua
Phun KNO3 2 đợt, trước 
và sau trổ 7 
ngày,150g/bình 8 lít (4 
bình / công)
Đất phèn 
mặn
15 kg
NPK 20-20-15
5-6 kg 
DAP
7-8 kg urê
5-6 kg urê
3 kg kali 
clorua
Phun KNO3 2 đợt, trước 
và sau trổ 7 
ngày,150g/bình 8 lít (4 
bình / công)
Nguồn: Viện Lúa ĐBSCL 2005
- Sử dụng giống chống chịu sâu bệnh 
Theo Nguyễn Công Thuật (1998) cho rằng sử dụng giống kháng 
được coi là một trong những biện pháp then chốt trong phòng trừ tổng hợp 
sâu bệnh hại lúa. Khoảng 70% diện tích lúa ở nước ta hiện nay được trồng 
bằng giống lúa chống chịu với các sâu bệnh hại chủ yếu như rầy nâu, bệnh 
đạo ôn, bạc lá.
Ngoài lợi ích về kinh tế sử dụng giống kháng sâu bệnh đã được đặc 
biệt quan tâm vì nó phù hợp với những nguyên lý và mục tiêu của phòng trừ 
tổng hợp như:
12
+ Dễ áp dụng trong các điều kiện, hoàn cảnh và trình độ sản xuất 
khác nhau
+ Ít tốn kém nên nông dân có thể sử dụng rộng rãi.
+ Giảm được một phần rất lớn lượng thuốc hoá học phòng trừ sâu 
bệnh trong sản xuất.
+ Tránh được ô nhiễm môi trường, bảo vệ được các loài thiên địch 
trong tự nhiên
+ Giữ được cân bằng trong các hệ sinh thái nông nghiệp, góp phần 
xây dựng hệ thống nông nghiệp bền vững.
- Sử dụng thiên địch.
Trên đồng ruộng, có rất nhiều loài sinh vật là thiên địch của dịch hại, 
góp phần rất lớn trong việc hạn chế sự phát triển của dịch hại trong tự nhiên, 
giữ thế cân bằng trong hệ sinh thái đồng ruộng. Thực tế đã chứng minh có rất 
nhiều trường hợp dịch hại bị tiêu diệt bởi thiên địch mà con người không cần 
phải can thiệp vào bất cứ biện pháp nào. Trên ruộng lúa có nhiều khi phát 
hiện tỷ lệ trứng sâu đục thân lúa bị ong ký sinh tới 90%. Sức ăn của các loài 
thiên địch bắt mồi cũng rất lớn. Một con nhện Lycosa trưởng thành ăn mỗi 
ngày từ 5-15 con rầy nâu, một con sâu non của bọ rùa 8 chấm ăn mỗi ngày từ 
5-10 con mồi. Ở nước ta kết quả điều tra bước đầu cho thấy số lượng thiên 
địch rất phong phú. Chỉ riêng đối với sâu hại lúa đã phát hiện 344 loài thiên 
địch thuộc14 bộ, 53 họ, 205 giống gồm nhiện, côn trùng, tuyến trùng và 
virus. Chỉ riêng rầy nâu đã phát hiện và xác định 58 loài thiên địch (Võ Văn 
Á và ctv,1998)
Trong số 344 loài thiên địch trên thì nhóm bắt mồi ăn thịt chiếm đa số 
(58,8%). Sau đó là nhóm ký sinh (39,6%), còn lại là nhóm vi sinh vật gây 
bệnh cho sâu (Phạm Văn Lầm, 1994,trích dẫn bởi Võ Văn Á và ctv,1998). 
Phần lớn các loài sâu hại lúa đều có rất nhiều loài thiên địch, vai trò thiên 
địch thể hiện rất rõ đối rầy nâu, sâu đục thân, và sâu cuốn lá, bọ xít…
Làm thế nào để bảo vệ và tăng cường hoạt động của các loài thiên 
địch, theo Võ Văn Á và ctv (1998) cần thực hiện tốt các nội dung sau đây:
13
Bảo vệ các loài thiên địch khỏi bị độc hại do việc dùng thuốc hóa học 
bằng cách dùng các loại thuốc chọn lọc (có phổ tác dụng hẹp) thuốc ít hại đối 
với thiên địch, chỉ dùng thuốc trừ sâu khi cần thiết (tới ngưỡng phòng trừ), 
dùng thuốc dạng hạt rãi xuống đất. Không dùng thuốc hoá học đã hạn chế 
hoặc cấm sử dụng. Với lúa không dùng thuốc trong vòng 30 ngày sau khi sạ 
vì thời gian này thiên địch đang phát triển. người ta thấy rằng các loại thuốc 
hoá học có độ độc cao và có tác dụng phổ rộng như Wofatox (nhóm lân hữu 
cơ) Decis, Sherpa (nhóm cúc tổng hợp) không hạn chế được rầy nâu mà còn 
làm rầy bùng phát lên do thuốc diệt nhiều thiên địch. Các loại thuốc trừ sâu 
như Monitor, Basudin, Padan.. đều rất độc hại đối với các thiên địch trên trên 
ruộng lúa. Nơi không dùng thuốc trừ sâu tỷ lệ ong mắt đỏ ký sinh trên trứng 
một số côn trùng cánh vảy hại lúa có thể đạt tới 60-70%, nơi dùng 2-3 lần tỷ 
lệ này giảm chỉ còn 3,6-21%
Thực hiện các biện pháp để giúp thiên địch phát triển như giữ 
cho ruộng luôn ẩm hoặc giữ nước trong ruộng lúa, gieo trồng với mật độ 
thích hợp
 Mức gây hại kinh tế và ngưỡng phòng trừ.
Sâu hại thường gây ra những triệu chứng dễ nhận thấy trên đồng 
ruộng. Tuy vậy, khó có thể xác định được mức độ gây hại trên đồng ruộng sẽ 
ảnh hưởng đến năng suất là bao nhiêu. Trong một số trường hợp cây trồng có 
thể chịu đựng được với sâu bệnh ở một mức độ nhất định mà không ảnh 
hưởng tới năng suất lúc thu hoạch. Cây lúa khi bị sâu cắn phá một số dảnh sẽ 
đẻ thêm dảnh mới hoặc các dảnh còn lại sẽ cho hạt lúa mẩy hơn nên không 
ảnh hưởng tới năng suất. Tuy vậy khả năng này của cây trồng chỉ giới hạn ở 
một mức độ nhất định, nếu sâu bệnh phá hại nặng hơn thì cây trồng không thể 
tự đền bù lại năng suất được. Vì vậy nếu có thể xác định được thiệt hại về sản 
lượng là bao nhiêu, tương ứng với các mức độ thiệt hại do sâu bệnh gây ra 
trên đồng ruộng thì điều này rất có ý nghĩa, việc xử lý thuốc nhờ đó sẽ được 
thực hiện đúng lúc không quá sớm cũng không quá muộn và trong nhiều 
trường hợp có thể tránh được việc dùng thuốc 
14
Mức gây hại kinh tế là mật độ sâu bệnh đủ gây ra thiệt hại về kinh tế 
lớn hơn so với chi phí phòng trừ (Nguyễn Công Thuật, 1996).
Võ Văn Á và ctv (1998) ngưỡng kinh tế là mật độ dịch hại trên cây 
trồng mà ở đó khi tiến hành các biện pháp phòng trừ (nhất là biện pháp sử 
dụng thuốc hóa học) thì giá trị của phần nông sản thu thêm được do tiến hành 
phòng trừ sẽ cao hơn hoặc bằng với chi phí bỏ ra cho công việc phòng trừ 
(tức là phải có lãi hoặc hòa vốn) 
Bảng 3: Một số ngưỡng kinh tế đối với một số sâu hại
Nguồn: Võ Văn Á và ctv 1998
Đối với bệnh nhiều nhà khoa học đề nghị ngưỡng kinh tế khoảng 5-
10% số lá bị bệnh (với các bệnh đạo ôn, bạc lá) hoặc 5-10% số dảnh (bệnh 
đốm vằn).
Ngưỡng kinh tế đối với một số sâu hại được đề nghị dựa trên cơ sở 
sinh lý học của cây trồng, sở dĩ cây không bị giảm năng suất khi bị sâu hại ở 
một mức độ nhất định là do cây có khả năng “tự đền bù”. Theo Võ Văn Á và 
ctv (1998) khả năng tự đền bù của cây là khả năng cây có thể tự bù đắp những 
Tên sâu
Giai đoạn sinh trưởng 
của lúa
Ngưỡng kinh tế
Sâu đục thân 2 chấm
Đẻ nhánh
Bắt đầu trổ
Trỗ 50 %
0.8-1.2 ổ trứng/m2
0.2-0.4 ổ trứng/m2
0.4-0.6 ổ trứng/m2
Sâu cuốn lá lúa loại nhỏ Đòng – trổ 6-9 sâu non/m2
Rầy nâu Bắt đầu trổ- chín sữa 18-27 con/bụi
Bọ xít xanh Chín sữa 18-24 con bọ non/m2
Bị trĩ Đẻ nhánh 15% số lá bị hại
Sâu phao
Mạ
Đẻ nhánh
50% số lá
15% số lá
Sâu keo
Đẻ nhánh
Có đòng
25% số lá
15% số lá
Sâu đục thân
Đẻ nhánh
Đòng- trổ
10% nõn héo
5% số dảnh
Sâu cuốn lá nhỏ Đẻ nhánh
Đòng trổ
15% số lá
5% số lá
Bọ xít dài Trổ- chín 10-20 con/bụi
Rầy nâu Đẻ nhánh- trổ 1.5 con/dảnh
15
mất mát do dịch hai gây ra. Khả năng đền bù này xảy ra chủ yếu ở giai đoạn 
cây còn non, đang sinh trưởng mạnh, thể hiện tốc độ tăng trưởng nhanh về 
thân, lá, nảy chồi, để nhánh. Ở những giai đoạn này, nếu bị dịch hại ít thì với 
sức sinh trưởng đang mạnh mẽ, cây hoàn toàn có thể vượt qua những ảnh 
hưởng của dịch hại, tiến lên các giai đoạn phát triển sau một cách bình 
thường và cuối cùng không ảnh hưởng gì tới sản lượng. Khi đã qua giai đoạn 
sinh trưởng bước vào giai đoạn phát dục tức là giai đoạn hình thành hoa, trái, 
khả năng đền bù của cây sẽ yếu đi. Lúc này, nếu bị dịch hại thì rất dễ ảnh 
hưởng tới năng suất, việc phòng trừ cũng cần chú ý hơn.
Để giúp tăng cường khả năng đền bù của cây cần phải tạo điều kiện 
cho cây phát triển thuận lợi, chủ yếu bằng các phương pháp canh tác như bón 
phân, tưới nước đầy đủ, xới xáo đất…ngoài ra khả năng đền bù của cây còn 
phụ thuộc vào đặc điểm của giống. Những giống lúa ngắn ngày có sức đẻ 
nhánh mạnh và tập trung thường có khả năng đền bù mạnh hơn. Cần phải lợi 
dụng khả năng đền bù của cây để giảm bớt đi những can thiệp không cần thiết 
nhất là biện pháp hoá học. Ở giai đoạn sinh trưởng mạnh, khả năng đền bù 
cao, nếu có dịch hại thì cần bình tĩnh theo dõi, sử dụng các biện pháp cánh tác 
giúp cây trồng tăng cường sức phát triển, chỉ dùng thuốc hoá học khi dịch hại 
phát triển nhiều mà sức đền bù của cây và khả năng khống chế thiên địch 
không vượt qua được.
Cây lúa có khả năng đền bù với nhiều loài sâu bệnh hại thân, lá ở giai 
đoạn cây đang đẻ nhánh mạnh. Với giống lúa có thời gian sinh trưởng ngắn từ 
90-100 ngày, giai đoạn đẻ nhánh thường từ 20 ngày sau khi gieo (đếm được 
5-6 lá) đến 40-50 ngày; ở thời gian này nếu bị bọ trĩ, sâu cuốn lá nhỏ, sâu 
phao, sâu keo, sâu gai, rầy nâu, dòi đục lá, sâu năng, sâu đục thân, bệnh đốm 
nâu, …nói chung không cần dùng biện pháp nào để phòng trừ, kể cả việc 
dùng thuốc hoá học, chỉ cần chăm sóc đầy đủ là cây có thể phát triển vượt qua 
để tiếp tục sinh trưởng bình thường.
Đặc biệt trong giai đoạn này, trong các ruộng lúa các loài thiên địch 
đang tích luỹ và phát triển góp phần khống chế dịch hại, hỗ trợ tích cực cho 
khả năng đền bù của cây. Việc sử dụng thuốc trừ sâu trong giai đoạn này cần 
16
cân nhắc và thận trọng. Ngưỡng phòng trừ của các loại sâu bệnh ở giai đoạn 
lúa đẻ nhánh nói chung đều cao hơn giai đoạn lúa có đòng đến trổ, chín cũng 
là dựa vào khả năng đền bù của cây. Ở ruộng lúa được 35-40 ngày sau khi 
gieo, người ta đã cắt thử đi 25% số lá hoặc 40% số dảnh, nhận thấy sau đó lúa 
lại phát triển bình thường như không bị cắt và hoàn toàn không làm giảm 
năng suất, ngược lại trong một số trường hợp năng suất còn tăng ( do mật độ 
thân lá thích hợp cây sinh trưởng cân đối khoẻ mạnh hơn. Riêng đối với bệnh 
đạo ôn cháy lá, là loại bệnh phát triển mạnh ở giai đoạn lúa đẻ nhánh, khả 
năng đền bù của cây lúa có phần bị hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do tốc 
độ phát triển và khả năng huỷ diệt của bệnh rất mạnh nêu gặp điều kiện thời 
tiết thuận lợi ( mát lạnh, ẩm độ cao, ít nắng) (Võ Văn Á và ctv, 1998)
 Sử dụng thuốc hóa học trong IPM.
- Ưu của thuốc hoá học: Theo Võ Văn Á và ctv (1998) thuốc hoá học 
là một trong những biện pháp rất cần để phòng trừ dịch hại trong một tương 
lai còn dài, do có một số ưu điểm sau:
+ Tiêu diệt dịch hại mạnh mẽ nhanh chóng và triệt để nhất là khi 
chúng phát sinh mạnh mẽ đe doạ nghiêm trọng đến năng suất cây trồng, các 
biện pháp khác không thể ngăn nổi. 
+ Dùng thuốc có thể tiêu diệt hàng loạt dịch hại trong một thời 
gian ngắn hiệu quả rõ ràng 
+ Trong một thời gian ngắn có thể sử dụng trên một diện tích 
rộng lớn, nhất là với các phương tiện phun rãi hiện đại ( máy phun động cơ, 
máy bay rãi thuốc).
+ Với những tiến bộ của khoa học con người có thể sáng chế ra 
những loại thuốc ít độc với con người và môi trường.
- Các tác động xấu do thuốc hoá học trừ dịch hại gây ra:
Các loại thuốc hoá học ít hay nhiều đều có độc hại đối với con người, 
gia súc và các động vật có ít khác.
+ Tiêu diệt các loài thiên địch của sâu hại. 
17
+ Hình thành các loài chống thuốc. Thực tế cho thấy ngày càng 
có nhiều loài sâu chống thuốc làm cho liều lượng sử dụng tăng lên gây ra tốn 
kém và ô nhiễm môi trường 
+ Làm xuất hiện những đối tượng dịch hại quan trọng. người ta 
nhận thấy rằng ở những nơi có sử dụng thuốc trừ sâu nhiều hơn bình thường 
thì làm cho nhện đỏ phát triển trở thành đối tượng gây hại chủ yếu. Dùng 
nhiều thuốc trừ cỏ 2,4D để diệt cỏ lác và cỏ lá rộng sẽ làm cỏ hoà bản phát 
triển mạnh
+ Gây ra hiện tượng tái phát của dịch hại, có nhiều trường hợp 
năm đầu sử dụng thuốc hoá học, dịch hại có giảm đi, trong những năm sau 
tuy lượng thuốc sử dụng tăng lên nhưng dịch hại không những không giảm 
mà còn tăng hơn so với trước. Nguyên nhân của hiện tượng nay là do dùng 
nhiều thuốc hoá học đã dẫn tới việc mất cân bằng sinh thái, do thiên địch 
giảm sút, hình thành các loài dịch hại chống thuốc kích thích các loài sống sót 
sinh sản nhiều hơn. Khi một số loài sâu hại đã sống chung với một loại thuốc 
nào đó thì nhanh chóng trở nên chống với các loại thuốc hoá học cùng nhóm 
gọi là hiện tượng chống chéo, nguy hiểm hơn là sâu hại có thể chống với 
nhiều nhóm thuốc khác nhau gọi là hiện tượng chống đa tính. Gây nhiễm độc 
cho môi trường sống và để lại dư lượng trong nông sản (Võ Văn Á và 
ctv,1998).
Vì vậy việc sử dụng thuốc hoá học hợp lý trên đồng ruộng là rất quan 
trọng. Theo Võ Tòng Xuân (1993) việc dùng không đúng thuốc có thể :
- Không diệt được đối tượng gây hại và làm tăng cả số lượng côn 
trùng gây hại chính lẫn số côn trùng trước đó là đối tượng gây hại thứ yếu.
- Tạo ra những tập đoàn kháng thuốc 
- Gây hại trầm trọng cho người nông dân khi dùng thuốc hoặc các vi 
sinh vật không là đối tượng phải kiểm soát sống trong cùng một môi trường 
cũng bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
 - Những đối tượng gây hại do việc áp dụng những kỹ thuật mới 
không riêng gì đối với cây lúa. Tuy nhiên, để giải quyết một đối tượng gây 
hại, giải pháp trước mắt thường là xịt lại nhiều lần các loại nông dược. Quan 
18
điểm kiểm dịch ngày nay đã thay đổi, cùng với việc phát minh ra những nông 
dược tổng hợp tiên tiến. Những loại thuốc này không mắc tiền và dễ sử dụng, 
cho kết quả ngay, suốt kỷ nguyên nông dược này, quan điểm về xử lý dịch hại 
có nghĩa là diệt trừ tận gốc, phát hiện để diệt hết các loài dịch hại. Quan điểm 
loại trừ này đã được thay thế bằng quan điểm kiểm soát hợp lý, ở đây mục 
đích là kiểm soát dịch hại đến mức độ nếu xử lý tiếp tục sẽ không mang lại 
hiệu quả kinh tế, mật số thiên địch có thể chấp nhận được
Mục tiêu cuối cùng của thuốc hoá học là tiêu diệt dịch hại, bảo vệ cây 
trồng. Hiệu quả thuốc tức là hạn chế dịch hại tốt nhất bảo đảm năng suất cây 
trồng mà lại ít tốn kém chi phí nhất. Nếu dùng thuốc mà để lại các hậu quả 
xấu thì rõ ràng hiệu quả đã bị hạn chế, lợi bất cập hại. Để sử dụng thuốc 
BVTV có hiệu quả phòng trừ dịch hại cao giảm bớt chi phí cần phải thực hiện 
theo nguyên tắc 4 đúng:
- Đúng thuốc: mỗi loại thuốc có hiệu quả cao đối với một loại dịch hại 
nhất định. Cần biết loài dịch hại nào cần trừ để chọn đúng thuốc để đạt hiệu 
quả phòng trừ cao với loài dịch hại đó
- Đúng lúc: trong quá trình phát sinh, phát triển của dịch hại, có những 
giai đoạn dễ bị thuốc tiêu diệt, đó thường là lúc dịch hại mới phát sinh, tuổi 
phát dục còn non. Trong nhóm thuốc trừ bệnh có loại thuốc tác dụng phòng 
bệnh là chính, cần phun khi bệnh mới hoặc sắp phát sinh. Tránh phun thuốc 
lúc trời nắng gắt, sắp có mưa, có gió lớn, lúc hoa đang trổ rộ đặc biệt đối với 
các loại thuốc trừ cỏ tiền hoặc hậu nảy mầm phải sử dụng đúng thời gian qui 
định.
-Đúng liều lượng và nồng độ: liều lượng là lượng thuốc thành phẩm 
cần dùng cho một đơn vị diện tích. Còn nồng độ là lượng thuốc cần pha trong 
một lượng nước nhất định. Cần phải pha đúng nồng độ và liều lượng để bảo 
đảm thuốc bao phủ hết diện tích cây trồng đủ để diệt sâu bệnh, cỏ dại mà 
không gây hại cho con người. Không nên pha đậm đặc để ít nước đi.
- Đúng cách: cần phun thuốc vào chỗ sâu bệnh thường phát sinh, tập 
trung nhiều. Dùng thuốc trừ cỏ cho ruộng lúa cần phun trải đều trên mặt 
19
ruộng, tránh phun trùng lắp, chế độ nước theo yêu cầu. pha thuốc cho tan đều 
trong bình. (Võ Văn Á và ctv,1998).
Theo Chi Cục BVTV An Giang (2004) chương trình IPM trên lúa 
được triển khai ở An Giang từ năm 1992-1997 với nguồn kinh phí do FAO tài 
trợ, qua chương trình này nông dân đã hiểu được tầm quan trọng của hệ sinh 
thái đồng ruộng và trong thái độ của họ về cách quản lý dịch hại đã có sự thay 
đổi rõ nét nhất là với côn trùng gây hại, sử dụng thuốc trừ sâu thận tr0ọng 
hơn. Tuy nhiên cốt lõi của chương trình IPM là “cân bằng sinh thái” nặng về 
quản lý sâu hơn là bệnh và cũng từ đó bộc lộ một số khuyết điểm cần được 
cải thiện. Và một trong những bước đột phá trong quản lý dịch hại trên lúa về 
sau đó là chương trình FPR (chương trình nông dân tham gia thí nghiệm)
2.1.2. Chương trình FPR.
Theo Chi Cục BVTV An Giang (2004) Chương trình FPR được triển 
khai rộng khắp ở An Giang từ những năm 1994. Mục tiêu của chương trình là 
kêu gọi nông dân tự làm thí nghiệm trong đồng ruộng những tiến bộ mới 
trong sản xuất nông nghiệp mà đặc biệt là trong canh tác lúa. 
Chương trình FPR khuyến khích nông dân tự làm thí nghiệm trong 
một diện tích nhỏ trên mảnh ruộng của mình vì vậy họ có thể tự học, chấp 
nhận những kỹ thuật mới và phổ biến những kỹ thuật này đến những nông 
dân khác. Điều này giúp nông dân và nhà khoa học làm việc gần gũi nhau 
hơn trong nghiên cứu để thu thập dữ liệu, phân tích và đi đến kết luận cuối 
cùng (IRRI, 2005). 
FPR nhấn mạnh đến hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu đầu vụ bởi các nhà 
côn trùng và sinh thái học thấy rằng có sự chuyển dịch côn trùng có lợi từ đầu 
bờ, vườn…đến ruộng lúa ngay sau khi gieo cấy để thành lập một mối tương 
quan trong hệ sinh thái đồng ruộng. Giai đoạn này rất quan trọng đến hệ cân 
bằng sinh thái về sau. Việc trừ sâu sớm vô tình tiêu diệt hệ côn trùng có ích 
trên ruộng lúa và phá vỡ hệ cân bằng giữa thiên địch và sâu hại đưa đến tình 
trạng dịch hại vượt qua sự kiểm soát trong tự nhiên gây nên sự bộc phát dịch 
hai về sau. Tuy nhiên, chương trình FPR chỉ tập trung cho nông dân một giải 
pháp thử nghiệm ngoài đồng ruộng trên một đơn vị diện tích nhỏ để ứng dụng 
20
cho một đơn vị diện tích lớn hơn trên đồng ruộng riêng của mình và cũng chỉ 
nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của việc phun thuốc trừ sâu đầu vụ 
nhưng vẫn chưa giúp nông dân hoàn thiện kỹ năng trong canh tác lúa của họ 
(Chi Cục BVTV An Giang 2004)
2.1.3. Quản lý dinh dưỡng tổng hợp.
Theo Chu Văn Hách (2002) cây lúa chỉ hấp thu được khoảng 40% 
lượng phân đạm cung cấp, còn 60% thì thất thoát theo các con đường khác 
nhau. Như vậy, cần tăng cường hiệu lực của phân bón để đạt được hiệu quả 
cao nhất.
Phương pháp hiện đại: sử dụng máy đo diệp lục tố hoặc bảng so màu 
lá lúa.
Ảnh hưởng của phân bón tới phẩm chất gạo xuất khẩu: Nếu bón không 
cân đối giữa các yếu tố đạm (N), lân (P), kali (K) sẽ ảnh hưởng tới phẩm chất 
gạo sau xay chà như: tỷ lệ gạo lức, tỷ lệ gạo gãy…
Ảnh hưởng của phân bón tới năng suất lúa: các kết quả nghiên cứu cho 
thấy rằng nếu bón phân không cân đối thì năng suất sẽ giảm ở các vụ sau. 
Trong vụ Hè-Thu nếu không bón lân thì không thể đạt năng suất cao, như vậy 
lân là yếu tố quan trọng trong vụ Hè-Thu
2.1.4. Thâm canh tổng hợp:
Theo Chu Văn Hách (2002) tám bước trong qui trình thâm canh tổng hợp:
Bước 1: Chọn giống thích hợp và có chất lượng cao
- Các giống thích hợp cho xuất khẩu là những giống hạt dài, ít bạc 
bụng, hàm lượng Amylose thấp
Giống có tỷ lệ nẩy mầm cao, không mang mầm bệnh, không mọt, tạp 
lẫn.
Nếu sản xuất lúa thương phẩm chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu thì tối 
thiểu cũng phải là giống xác nhận
Bước 2: Chuẩn bị đất
- Việc làm đất kỷ tạo cho mặt ruộng bằng phẳng giúp cây mạ non mọc 
đều, đặc biệt là thuận lợi cho việc điều tiết nước. Cày ải giúp cho hoạt động 
21
của các vi sinh vật, tạo điều kiện khoáng hoá, tăng cường chất dinh dưỡng 
cho đất.
Bước 3: Hạn chế mật độ sạ bằng cách sử dụng máy sạ hàng.
- Sạ thưa cây khoẻ mạnh, cứng cáp hơn sạ dầy, hạn chế sâu bệnh và 
tránh được đổ ngã về sau
- Sạ hàng là biện pháp tốt nhất để tiết kiệm giống. Lượng giống tối đa 
cho mỗi ha từ 75-100kg giống là đủ trong khi sạ lan từ 200-300 kg/ha. Áp 
dụng sạ hàng tiết kiệm được 50 % lượng giống. Mặt khác sạ hàng dễ chăm 
sóc dễ khử lẫn và dễ đạt tiêu chuẩn làm giống cho vụ sau.
Bước 4: Điều tiết nước hợp lý
- Sau khi sạ 3-5 ngày đưa nước vào ruộng với độ sâu khoảng 5 cm và 
giữ nước liên tục sẽ tránh được cỏ dại.
- Trước khi bón phân, rút nước cho láng mặt ruộng là đủ. Sau khi bón 
phân 1 ngày tiếp tục đưa nước vào ruộng từ từ và duy trì ở mức 5 cm. Không 
nên để ruộng khô hoặc ngập xen kẽ sẽ mất đi một lượng dinh dưỡng đáng kể 
đặc biệt là đạm
Bước 5: Bón phân cân đối theo bảng so màu lá lúa.
- Bón phân cân đối là khâu hết sức quan trọng để đạt năng suất cao, 
phẩm chất tốt, và tăng hiệu quả kinh tế. Có thể áp dụng máy đo diệp lục tố 
hoặc bảng so màu lá lúa để quyết định việc bón phân cho lúa. Nếu bón phân 
theo các công cụ này sẽ tiết kiệm được một lượng phân đạm đáng kể và đem 
lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Bước 6: Phòng trừ dịch hại theo IPM
- Ưu tiên sử dụng giống kháng, hạn chế việc sử dụng các loại thuốc 
hoá học, đặc biệt là các loại thuốc có tính độc cao. Đối vớ
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 dieu tra va danh gia hieu qua cua chuong trinh 3giam 3 tang tai huyen cho moi tinh an giang nam .PDF dieu tra va danh gia hieu qua cua chuong trinh 3giam 3 tang tai huyen cho moi tinh an giang nam .PDF