Quốc hội Việt Nam hiện nay cũng thực hiện
cả ba chức năng tổng quát của nghị viện nói
chung đã được nêu trên. Tuy nhiên về mặt văn
bản, Hiến pháp 1992 diễn giải các chức năng
của Quốc hội có phần cụ thể hơn mà nhiều
học giả cho rằng Quốc hội Việt Nam có bốn
chức năng - đó là chức năng lập hiến, chức
năng lập pháp, chức năng quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước và chức năng giám
sát tối cao. Điều đáng lưu ý là với chức năng
lập hiến, Quốc hội Việt Nam có thể được xem
vừa là Quốc hội lập hiến, vừa là Quốc hội lập
pháp. Như vậy, điều trần ủy ban nói riêng và
các phương thức hoạt động của nghị viện nói
chung càng trở nên có vai trò và ý nghĩa cực kỳ
quan trọng bởi chúng tác động tới toàn bộ dân
tộc. Ở trên có nói tới điều trần nhằm tới việc
thiết lập chính sách lập pháp. Nhưng với chức
năng lập hiến của Quốc hội Việt Nam, nếu việc
sửa đổi Hiến pháp được cho phép, thì điều trần
(đối với Quốc hội Việt Nam) còn được xem là
một phương thức quan trọng liên quan tới việc
thiết kế chính sách lập hiến. Vì vậy, tất cả các
kỹ năng liên quan tới điều trần cần phải được
khẩn trương tạo lập để đáp ứng nhu cầu sửa
đổi Hiến pháp. Muốn có được các kỹ năng này
trước tiên cần phải có tri thức về nó, và nó phải
được thực thi trong thực tế.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 167 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trần ủy ban của quốc hội và sự cần thiết tiếp nhận chế định này ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 53
2011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I. Khái niệm và phân loại điều trần ủy ban
Ngày nay, điều trần ủy ban (committee
hearings) thường được hiểu là điều trần nghị
viện hay điều trần quốc hội (sau đây gọi chung
là nghị viện). Richard C. Sachs cho rằng, điều
trần của nghị viện là một phương thức chính
thức và chủ yếu mà các ủy ban sử dụng để thu
thập và phân tích các thông tin trong các giai
đoạn trước khi thiết lập chính sách lập pháp1.
Tại phiên điều trần, một hoặc nhiều ủy ban của
nghị viện tiến hành điều tra một vấn đề thông
qua việc mời mọi người cung cấp bằng chứng
tại một cuộc thẩm vấn công khai. Tại đây, mọi
người có cơ hội trình bày quan điểm của mình
và giúp các thành viên ủy ban nắm các thông
tin đầy đủ và chính xác hơn bởi có thể kiểm tra
tất cả các mặt liên quan của vấn đề cần điều
tra2. Điều trần được nhận thức chung là một
phương thức quan trọng để tiếp cận tới việc
thông qua một đạo luật mới hay sửa đổi, bổ
sung một đạo luật hiện hành, cũng như để tiến
hành các công việc khác thuộc chức năng của
nghị viện.
Điều trần ủy ban nằm trong cơ cấu hỗ trợ
lập pháp của nghị viện. Vấn đề mấu chốt của
toàn bộ quá trình này là “thông tin” và “nhận
thức”, có nghĩa là nếu không có thông tin và
nhận thức cần thiết, chính xác và đúng đắn thì
đạo luật được ban hành khó có thể đi vào cuộc
sống hay khó có được tác dụng xã hội thật sự
theo định hướng nhất định, và hiệu quả hoạt
động của nghị viện có thể khó tìm kiếm được
sự tin tưởng từ phía người dân. Thông qua điều
trần, các thành viên ủy ban thu thập được các
thông tin về các quan hệ xã hội đang cần điều
tiết. Ở một phương diện khác có tính chuyên
(*) TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
(1) Richard C. Sachs, Hearings in the U.S. Senate: A Guide for Preparation and Procedure CRS Report for Congress, Updated August
19, 2003, Order Code RL30548, Congressional Research Service- The Library of Congress; Wikipedia, the free encyclopedia, United
States congressional hearing, p.1.
(2) Legislative Council, Committee Hearings- Giving evidence in person, London.
Khác với thời kỳ chiến tranh, Quốc hội Việt Nam ngày nay có vai trò rất lớn và có ý nghĩa quyết định trong
việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên việc tìm kiếm cho Quốc hội các phương thức hoạt động có hiệu
quả vẫn đang là nỗi trăn trở của không ít các vị Đại biểu Quốc hội, các học giả, các nhà chính trị và người dân.
Để góp phần tìm kiếm một phương thức như vậy, bài viết này giới thiệu “Điều trần ủy ban” hiện đang được
sử dụng rất hiệu quả tại nhiều nước trên thế giới, đồng thời trao đổi ý tưởng tiếp nhận chế định này tại Việt
Nam hiện nay.
NGô HUY CƯơNG *
ĐIỀU TRẦN ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI
VÀ SỰ CẦN THIẾT TIẾP NHẬN CHẾ ĐỊNH NÀY Ở VIỆT NAM
6 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
môn cao hơn, các thành viên ủy ban đôi khi đưa
ra các nhận định và thu hút các đồng nghiệp
của họ vào các cuộc thảo luận liên quan3. Đây
được xem là một hoạt động ở trình độ cao hơn
so với việc tiếp cận nhân chứng để thu thập các
thông tin đơn thuần. Như vậy có thể hiểu, điều
trần ủy ban có hai chức năng cơ bản nhưng ở
mức độ cao thấp khác nhau: Thứ nhất là chức
năng thông tin (hay tiếp nhận); và thứ hai là
chức năng nhận thức. Nắm bắt được các thông
tin cần thiết và chính xác là cơ sở cho việc
phân tích, trao đổi để có được nhận thức đúng
đắn về sự vật, hiện tượng, rồi trên cơ sở đó
thiết lập được chính sách công thích hợp.
Điều trần ủy ban có thể được chia thành
nhiều loại thích hợp với việc thực hiện các
chức năng của nghị viện. Do đó, nói tới phân
loại điều trần không thể không nói tới các chức
năng của lập pháp. Ngay từ thủa ban đầu, nghị
viện hay lập pháp đã có chức năng giới hạn
quyền lực của chính phủ hay hành pháp. Các
phương tiện để giới hạn hay kiềm chế hay hạn
chế quyền lực đó không gì khác hơn là quyết
định ngân sách và sau này là làm ra các đạo
luật. Ngày nay người ta thường xem lập pháp
có ba chức năng cơ bản xét trong mối quan hệ
với hành pháp: (1) Chức năng giới hạn, mà với
nó lập pháp làm ra các đạo luật ấn định khuôn
khổ cho hoạt động của hành pháp, và quyết
định ngân sách, có nghĩa là giới hạn chi tiêu
công...; (2) chức năng kiểm soát, mà với nó lập
pháp kiểm tra, giám sát, xem xét việc thi hành
các giới hạn được ấn định trong các đạo luật
và trong các quyết định ngân sách; (3) chức
năng khuyến nghị và phản biện, mà với nó
lập pháp đòi hỏi các cơ quan công quyền phải
hành động vì lợi ích của nhân dân, và phản
biện các chính sách của hành pháp. Từ đó và
từ thực tiễn hoạt động, điều trần ủy ban có thể
được chia thành bốn loại căn cứ vào mục tiêu
của cuộc điều trần, bao gồm:
1. Điều trần lập pháp (legislative hearings).
Đây là loại điều trần thường gặp nhất. Nó được
sử dụng để thu thập thông tin về các biện pháp
hay các vấn đề chính sách để làm luật. Điều trần
loại này có thể được xem như một diễn đàn thu
hút mọi người đưa ra các thông tin và ý kiến
của mình. Trong loại điều trần này có thể phân
chia thành hai tiểu phân loại nhỏ tùy theo hoàn
cảnh tổ chức cuộc điều trần. Tiểu phân loại thứ
nhất là điều trần được tổ chức khi đã có một
đạo luật dự thảo được đệ trình. Điều trần theo
tiểu phân loại này nhằm tìm kiếm thông tin
liên quan đến đạo luật dự thảo. Tiểu phân loại
thứ hai là điều trần được tổ chức khi chưa có
đạo luật dự thảo được đệ trình. Điều trần theo
tiểu phân loại này có mục đích thu thập thông
tin cho việc thiết kế đạo luật dự thảo. Người
ta còn chia điều trần lập pháp thành điều trần
bắt buộc và điều trần lựa chọn. Điều trần bắt
buộc thường được quy định rõ trong đạo luật
hay trong bộ thủ tục của nghị viện. Còn điều
trần lựa chọn là điều trần do ủy ban cân nhắc
tiến hành.
2. Điều trần giám sát (oversight hearings).
Điều trần loại này gắn liền với chức năng giám
sát của nghị viện đối với việc thực hiện chính
sách công hay các hoạt động khác của hành
pháp phải có sự cho phép của nghị viện. Nó
được xem là một kỹ thuật mà ủy ban có thể
sử dụng để đánh giá các hoạt động này của
hành pháp4. Điều trần loại này, tới lượt nó, lại
được chia thành hai tiểu phân loại: thứ nhất,
điều trần thực hiện nhiệm vụ theo dõi; và thứ
hai, điều trần đánh giá kết quả. Khi ủy ban cho
rằng có vấn đề trong việc thực hiện chính sách
công hay hoạt động, thì có thể sử dụng điều
trần theo tiểu phân loại thứ nhất nêu trên. Điều
trần theo tiểu phân loại thứ hai có thể được tiến
hành đối với những hoạt động đã hết phép mà
cần được cho phép tiếp.
3. Điều trần điều tra (investigative hearings).
Đây là một phương thức thường được sử dụng
trong các trường hợp có sự nghi ngờ về hành
động sai trái của chính quyền, hoặc có nhu cầu
về một giải pháp lập pháp. Hoạt động điều trần
(3) Walter J. Oleszek, Congressional Procedures and the Policy Process, Fifth edition, CQ Press, Washington, DC, 2001, p. 91.
(4) Richard C. Sachs, Types of Committee Hearings, CRS Report for Congress, June 24, 2004.
Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 73
2011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
này đòi hỏi phải có một thủ tục chặt chẽ và
khác biệt so với các loại điều trần khác. Lưu ý
rằng, điều trần điều tra có thể diễn ra độc lập
với hoạt động của tư pháp về cùng một vụ việc
bởi vì mục đích của điều trần và hoạt động tư
pháp là khác nhau.
4. Điều trần phê chuẩn (confirmation
hearings). Nghị viện có thể có quyền hạn
trong việc phê chuẩn các điều ước quốc tế hay
các chức danh hành pháp hoặc tư pháp, hay có
thể chỉ định những chức danh thực hiện các
hoạt động quan trọng cần sự cho phép của nghị
viện. Do đó, điều trần loại này giúp nghị viện
thu thập và xem xét các thông tin để đưa ra
quyết định phê chuẩn.
Việc phân loại như trên rất quan trọng
trong việc thiết lập các quy chế pháp lý
khác nhau, nhất là về thủ tục cho từng loại
điều trần. Tuy nhiên cần hiểu, việc phân
loại không có tính chất tuyệt đối. Richard
C. Sachs cho rằng, tất cả các loại điều trần
đều có chung một mục đích chính thức là thu
thập thông tin cho hoạt động của ủy ban mà
thông thường là làm luật, thậm chí ngay cả
đối với loại điều trần không được gọi là điều
trần lập pháp. Do đó các loại điều trần đều
có chung các đặc điểm. Ông lấy ví dụ điều
trần điều tra đôi khi được xem là điều trần
giám sát, và điều trần lập pháp cũng có thể
cung cấp cơ hội cho hoạt động giám sát5.
Các phân loại điều trần ủy ban đều có nền
tảng lý luận từ các chức năng tổng quát của
nghị viện bởi các chức năng này làm cho nghị
viện có các nhiệm vụ và hoạt động cụ thể.
Chẳng hạn: điều trần lập pháp giúp cho nghị
viện tạo lập ra giới hạn đối với hành pháp; điều
trần giám sát giúp cho nghị viện kiểm soát đối
với hành pháp
II. Ý nghĩa của điều trần
Nhận xét tổng quát về ý nghĩa của điều
trần ủy ban, Walter J. Oleszek nói: bề ngoài,
điều trần quan trọng trước hết được xem như
các công cụ tìm kiếm sự thật. Các nhân chứng
từ ngành lập pháp, các đại biểu quốc hội liên
quan, phát ngôn viên của các nhóm lợi ích, các
chuyên gia nghiên cứu, và các công dân hiểu
biết xuất hiện trước ủy ban để đưa ra các ý
kiến về những ưu và khuyết điểm của một dự
luật nhất định. Từ cuộc tiếp xúc này, các thành
viên ủy ban thu thập các thông tin cần thiết để
hành động như các nhà làm luật có hiểu biết.
Điều trần cũng giúp các thành viên ủy ban xác
định liệu có cần luật mới hay không hoặc liệu
những thay đổi trong việc áp dụng luật hiện
hành có đủ để giải quyết vấn đề xảy ra trong
tương lai hay không6. Jack Davies nói một
cách vắn tắt hơn rằng: “Điều trần ủy ban, thực
tế, cung cấp một diễn đàn ra quyết định cực kỳ
quan trọng”7.
Có thể thấy hoạt động điều trần ủy ban
dường như không thể tách rời khỏi hoạt động
của nghị viện, và ý nghĩa của nó vô cùng sâu
rộng không chỉ liên quan tới hoạt động của
nghị viện, mà còn liên quan tới việc xây dựng
văn hóa chính trị của một đất nước. Ở trên đã
nói tới mục đích chính của các cuộc điều trần
là tìm kiếm hay thu thập thông tin cho quá
trình ra quyết định và thiết kế chính sách công.
Rộng hơn mục đích đó, điều trần có nhiều ý
nghĩa chính trị và xã hội quan trọng mà có thể
phân tích, tóm lược như sau:
Thứ nhất, điều trần ảnh hưởng lớn tới chất
lượng của đạo luật được ban hành và là một
bộ phận quan trọng của qui trình lập pháp.
Khi giới thiệu cho công chúng biết “luật làm
luật” và “quy trình làm luật”, Jack Davies đã
nhận định, những nhà làm luật là những người
không chuyên sâu nhưng bị buộc phải quyết
định chính sách đối với hàng ngàn vấn đề cụ
thể tại mỗi kỳ họp, và họ bị dẫn dắt bởi nền
giáo dục chung, bởi nhận thức thông thường
của họ, bởi khuynh hướng bẩm sinh của họ,
bởi sự thành kiến của họ, và bởi thông tin và
những lời khuyên đưa tới họ từ những người
hỗ trợ khác về những phân đoạn của cộng
(5) Richard C. Sachs, Types of Committee Hearings, CRS Report for Congress, June 24, 2004.
(6) Walter J. Oleszek, Congressional Procedures and the Policy Process, Fifth edition, CQ Press, Washington, DC, 2001, p. 91.
(7) Jack Davies, Legislative Law and Process in a Nutshell, Second edition, St Paul, Minn. West Publishing Co., 1986, p. 94.
8 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
đồng8. Vì vậy, việc mang tới cho những nhà
làm luật thông tin cần thiết và chính xác là
một công việc hết sức quan trọng để họ đưa
ra quyết định kịp thời và đúng đắn. Muốn có
được những thông tin như vậy thì cần phải có
một cơ chế hay phương thức phù hợp và đáng
tin cậy. Phương thức này không gì khác hơn là
tiến hành các cuộc điều trần mà đã được hầu
hết các nền chính trị phương Tây lựa chọn.
Thứ hai, điều trần mang đến cho các nghị
sĩ cơ hội học tập. Ở Hoa Kỳ người ta cho rằng,
các nghị sĩ hay các đại biểu quốc hội là những
người luôn hướng ngoại (có nghĩa là chăm lo
tới người khác hơn bản thân mình), nên hoạt
động của họ phù hợp với hội họp để tìm kiếm
vấn đề hơn là việc buộc họ đóng kín cửa để
nghiên cứu. Do đó, việc các nghị sĩ hay đại
biểu quốc hội dùng nhiều thời gian hơn cho
các cuộc điều trần và ít thời gian cho việc đọc
tài liệu được xem là hoạt động có hiệu quả9.
Thông qua các cuộc điều trần, các nghị sĩ có
thể củng cố thêm các hiểu biết của mình.
Thứ ba, điều trần cho các nghị sĩ cơ hội thể
hiện và rèn luyện mình. Khi tiếp xúc với công
chúng, nghị sĩ có điều kiện thể hiện quan điểm
và phong cách sống của mình. Sự gần gũi với
quần chúng như vậy giúp cho các nghị sĩ rèn
luyện tác phong, tư thế của mình và tạo ra uy
tín chính trị trong dân chúng. Điều này gắn với
với đặc thù của nghề nghiệp chính trị.
Thứ tư, điều trần là một phương thức thúc
đẩy dân chủ. Có thể hiểu nghị sĩ hay đại biểu
quốc hội đại diện cho cử tri, tuy nhiên không
thể nghĩ và làm thay cho tất cả cử tri. Đôi khi
sự suy luận ý chí và nguyện vọng của cử tri
thiếu cơ sở thực tiễn. Đây là nguy có thể đẩy
đại diện của dân xa dần với xã hội, xa dần với
những người được đại diện. Vì vậy, điều trần
có thể được xem là phương thức tìm tới ý chí
và nguyện vọng thật của cử tri, và để cử tri tự
lo cho chính bản thân mình thông qua việc làm
chứng và cung cấp các thông tin, cũng như các
ý kiến về các vấn đề xã hội cần có giải pháp
lập pháp đúng đắn hơn.
Thứ năm, điều trần giúp cho người dân hiểu
biết hơn về các hoạt động của chính quyền và
tự mình có ý thức tốt hơn trong việc ủng hộ
cho chính quyền thiết kế và thực hiện các chính
sách công. Văn hóa chính trị của họ được hàng
ngày bồi bổ.
III. Thủ tục điều trần ủy ban và xử lý kết
quả điều trần
Việc tổ chức và tiến hành điều trần ủy ban
thông thường phải tuân thủ các thủ tục nhất
định nằm trong bộ thủ tục nghị viện. Các thủ
tục này có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi
chúng giúp cho ủy ban và các nghị sĩ thu lượm
được các kết quả đáng tin cậy và hữu dụng
nhằm tới các mục tiêu cao cả của hoạt động
nghị viện và không đánh mất đi những giá trị
cần bảo vệ trong hoạt động điều trần.
Thủ tục điều trần ủy ban bao gồm các qui
tắc ấn định và hướng dẫn quy trình và cách
thức tổ chức, tiến hành điều trần và xử lý kết
quả điều trần. Thông thường, người ta chia thủ
tục thành ba loại căn cứ vào các giai đoạn của
hoạt động điều trần, bao gồm thủ tục chuẩn bị
phiên điều trần, thủ tục điều hành phiên điều
trần, và thủ tục hoạt động sau phiên điều trần.
Trong thủ tục chuẩn bị phiên điều trần các vấn
đề sau thường được chú trọng: (1) lựa chọn vấn
đề để mở phiên điều trần; (2) lập chương trình
tiến hành điều trần; (3) yêu cầu sự trợ giúp của
các cơ quan, tổ chức từ bên ngoài và tìm kiếm
nhân viên bổ sung cho hoạt động điều trần;
(4) phiên điều trần chung (các ủy ban phối
hợp mở phiên điều trần); (5) thời gian tổ chức
điều trần; (6) lựa chọn và mời nhân chứng; (7)
chuẩn bị tài liệu tiến hành điều trần; (8) công
khai hoạt động điều trần; (9) chuẩn bị cơ sở
vật chất và chi phi cho phiên điều trần. Thủ tục
điều hành phiên điều trần phải bao gồm ít nhất
những vấn đề cơ bản như: chủ tọa, thành phần;
khai mạc, tạm ngừng, chấm dứt, kết thúc phiên
điều trần; chứng cứ và chứng minh; hỏi đáp và
(8) Jack Davies, Legislative Law and Process in a Nutshell, Second edition, St Paul, Minn. West Publishing Co., 1986, p. 91.
(9) Jack Davies, Legislative Law and Process in a Nutshell, Second edition, St Paul, Minn. West Publishing Co., 1986, p. 94.
Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 93
2011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
tranh luận; tài liệu tại phiên điều trần; và kết
luận. Thủ tục hoạt động sau phiên điều trần
cần lưu ý tới các vấn đề sau: văn bản hóa hay
tư liệu hóa toàn bộ diễn biến của phiên điều
trần và gửi tới những người có trách nhiệm;
xuất bản tài liệu về phiên điều trần. Lưu ý việc
xuất bản phẩm liên quan tới những phiên điều
trần có tác dụng to lớn trong việc nâng cao văn
hóa chính trị của nhân dân, dẫn dắt các ứng xử
của xã hội bởi tính chân thật và tầm cỡ chính
sách của nó.
Tiếp theo việc tiến hành phiên điều trần là
một hoạt động quan trọng để thực hiện chức
năng thứ hai của điều trần - đó là xử lý kết quả
điều trần. Về ý nghĩa, có thể nói việc xử lý kết
quả điều trần quan trọng nhất và được biết tới
nhiều nhất hiện nay là hoạt động đánh giá (the
markup). Thông thường sau cuộc điều trần, ủy
ban điều trần họp đánh giá dự luật được đem ra
điều trần. Thuật ngữ tiếng Anh “markup” (tạm
dịch là hoạt động đánh giá) có lẽ bắt nguồn từ
việc các nhà làm luật chấm điểm dự luật, sau
đó thay đổi ngữ nghĩa và cách dùng10. Có thể
hiểu, hoạt động đánh giá này là một quy trình
mà ủy ban của Quốc hội Hoa Kỳ hay hội nghị
lập pháp tiểu bang tranh luận, sửa chữa, và viết
lại dự luật được kiến nghị11.
Chức năng chủ yếu của đánh giá là giúp
cho các thành viên ủy ban điều trần đưa ra
quyết định về việc dự luật có nên sửa chữa lại
hay không và sửa chữa lại toàn bộ hay một
phần. Chủ tịch ủy ban trong trường hợp này có
các nhiệm vụ sau: (1) duy trì thủ tục phiên họp
đánh giá; (2) tìm kiếm sự nhất trí về các lĩnh
vực nếu có thể; và (3) cố gắng tìm kiếm giải
quyết các bất đồng thông qua sự thỏa hiệp.
Về mặt ý nghĩa, thông qua phiên họp đánh
giá, Chủ tịch ủy ban tranh thủ sự ủng hộ của các
thành viên trong ủy ban đối với dự luật mà Chủ
tịch ủy ban có thể phải báo cáo trước Quốc hội
bởi sự chia rẽ trong ủy ban có thể ảnh hưởng tới
việc thông qua dự luật tại Quốc hội12.
IV. Sự cần thiết tiếp nhận chế định điều
trần ủy ban vào Việt Nam hiện nay
Nếu điều trần là một phương thức hoạt động
có hiệu quả quan trọng của Quốc hội hay Nghị
viện ở các nước trên thế giới, thì chúng ta nên
có các nghiên cứu chuyên sâu và cụ thể hơn về
việc tiếp nhận nó trong điều kiện tổ chức và
hoạt động của Quốc hội Việt Nam hiện nay.
Có thể hiểu theo một nghĩa nào đó, Quốc
hội Việt Nam trong một số năm qua đã có các
hoạt động phản ánh một số khía cạnh khác
nhau của điều trần. Điều đó thể hiện sự tất yếu
của điều trần trong hoạt động của Quốc hội
bởi Quốc hội không thể không thực hiện chức
năng của mình, mà việc thực hiện chức năng
đầy đủ của mình không thể không tìm kiếm
đến phương thức hoạt động điều trần ở mức độ
này hay ở mức độ khác. Trong bài viết “Điều
trần tại ủy ban: Nghiên cứu khả năng áp dụng
ở Việt Nam” đăng tải liên tiếp trên hai số Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp tháng 8 và tháng 9
năm 2007, Nguyễn Đức Lam đã đưa ra một số
phân tích và đánh giá các khía cạnh khác nhau
của điều trần đã được tiến hành ở Việt Nam.
Tuy nhiên còn quá nhiều vấn đề liên quan cần
phải bàn. Chẳng hạn: các hoạt động như vậy
có tính chất thường xuyên với ý thức như một
phương thức chủ yếu của quy trình lập pháp,
ra quyết định hoặc giám sát hay không? Phải
chăng kết quả của các hoạt động như vậy có
thể bị lãng quên ngay sau khi kết thúc? Các
hoạt động như vậy chưa có sự thống nhất cao
trong Quốc hội? và Chưa có một thủ tục cần
thiết cho hoạt động như vậy?...
Quốc hội chỉ có thể hoạt động có hiệu quả
khi có được phương thức hoạt động thích hợp.
Thật khó khăn khi tìm ra các phương thức hoạt
động thích hợp cho Quốc hội Việt Nam hiện
nay bởi đa phần các đại biểu Quốc hội hoạt
động không chuyên trách. Số lượng đại biểu
chuyên trách rất ít, hầu hết thuộc các ủy ban
với bộ phận giúp việc còn nhiều hạn chế cả về
(10) Walter J. Oleszek, Congressional Procedures and the Policy Process, Fifth edition, CQ Press, Washington, DC, 2001, p. 95- 96.
(11) Wikipedia, Markup (legislation), 9/18/2010.
(12) Walter J. Oleszek, Congressional Procedures and the Policy Process, Fifth edition, CQ Press, Washington, DC, 2001, p. 96.
10 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
số lượng và chất lượng. Vì vậy, việc tìm kiếm
phương thức hoạt động có hiệu quả cho các đại
biểu chuyên trách thuộc các ủy ban có ý nghĩa
rất thiết thực. Phương thức hoạt động cần tìm
kiếm nhất trong trường hợp này có lẽ không
thể khác hơn phương thức hoạt động nằm
trong giai đoạn trước các kỳ họp bởi giai đoạn
này phải đưa ra được các chuẩn bị hữu ích cho
việc quyết định tại kỳ họp với thời gian họp
hạn chế trong khoảng non hoặc già một tháng.
Các nghiên cứu ở trên đã cho thấy, điều trần là
phương thức hoạt động hữu ích bậc nhất trong
giai đoạn trước khi thông qua các đạo luật và
tuyên bố các chính sách công. Như vậy có thể
nói, đó chính là một phương thức thích hợp
nhất cần phải có để nâng cao hiệu quả của các
hoạt động của Quốc hội Việt Nam.
Ngoài sự cần thiết của điều trần đối với các
hoạt động của Quốc hội, có lẽ cần phải nhắc
tới việc xây dựng nền dân chủ do Đảng khởi
xướng như một mục tiêu quan trọng của đất
nước và của xã hội Việt Nam. Vì thế, tiếp nhận
điều trần là một bước quan trọng trong việc
thúc đẩy dân chủ bởi có thể hiểu, một trong
những yếu tố của dân chủ là người dân được
tham gia vào quy trình ra quyết định và thiết
kế chính sách, và hoạt động điều trần có thể
làm thỏa mãn được phần nào yếu tố đó.
Quốc hội Việt Nam hiện nay cũng thực hiện
cả ba chức năng tổng quát của nghị viện nói
chung đã được nêu trên. Tuy nhiên về mặt văn
bản, Hiến pháp 1992 diễn giải các chức năng
của Quốc hội có phần cụ thể hơn mà nhiều
học giả cho rằng Quốc hội Việt Nam có bốn
chức năng - đó là chức năng lập hiến, chức
năng lập pháp, chức năng quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước và chức năng giám
sát tối cao. Điều đáng lưu ý là với chức năng
lập hiến, Quốc hội Việt Nam có thể được xem
vừa là Quốc hội lập hiến, vừa là Quốc hội lập
pháp. Như vậy, điều trần ủy ban nói riêng và
các phương thức hoạt động của nghị viện nói
chung càng trở nên có vai trò và ý nghĩa cực kỳ
quan trọng bởi chúng tác động tới toàn bộ dân
tộc. Ở trên có nói tới điều trần nhằm tới việc
thiết lập chính sách lập pháp. Nhưng với chức
năng lập hiến của Quốc hội Việt Nam, nếu việc
sửa đổi Hiến pháp được cho phép, thì điều trần
(đối với Quốc hội Việt Nam) còn được xem là
một phương thức quan trọng liên quan tới việc
thiết kế chính sách lập hiến. Vì vậy, tất cả các
kỹ năng liên quan tới điều trần cần phải được
khẩn trương tạo lập để đáp ứng nhu cầu sửa
đổi Hiến pháp. Muốn có được các kỹ năng này
trước tiên cần phải có tri thức về nó, và nó phải
được thực thi trong thực tế.
V. Một số kiến nghị tổng quát
Để nâng cao hơn nữa vai trò của Quốc hội
trong đời sống của đất nước, để Quốc hội thực
hiện được tốt các chức năng của mình do Hiến
pháp giao cho, và để dành được sự qúy trọng
hơn nữa của cử tri, Quốc hội cần phải tiến hành
bổ sung phương thức điều trần ủy ban vào các
đạo luật liên quan tới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội, đồng thời khẩn trương xây dựng Bộ
thủ tục của Quốc hội mà trong đó có thủ tục
điều trần ủy ban.
Việc tiếp nhận chế định điều trần cần chú
ý tới tất cả các loại điều trần và phải xem xét
chúng một cách đầy đủ, toàn diện trong hệ
thống các phương thức tiếp cận thông tin để
các đại biểu Quốc hội thực hiện tốt chức năng
và nhiệm vụ đại biểu của mình mà không thể
coi nhẹ loại điều trần nào.
Muốn có được hoạt động điều trần có hiệu
quả không thể không chú ý tới việc xây dựng
đội ngũ nhân viên giúp việc các ủy ban và tìm
kiếm một cách chân thành và công tâm đội ngũ
cộng tác viên có khả năng và trình độ từ các
cơ quan, tổ chức bên ngoài Quốc hội. Thực tế
hoạt động của Quốc hội trong những năm qua
cho thấy, Quốc hội nếu có các nhân viên giúp
việc tận tâm và nếu tận dụng được một cách
đúng đắn và công tâm các chuyên gia giỏi từ
bên ngoài cùng với một phương thức hoạt động
tốt, thì Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại
2005, và Luật Doanh nghiệp 2005 không
thể có nhiều khiếm khuyết đến như thế. Việc
xây dựng đội ngũ nhân viên không phải chỉ
(Xem tiếp trang 20)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_tran_uy_ban_cua_quoc_hoi_va_su_can_thiet_tiep_nhan_che.pdf