Điều trị Aspirin liều thấp ở thai chậm tăng trưởng trong tử cung từ tuần thứ 28‐32 của thai kỳ tại bệnh viện Hùng Vương

Về băng huyết sau sinh trong nghiên cứu của chúng tôi có 2 trường hợp, chiếm tỷ lệ 4,35%. Theo thống kê tỷ lệ băng huyết sau sinh tại bệnh viện Hùng Vương vào năm 2005 là 1,5%(13). Tuy nhiên trong nghiên cứu của Vũ Thị Nhung năm 2007, tỷ lệ băng huyết sau sinh tại bệnh viện Hùng Vương là 15,38%, trong đó một nửa nguyên nhân là do đờ tử cung(14). Tỷ lệ băng huyết sau sinh trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nhưng vì mẫu nghiên cứu nhỏ và 2 trường hợp này đều có nguy cơ của băng huyết sau sinh là đa sản (đã sinh từ 2 lần trở lên) lượng máu mất là 500ml và 600ml vì vậy chấp nhận được trong dân số chung, phù hợp với nghiên cứu của Trudinger cũng không tìm thấy sự khác biệt giữa hai nhóm về tỷ lệ băng huyết sau sinh ở mẹ(14) hay nghiên cứu của K.Harrington cho thấy không làm tăng có ý nghĩa tỷ lệ băng huyết sau sinh thậm chí các thai phụ được dùng ASA đến tuần thứ 37 khi so sánh nhóm điều trị với nhóm chứng (1,9% so với 0%)(14). Về so sánh các xét nghiệm đông máu trước và sau khi dùng thuốc ASA trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các xét nghiệm đều trong giới hạn bình thường, sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê với các giá trị P đều > 0,05. Như vậy, cả trên lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng đều không thấy sự tăng nguy cơ chảy máu đối với thai phụ khi dùng ASA liều thấp. Trong nghiên cứu của tác giả Lesley có sự đánh giá phân giải thromboxane B2 cho thấy nồng độ throboxane B2 ở những trường hợp dùng ASA là 1pg/mL (dao động từ 0‐6 pg/mL) và trong nhóm chứng là 97 pg/mL (dao động từ 9‐311 pg/mL)(9). Tác giả kết luận điều này chỉ ra đã có một sự ức chế hầu như hoàn toàn thromboxane B2 ở nhóm dùng thuốc. Như vậy tính an toàn của ASA liều thấp trong thai kỳ của hầu hết các nghiên cứu đều nhất quán và đã được chứng minh. Hạn chế Nghiên cứu được thiết kế theo loại hình nghiên cứu quan sát nên kết quả thu được có giới hạn trên phương diện bằng chứng y khoa. Do nghiên cứu của chúng tôi là báo cáo hàng loạt ca, là loại nghiên cứu được xem là chưa đủ mạnh khi khảo sát các mối liên quan giữa các biến số.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 76 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị Aspirin liều thấp ở thai chậm tăng trưởng trong tử cung từ tuần thứ 28‐32 của thai kỳ tại bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 95 ĐIỀU TRỊ ASPIRIN LIỀU THẤP Ở THAI   CHẬM TĂNG TRƯỞNG TRONG TỬ CUNG TỪ TUẦN THỨ 28‐32   CỦA THAI KỲ TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG  Ngô Thị Bình Lụa*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang*  TÓM TẮT  Mở đầu: Ước tính có khoảng 3 – 10 % tỉ lệ là thai chậm tăng trưởng trong tử cung trong số trẻ sinh ra ở  các nước phát triển, khoảng 6 – 30% ở các nước đang phát triển. Trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2500 gram có tỉ lệ  tử vong cao gấp 5 đến 30 lần so với trẻ sơ sinh có cân nặng ở bách phân vị 50 so với tuổi thai. Aspirin dùng hiệu  quả trong thai chậm tăng trưởng trong tử cung qua một số nghiên cứu phân tích gộp trên thế giới.  Mục tiêu: Khảo sát hiệu quả của Aspirin liều thấp trong điều trị thai chậm tăng trưởng trong tử cung ở  tuổi thai từ tuần 28‐32  Phương pháp: Báo cáo loạt ca, thực hiện trên các thai kỳ trong 3 tháng cuối thai kỳ, chẩn đoán thai chậm  tăng trưởng trong tử cung, tại bệnh viện Hùng vương từ 09/2012 đến 04/2013.   Kết quả: Thời gian dùng Aspilets trung bình là 22,3 ± 7,5 ngày. Thai phụ: Mổ lấy thai 58,7%, sinh thường  34,78%, còn lại là sinh giúp; Máu mất trung bình sau sinh là 244,44ml; Băng huyết sau sinh có 2 trường hợp  (4,35%), sinh thường và không phải truyền máu; Không ghi nhận thay đổi trên lâm sàng và cận lâm sàng về  chức năng đông máu. Kết cục ở con: Tuổi thai trung bình lúc sinh là 37,76 ± 1,2 tuần; Cân nặng lúc sinh trung  bình 2390,43 ± 223,72 gram; Apgar sau 5 phút của tất cả các trẻ đều trên 7 điểm; Thời gian nằm dưỡng nhi có  trung vị là 5 ngày; Không có trường hợp thai lưu hoặc tử vong sau sinh.   Kết luận: dùng Aspirin liều thâp ghi nhận có hiệu quả và an toàn trong thao chậm tăng trưởng trong tử  cung. Tuy nhiên, cần thực hiện nghiên cứu trên mẫu lơn hơn và thiết kế mạnh hơn trong tương lai.  Từ khoá: Thai chậm tăng trưởng trong tử cung, aspirin liều thấp  SUMMARY  LOW‐DOSE ASPIRIN THERAPY IN INTRAUTERINE GROWTH RETARDATION 28‐32  GESTATIONAL WEEKS AT HUNGVUONG HOSPITAL  Ngo Thi Binh Lua, Huynh Nguyen Khanh Trang   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 95‐100  Background: There are an estimated 3‐10 % pregnancy rate is slow intrauterine growth of infants born in  developing countries, about 6‐30 % in developing countries. Infants with the weight less than 2500 grams have  higher mortality  rates,  accounting  for  5  to  30  times  higher  than  those with  the weight  at  50  percentile  for  gestational age. From the results of meta‐analysis of studies all over the world, Aspirin is effective in treatment of  intrauterine growth retardation.  Objective: Evaluate the effectiveness of low‐dose aspirin therapy in intrauterine growth retardation 28‐32  gestational week.  Materials and methods: case series report, including pregnancies in the third trimester with fetal growth  restriction diagnosed in utero, at Hung Vuong Hospital from 09/2012 to 04/2013.  * Bộ môn phụ sản Đại học Y dược TPHCM   Tác giả liên lạc: PGS. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang ĐT: 0903882015 Email: pgs.huynhnguyenkhanhtrang@gmail.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 96 Results: The  average  time used Aspilets  22.3  ±  7.5  days. The  outcome  of pregnancy: 58.7 %  cesarean,  natural birth 34.78 %, 6.52% assisted deliveries. The average blood loss was 244.44 ml after birth, postpartum  hemorrhage with 2 cases (4.35 %), these two cases were normal deliveries without blood transfusion. There was  no changes in either clinical or subclinical functional clotting. Outcomes in children: the average gestational age  at birth was 37.76 ± 1.2 weeks, average of birth weight: 2390.43 ± 223.72 grams, Apgar after 5 minutes of all the  children are above 7 points; median of time in pediatric nursing is 5 days; None of stillbirth or death after birth.  Conclusion: Low ‐dose aspirin is effective recognition and safe operation intrauterine growth retardation.  However, the need to perform studies on larger samples and greater design in the future.  Keywords: intrauterine growth retardation, case series report, Low‐dose Aspirin.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Thai  chậm  tăng  trưởng  trong  tử  cung  (TCTTTTC)  được  định  nghĩa  khi  trọng  lượng  cân năng ước tính estimated fetal weight (EFW)  ở dưới bách phân vị  thứ 10  so với  tuổi  thai(6,7).  Khoảng 70% thai có EFW dưới bách phân vị thứ  10 là thai nhỏ sinh lý, do đó thuật ngữ TCTTTTC  là không chính xác cho rất nhiều thai. Việc phân  biệt một thai nhỏ sinh lý hay bệnh lý có thể gặp  nhiều khó khăn. Một vài yếu tố không liên quan  bệnh  lý  ảnh  hưởng  đến  cân  nặng  của  thai  là  trọng  lượng  mẹ,  chiều  cao  mẹ,  số  lần  sanh,  chủng  tộc  và  giới  tính  của  thai(2).  Ước  tính  có  khoảng 3 – 10 %  tỉ  lệ  là  thai chậm  tăng  trưởng  trong  tử  cung  trong  số  trẻ  sinh  ra  ở  các  nước  phát triển, khoảng 6 – 30% ở các nước đang phát  triển(3,10,13).  Trong  đó,  những  thai  chậm  tăng  trưởng trong tử cung có tỉ lệ tử vong cao gấp 4  đến  10  lần  so với  thai phát  triển bình  thường,  tăng cả về tỉ  lệ thai  lưu (40% thai  lưu không rõ  nguyên nhân nhẹ cân hơn so với tuổi thai) và tử  vong  chu  sinh.  Trẻ  sơ  sinh  có  cân  nặng  dưới  2500 gram có tỉ lệ tử vong cao gấp 5 đến 30 lần  so với trẻ sơ sinh có cân nặng ở bách phân vị 50  so với tuổi thai. Tỉ lệ tử vong lên đến 70 đến 100  lần  ở  trẻ  có  cân nặng dưới  1500 gram(1,2,5,10,11,13).  Đồng thời tăng rất nhiều nguy cơ trong thai kỳ  và chuyển dạ: sanh non, suy thai, tăng tỷ lệ mổ  lấy thai, và các bệnh lý chu sinh: suy hô hấp, hạ  thân nhiệt, hạ đường huyết, chậm phát triển tâm  thần vận động sau này(2).  Việc xác  định  thai  chậm  tăng  trưởng  trong  tử cung thật sự là một thử thách đối với các bác  sĩ  lâm sàng. Thử  thách nảy bao gồm viêc phân  biệt một thai nhỏ nhưng còn khỏe mạnh với thai  chậm tăng trưởng trong tử cung để tránh những  can thiệp có hại cho thai và người mẹ.  Hiện nay, nhờ sự phát triển của các phương  pháp cận lâm sàng, chẩn đoán TCTTTTC dù còn  nhiều khó khăn nhưng ngày một  rõ  ràng hơn.  Tuy  nhiên,  vấn  đề  điều  trị  thai  chậm  tăng  trưởng  trong  tử cung vẫn còn  là  thử  thách  lớn  với các bác sĩ  lâm sàng. Vì đây  thai chậm  tăng  trưởng trong tử cung là một thai kỳ nguy cơ cao,  phải  đối mặt với nhiều vấn  đề  lâm  sàng,  đảm  bảo kết thúc một thai kỳ bảo đảm cho thai nhi có  khả năng sống,  trưởng  thành phổi nhưng cũng  không cho ra đời thai nhi quá non tháng(13).  Vì Aspirin (ASA) là loại thuốc thuộc nhóm  ức chế kết tập tiểu cầu được sử dụng rộng rãi  làm  giảm  đáng  kể  các  tai  biến  tắc mạch  với  những ưu điểm là phổ biến, giá thành rẻ, dễ sử  dụng,  dung  nạp  tốt(4,9,10).  Trong  nhiều  nghiên  cứu  đã  chứng  minh  được  tính  an  toàn  của  Aspirin  liều  thấp  trong  thai  kỳ,  không  làm  tăng các nguy cơ có hại cho mẹ và thai nhi mà  vẫn mang lại những hiệu quả mong muốn cần  nhắm  tới  trong các vấn đề  tăng huyết áp  liên  quan đến thai kỳ, thai chậm tăng trưởng trong  tử cung và dọa sanh non.  Theo Harald Leitich  1997  trong một phân  tích  gộp  nhằm mục  đích  xác  định  chính  xác  hơn hiệu quả dự phòng  của aspirin  liều  thấp  trên TCTTTTC và tử vong chu sinh. Phân tích  gộp  gồm  13  nghiên  cứu  với  13  234  thai  phụ  tham gia từ năm 1985 đến năm 1994, đã chỉ ra  sự giảm  có ý nghĩa  tỷ  lệ TCTTTTC  (OR  0.82;  95% Cl 0.72‐0.93; p=0.003) và giảm không có ý  nghĩa tỷ lệ tử vong chu sinh (OR 0.84; 95% Cl  0.66‐1.08; p=0.18). Phân tích gộp này chỉ ra việc  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 97 điều  trị aspirin giai đoạn sớm  làm giảm nguy  cơ TCTTTTC(4).  Ở Việt Nam,  trong khi  theo dõi các  thai kỳ  nguy cơ cao với thai chậm tăng trưởng trong tử  cung, một  số  các bác  sĩ  lâm  sàng  điều  trị ASA  liều  thấp  dựa  trên  chứng  cứ  y  văn  và  kinh  nghiệm  với mong muốn  cải  thiện  kết  cục  thai  kỳ.Vì  vậy  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu  với  các mục tiêu như sau:  Mục tiêu nghiên cứu  1. Khảo  sát hiệu quả  của Aspirin  liều  thấp  trong  điều  trị  thai  chậm  tăng  trưởng  trong  tử  cung ở tuổi thai từ tuần 28‐32, làm cải thiện kết  cục của thai kỳ.  2. Ghi nhận: các tác dụng phụ khi dùng thuốc  của thai phụ; chức năng đông cầm máu; thời điểm  chấm dứt thai, phương pháp chấm dứt thai kỳ, tỉ lệ  băng huyết sau sanh của thai phụ.  ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP   Thiết kế nghiên cứu  Báo cáo loạt ca lâm sàng.   Chọn mẫu  Những  thai  phụ  có  chẩn  đoán  thai  chậm  tăng trưởng ở đầu tam cá nguyệt thứ 3, tuổi thai  từ 28‐32 tuần, tại bệnh viện Hùng Vương được  nhập khoa Sản bệnh  để  theo dõi  điều  trị. Thời  gian từ 09/2012 đến 04/2013. Lấy mẫu toàn bộ  Tiêu chí nhận vào  Các  phụ  nữ mang  thai  từ  tuần  thứ  28‐32  được chẩn đoán thai chậm tăng trưởng trong tử  cung (Siêu âm có EWF dưới bách phân vị thứ 5  so với tuổi thai) có chỉ định nhập viện vào khoa  sản B Bệnh Viện Hùng Vương  để  điều  trị. Có  siêu âm 3  tháng  đầu,  tính  được  chính xác  tuổi  thai. Không tiền căn bệnh lý tăng huyết áp, suy  thận, bệnh lý huyết học, tiền căn chảy máu khó  cầm. Không có xuất huyết trong thai kỳ lần này,  vị  trí bánh nhau bình  thường, không nhau  tiền  đạo  hay  nhau  bám  thấp.  Không  dị  ứng  với  Aspirin trước đó. Đồng ý tham gia nghiên cứu.  Tiêu chí loại trừ  Trường  hợp  không  tính  được  tuổi  thai  chính xác. Đa thai. Tiền căn dị ứng với Aspirin.  Dùng  Aspirin  hoặc  các  thuốc  có  tác  dụng  kháng tiểu cầu khác trong thai kỳ lần này. Tiền  căn  chảy  máu  khó  cầm,  chảy  máu  âm  đạo  trong thai kỳ  lần này. Bệnh nhân không đồng  ý tham gia nghiên cứu.  Aspilets®  EC  (mỗi  viên  chứa  80 mg Acid  Acetylsalicylic) của Công Ty United Pharma –  Việt Nam, Số đăng ký VD‐4237. Hạn sử dụng  12/2013.  Thời gian dùng  thuốc  cho  đến  tuổi  thai  36  tuần, mỗi ngày uống 1 viên Aspirin 80mg sau ăn  no với 1 cốc nước. Bệnh nhân sẽ được người làm  nghiên cứu thăm khám lâm sàng mỗi ngày, theo  dõi  các  xét  nghiệm  cận  lâm  sàng: NST,  đông  máu  toàn bộ,  siêu  âm Doppler  thai,  đồng  thời  quan sát các tác dụng phụ của thuốc nếu có.  Phương pháp thu thập dữ liệu  Sử dụng bảng câu hỏi thu thập dữ  liệu qua  phỏng vấn  trực  tiếp bệnh nhân và  thu  thập  số  liệu từ hồ sơ bệnh án. Dữ liệu được kiểm tra, thu  thập mã  hóa  nhập máy  tính  bằng  phần mềm  Epidata 3.1 và được phân  tích bằng phần mềm  Stata 11.0  KẾT QUẢ  Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu  Đặc tính (n= 46) Tỷ lệ (%) Nghề nghiệp Công nhân 14 30,43 Văn phòng 6 13,04 Nội trợ 17 36,96 Khác 9 19,57 Trình độ học vấn ≤ Cấp I 2 4,35 Cấp II 23 50 Cấp III 12 26,09 >Cấp III 9 19,57 Dân tộc Kinh 46 100 Khác 0 0 Tình trạng kinh tế Nghèo 10 21,74 Đủ sống 35 76,09 Dư dả 1 2,17 Nơi ở Tỉnh 12 27,91 TP Hồ Chí Minh 34 72,09 Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 98 Đặc tính (n= 46) Tỷ lệ (%) Chiều cao cha ≤ 1.6 m 4 8,40 1.61- 1.69m 26 56,52 ≥ 1.70m 16 34,78 BMI trước mang thai Nhẹ cân 20 43,48 Trung bình 19 41,30 Quá cân 7 15,22 Bảng 2. Các yếu tố liên quan đến dùng ASA  Các yếu tố trung bình Biến thiên Thời gian dùng ASA (ngày) 22.3 ± 7,5 14-47 Tuổi thai bắt đầu uống ASA 30,91 ± 1,00 28,4 – 32 Tuổi thai kết thúc uống ASA 34.09 ± 0,14 34 – 34,5 Lý do kết thúc dùng ASA Hết đợt điều trị 46 100 Cần chấm dứt thai kỳ 0 0 Tác dụng không mong muốn 0 0 Bảng 3. Kết cục thai kỳ liên quan mẹ  Các yếu tố Trung bình Biến thiên Tuổi thai 37,76 ± 1,20 35,5 - 40 Máu mất sau sinh 244,44 ± 89,20 100 - 600 Cân nặng bánh nhau 498,91 ± 46,53 400 - 600 Băng huyết sau sinh Không 44 95,65 Có 2 4,35 Bảng 4. Các yếu tố kết cục thai kỳ liên quan đến con  Các yếu tố (n=46) Tỷ lệ (%) Giới tính Nam 31 67,39 Nữ 15 32,61 Apgar 1 phút <4 điểm 0 0 4 -7 điểm 15 32,61 ≥7 diểm 31 67,39 Apgar 5 phút <7 điểm 0 0 ≥7 điểm 46 100 Tử vong chu sinh Thai lưu 0 0 Chiều dài trẻ 46,13 ± 2,34 38 - 49 Bảng 5. So sánh thay đổi xét nghiệm đông máu trước  ‐ sau khi dùng ASA  Trước dùng Sau dùng P* Tiểu cầu 290,56 ± 53,17 289,50 ± 52,03 0,605 PT 12,88 ± 0,47 12,89 ± 0,42 0,796 INR 1,002 ± 0,005 1,004 ± 0,003 0,569 aPTT 28,50 ± 2,94 28,59 ± 2,96 0,500 Fibrinogen 3,13 ± 0,56 3,14 ± 0,53 0,390 *Dùng phép kiểm t test bắt cặp  BÀN LUẬN  Về  tình  huống  phát  hiện  TCTTTTC  của  nhóm thai phụ trong nghiên cứu tất cả đều phát  hiện nhờ khám  thai định kỳ nhờ siêu âm kiểm  tra  tăng  trưởng của  thai bằng siêu âm 2D hoặc  siêu âm Doppler màu kiểm tra tưới máu thai.   Trong nghiên  cứu này,  chúng  tôi ghi nhận  thời gian dùng ASA trung bình 22,3 ± 7,5 ngày,  ngắn nhất là 14 ngày, dài nhất là 47 ngày. Trong  đó,  thời gian  điều  trị dưới 2  tuần  là 12  trường  hợp (26,09%), thời gian điều trị trên 2 tuần nhiều  hơn (73,91%). Tuổi thai trung bình bắt đầu uống  thuốc là 30,91 tuần, dao động từ 28 tuần 4 ngày  đến  32  tuần.Thời  gian  kết  thúc  điều  trị  trung  bình là 34,09 tuần, dao động từ 34 đến 34 tuần 5  ngày. Trong khi đó,  thời gian điều  trị ASA của  nghiên  cứu  Trudinger  dài  hơn  từ  28  đến  36  tuần(14) và nghiên cứu của Lesley M.E. McCowan  thời gian dùng thuốc là trên 14 ngày trong thời  gian từ 24‐36 tuần(9).  Tuổi thai trung bình tại thời điểm sinh trong  nghiên cứu  là 37,76 tuần, nhỏ nhất  là 35 tuần 5  ngày, lớn nhất là 40 tuần, không có trường hợp  nào  sinh non  trước  34  tuần,  sinh non  trước  37  tuần  có  10  trường  hợp,  chiếm  tỷ  lệ  21,74%.  Trong  khi  đó  tuổi  thai  kết  thúc  thai  kỳ  trung  bình  trong  nghiên  cứu  của  Trudinger  ở  nhóm  điều  trị  ASA  là  36.99  tuần(14)  thấp  hơn  trong  nghiên cứu của chúng  tôi,  ở nhóm không điều  trị là 35,87 tuần, sự khác biệt 2 nhóm không có ý  nghĩa thống kê.  Trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  cân nặng  trẻ trung bình lúc sinh là 2390,43 gram thuộc trẻ  nhẹ cân, thấp nhất là 1800 gram, cao nhất là 2700  gram, có 27 trẻ có cân nặng> 2500 gram. Tác giả  Trudinger ghi nhận  trong nhóm dùng ASA  có  trọng lượng trung bình lúc sinh là 2551 gram, ở  nhóm không dùng ASA  là 2035 gram,  sự khác  biệt hai nhóm có ý nghĩa thống kê với P<0,02(14).  Như  vậy  trọng  lượng  trung  bình  lúc  sinh  của  nghiên  cứu  chúng  tôi  thấp  hơn  so  với  nhóm  dùng ASA của tác giả Trudinger là 160,57gram,  nhưng cũng cao hơn so với nhóm không điều trị  của tác giả này là 355,43 gram. Trọng lượng lúc  sinh trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so  với nghiên cứu của tác giả Lesley là 1705 gram ở  nhóm dùng ASA(9). Còn khi so sánh trọng lượng  trung bình lúc sinh của nghiên cứu chúng tôi với  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 99 các nghiên  cứu khác  đều  có  cân nặng  lúc  sinh  cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi ở cả 2  nhóm dùng thuốc hay không dùng thuốc.  Trong nghiên cứu của chúng  tôi không ghi  nhận bất kỳ trường hợp nào liên quan đến xuất  huyết con, phù hợp với các nghiên cứu trên thế  giới. Trong nghiên cứu của Trudinger ghi nhận  có xuất huyết não  thất  liên quan  đến  thai non  tháng và thiếu oxy, không có sự khác biệt giữa 2  nhóm (nhóm điều trị ASA có 1 trẻ, nhóm chứng  có 2 trẻ)(14).  Về  băng  huyết  sau  sinh  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  2  trường  hợp,  chiếm  tỷ  lệ  4,35%. Theo thống kê tỷ lệ băng huyết sau sinh  tại  bệnh  viện  Hùng  Vương  vào  năm  2005  là  1,5%(13). Tuy nhiên trong nghiên cứu của Vũ Thị  Nhung năm 2007,  tỷ  lệ băng huyết sau sinh  tại  bệnh viện Hùng Vương là 15,38%, trong đó một  nửa nguyên nhân là do đờ tử cung(14). Tỷ lệ băng  huyết sau sinh  trong nghiên cứu của chúng  tôi  cao  hơn  nhưng  vì mẫu  nghiên  cứu  nhỏ  và  2  trường hợp này đều có nguy cơ của băng huyết  sau sinh là đa sản (đã sinh từ 2 lần trở lên) lượng  máu mất  là  500ml và  600ml vì vậy  chấp nhận  được  trong dân  số chung, phù hợp với nghiên  cứu của Trudinger cũng không tìm thấy sự khác  biệt giữa hai nhóm về tỷ lệ băng huyết sau sinh  ở mẹ(14)  hay  nghiên  cứu  của K.Harrington  cho  thấy không làm tăng có ý nghĩa tỷ lệ băng huyết  sau sinh thậm chí các thai phụ được dùng ASA  đến  tuần  thứ 37 khi so sánh nhóm điều  trị với  nhóm chứng (1,9% so với 0%)(14).   Về so sánh các xét nghiệm đông máu  trước  và  sau khi dùng  thuốc ASA  trong nghiên  cứu  của chúng tôi cho thấy các xét nghiệm đều trong  giới  hạn  bình  thường,  sự  khác  biệt  giữa  hai  nhóm không có ý nghĩa thống kê với các giá trị P  đều > 0,05. Như vậy, cả trên lâm sàng và các xét  nghiệm  cận  lâm  sàng  đều không  thấy  sự  tăng  nguy  cơ  chảy máu  đối  với  thai  phụ  khi dùng  ASA  liều  thấp.  Trong  nghiên  cứu  của  tác  giả  Lesley có sự đánh giá phân giải thromboxane B2  cho  thấy  nồng  độ  throboxane  B2  ở  những  trường hợp dùng ASA là 1pg/mL (dao động từ  0‐6 pg/mL) và  trong nhóm  chứng  là 97 pg/mL  (dao  động  từ  9‐311 pg/mL)(9). Tác  giả  kết  luận  điều này  chỉ  ra  đã  có một  sự  ức  chế hầu như  hoàn toàn thromboxane B2 ở nhóm dùng thuốc.  Như vậy  tính an  toàn của ASA  liều  thấp  trong  thai  kỳ  của  hầu  hết  các  nghiên  cứu  đều  nhất  quán và đã được chứng minh.  Hạn chế  Nghiên  cứu  được  thiết  kế  theo  loại  hình  nghiên  cứu quan  sát nên kết  quả  thu  được  có  giới hạn  trên phương diện bằng chứng y khoa.  Do nghiên  cứu  của  chúng  tôi  là  báo  cáo  hàng  loạt ca, là loại nghiên cứu được xem là chưa đủ  mạnh khi khảo  sát  các mối  liên quan giữa  các  biến số.  KẾT LUẬN  Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi rút ra  một số kết luận:  Thời gian dùng Aspilets trung bình là 22,3 ±  7,5 ngày.   Thai phụ  Mổ  lấy thai 58,7%, sinh thường 34,78%, còn  lại là sinh giúp. Trong đó, mổ sinh do suy tuần  hoàn nhau thai 59,26%, suy thai trong chuyển dạ  22,22%.  Máu  mất  trung  bình  sau  sinh  là  244,44ml. Băng huyết sau sinh có 2  trường hợp  (4,35%), sinh thường và không phải truyền máu.  Không ghi nhận  thay đổi  trên  lâm sàng và cận  lâm sàng về chức năng đông máu.  Kết cục ở con  Tuổi  thai  trung bình  lúc  sinh  là 37,76  ±  1,2  tuần,  Cân  nặng  lúc  sinh  trung  bình  2390,43  ±  223,72 gram, Apgar sau 5 phút của tất cả các trẻ  đều  trên 7  điểm. Thời gian nằm dưỡng nhi  có  trung vị là 5 ngày, ít nhất 1 ngày, nhiều nhất 14  ngày.  Không  có  trường  hợp  thai  lưu  hoặc  tử  vong sau sinh.  TÀI LIỆU THAM KHẢO:  1. American College of Obstetricians and Gynecologists  (2001)  ʺIntrauterine  growth  restriction.  Clinical  management  guidelines  for  obstetrician‐gynecologists  ʺ.  International  journal of gynaecology and obstetrics: the official organ of the  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 100 International  Federation  of Gynaecology  and Obstetrics,  72  (1), 85‐96.  2. Bamfo  JE, Odibo AO  (2011)  ʺDiagnosis and management of  fetal growth restrictionʺ. Journal of pregnancy, 2011, 640715.  3. Chalubinski  KM,  Repa  A,  Stammler‐Safar M,  Ott  J  (2012)  ʺImpact of Doppler sonography on intrauterine management  and  neonatal  outcome  in  preterm  fetuses with  intrauterine  growth  restrictionʺ. Ultrasound  in  obstetrics &  gynecology:  the official  journal of the International Society of Ultrasound  in Obstetrics and Gynecology, 39 (3), 293‐8.  4. Harrington K, Kurdi. W, Aquilina. J, England. P, Campbell. S  (2000)  ʺA  prospective  management  study  of  slow‐release  aspirin  in  the  palliation  of  uteroplacental  insufficiency  predicted by uterine artery Doppler at 20 weeksʺ. Ultrasound  in  obstetrics  &  gynecology:  the  official  journal  of  the  International  Society  of  Ultrasound  in  Obstetrics  and  Gynecology, 15 (1), 13‐8.  5. Hauth JC, Goldenberg R.L, Parker CRJ, Cutter GR, Cliver SP  (1995) ʺLow‐dose aspirin: lack of association with an increase  in abruptio placentae or perinatal mortalityʺ. Obstetrics and  gynecology, 85 (6), 1055‐8.  6. Hồ Thị Thiên Nga (2011) ʺAspirin trong điều trị chống huyết  khối và đông cầm máuʺ. Tạp Chí Thông Tin Y Dược, Tập 1,  tr.2 ‐ 5.  7. Huỳnh Thị Duy Hương  (2008) Hồi  sức  cấp  cứu  sơ  sinh  tại  phòng sinh. Sản phụ khoa. Nhà xuất bản Y học, TP Hồ Chí  Minh, tr. 598 ‐ 641.  8. Lý Hồng Nhung, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2013) ʺKhảo  sát  các yếu  tố nguy  cơ  của  thai  chậm  tăng  trưởng  trong  tử  cung tại bệnh viện Hùng Vươngʺ. Tạp Chí Y Học TP. Hồ Chí  Minh, Tập 17 (Phụ bản số 1), tr.84‐89.  9. McCowan.  LM., Harding  J, Roberts. A,  Barker.  S,  Ford. C,  Stewart.  A  (1999)  ʺAdministration  of  low‐dose  aspirin  to  mothers with small for gestational age fetuses and abnormal  umbilical  Doppler  studies  to  increase  birthweight:  a  randomised double‐blind  controlled  trialʺ. British  journal of  obstetrics and gynaecology, 106 (7), 647‐51.  10. Narendra  M  (2010)  ʺMaternal‐Fetal  Work‐up  and  Management  in  Intrauterine  Growth  Restriction  (IUGR)  ʺ.  Donald  School  Journal  of  Ultrasound  in  Obstetrics  and  Gynecology, 4 (4), p.427‐432.  11. Nacy  AM  (2012)  ʺCesarean  Delivery  No  Safer  for  Small  Gestational Age Infantsʺ. Medscape,   12. Thuốc  và  biệt  dược  (2013)  Aspirin,  ‐goc10.aspx,   13. Trần  Sơn  Thạch,  Tạ  Thị  Thanh  Thủy, Nguyễn Văn  Thông  (2005) ʺMũi may B‐Lynch cải tiến điều trị BHSS nặng do đờ tử  cungʺ. Hội nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương  lần 5‐ 2005,   14. Trudinger  B.  J,  Cook  C.  M,  Thompson  R.  S,  Giles  W.  B,  Connelly A (1988) ʺLow‐dose aspirin therapy  improves fetal  weight in umbilical placental insufficiencyʺ. American journal  of obstetrics and gynecology, 159 (3), 681‐5.  15. Vũ  Thị Nhung, Nguyễn  Thị Như Ngọc  (2007)  ʺTình  hình  băng huyết sau sanh tại bệnh viện tuyến 4 TP. Hồ Chí Minhʺ.  Hội thảo Khoa học Việt – Pháp về Cấp cứu và Hồi sức cấp  cứu TPHCM – 2007.  Ngày nhận bài báo      : 30/11/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo  : 02/12/2013  Ngày bài báo được đăng      :  05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdieu_tri_aspirin_lieu_thap_o_thai_cham_tang_truong_trong_tu.pdf
Tài liệu liên quan