Kiểm soát nhiễm trùng
- Trong giai đoạn điều trị tấn công bệnh
nhân nên nằm ở phòng sạch, không tiếp xúc
người có bệnh nhiễm trùng, không ăn thức ăn
sống, rau chưa nấu, sử dụng thuốc súc miệng
chống nhiễm khuẩn.
- Kháng sinh phòng ngừa là TrimethoprimSulfamethoxazole (Bactrim): liều 24 mg/kg/ngày,
dùng 2-3 lần/ tuần, để phòng ngừa viêm phổi do
pneumocystic carinii (pneumocystic jiroveci).
Nếu bệnh nhân dị ứng bactrim có thể sử dụng
những loại khác như pentamidine.
- Sốt nhiễm trùng thường thấy trong BCCDL,
đặc biệt ở bệnh nhân giảm bạch cầu hạt, những
trường hợp này phải dùng kháng sinh phổ rộng
theo kinh nghiệm, không đợi kết quả xét nghiệm
vi trùng học, cho đến khi hết nhiễm trùng.
- Trong giai đoạn điều trị tấn công có thể làm
gia tăng nguy cơ dể mắc những bệnh nhiễm
trùng, do sử dụng thuốc ức chế tủy xương, ức
chế miễn dịch, gây sự tổn thương niêm mạc. Ít
nhất 50% bệnh nhân trải qua giai đoạn này bị
nhiễm trùng.
- Vi khuẩn thường gặp: Gram dương:
Streptococcus, Staphylococcus. Gram âm: Klebsiella,
E.coli, Pseudomonas Có thể kèm nhiễm nấm khi
giảm bạch cầu kéo dài.
- Cấy máu và các chất dịch như: nước tiểu,
phân, đàm, mủ ở các ổ nhiễm trùng, dịch
màng phổi (nếu có) để phân lập vi khuẩn và
làm kháng sinh đồ. Đồng thời làm các xét
nghiệm khác ở những vị trí nghi ngờ nhiễm
trùng như: chụp X quang phổi, siêu âm bụng,
chụp cắt lớp phổ(27,41).
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 77 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị bạch cầu cấp dòng Lymphôngười lớn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 14
ĐIỀU TRỊ BẠCH CẦU CẤP DÒNG LYMPHÔNGƯỜI LỚN
Huỳnh Văn Mẫn*, Nguyễn Tấn Bỉnh**
HÓA TRỊ LIỆU
Nguyên tắc hóa trị liệu bệnh BCCDL là điều
trị nhiều đợt hóa chất liên tiếp để đảm bảo tiêu
diệt dần các tế bào non ác tính, ngăn ngừa tái
phát và đảm bảo cho sự phục hồi tế bào máu
bình thường.
Tế bào non ác tính phát triển theo định luật
của biểu đồ Gompertz tăng nhanh ở nồng độ
thấp và đạt đỉnh tối đa thì tốc độ hình thành tế
bào non ác tính giảm. Khi bệnh nhân được chẩn
đoán bạch cầu cấp thì số tế bào non ác tính là
khoảng 1012. Mỗi đợt hóa trị có khả năng hủy
diệt 3-5 log tế bào non ác tính tức khoảng 102 đến
104 và tái lập sự tạo máu bình thường trong tủy
xương (5,38). Có hai nguyên tắc quan trọng:
(1) thời gian sống lâu dài chỉ có được ở
những bệnh nhân đáp ứng với điều trị và đạt lui
bệnh hoàn toàn.
(2) sự đáp ứng với điều trị ban đầu cho phép
tiên đoán kết quả điều trị bệnh nhân. Thuốc điều
trị bệnh BCCDL có nhiều độc tính và những biến
chứng do suy tủy sâu gây nhiễm khuẩn nặng và
chảy máu là những nguyên nhân gây tử vong
trong quá trình điều trị (5,10,39).
Biểu đồ 1: Mối liên quan giữa số lượng tế bào ác tính và các đợt hóa trị. Nguồn: DeVita Vincent (5)
Những hiểu biết gần đây về các đột biến liên
quan đến bệnh cũng như sự xuất hiện ngày càng
nhiều các thuốc hóa trị đặc hiệu đã tạo nên tiền
đề cho sự tiến bộ vượt bậc trong điều trị bệnh
BCCDL người lớn. Các phác đồ gần đây thường
kết hợp nhiều thuốc hóa trị liệu khác nhau nhằm
ngăn chặn sự xuất hiện của các dòng tế bào
kháng thuốc, trong khi vẫn đảm bảo sự hồi phục
bình thường của tủy xương và tận diệt càng
nhiều các tế bào ác tính tồn lưu. Hầu hết các
phác đồ đều bao gồm 4 giai đoạn điều trị sau:
tấn công, củng cố/ tăng cường sau tấn công, duy
trì và phòng ngừa xâm lấn thần kinh trung ương
(TKTU).
Giai đoạn tấn công
Từ những năm 1990, đa hóa trị liệu trong
BCCDL trẻ em đã mang đến một thành công
ngoạn mục, với tỷ lệ từ 80% đến 90% trẻ có thể
kéo dài thời gian sống không bệnh và rất nhiều
trường hợp được chữa khỏi hoàn toàn(32). Chính
vì thế, gần đây phác đồ điều trị BCCDL người
lớn đã được xây dựng trên nền tảng của phác đồ
* Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP HCM **Sở y tế TP HCM
Tác giả liên lạc: TS.BS. Huỳnh Văn Mẫn; ĐT: 0975 449 818; Email: huynhvanman@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Tổng Quan
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 15
dành cho trẻ em, kết hợp với những đặc tính
riêng biệt ở bệnh nhân người lớn.
Trong giai đoạn tấn công, mục tiêu điều trị
cần đạt đến là bước đầu tận diệt được 99% tế bào
ung thư, đồng thời hồi phục chức năng tạo máu
bình thường cho tủy xương. Ba thuốc không thể
thiếu trong giai đoạn này là vincristine, corticoid
và anthracycline. Ở trẻ em, tỷ lệ đáp ứng với 3
thuốc này khá cao ở bệnh nhân nguy cơ chuẩn.
Tuy nhiên, đối với bệnh nhân người lớn thì đòi
hỏi phải có sự kết hợp của nhiều thuốc hóa trị
hơn và liều cao hơn.
Prednisone là corticoid hay được sử dụng
nhất trong các phác đồ BCCDL. Vai trò của
prednisone biểu hiện rõ rệt trong nghiên cứu của
Gaynon khi ông đã chứng minh được những
bệnh nhân không đáp ứng trong giai đoạn điều
trị thử corticoid là một dấu hiệu tiên lượng xấu
về sau(11). Corticoid sẽ gắn kết với thụ thể đặc
hiệu trên tế bào ung thư, từ đó chuyển dần các
thụ thể vào trong nhân tế bào và gây nên nhiều
sự sao mã, dịch mã của nhiều gene khác nhau.
Cuối cùng, chúng đẩy mạnh dòng thác caspase,
gây chết tế bào ung thư theo chương trình. Vài
nghiên cứu cho thấy dexamethasone cho hiệu
quả chống tế bào ung thư tốt hơn so với
prednisone, đồng thời nồng độ phân bố trong
dịch não tủy cũng cao hơn(2), tuy nhiên vấn đề
này vẫn còn bàn cãi. Nguyên nhân tỷ lệ biến
chứng do dexamethasone cao hơn hẳn so với
prednisone, đặc biệt là chứng hoại tử vô mạch và
nhiễm trùng(18,29).
Anthracycline là một nhóm thuốc ra đời khá
lâu và đã trở thành một thành phần quan trọng
trong phác đồ điều trị BCCDL, trong đó thường
được sử dụng nhất là daunorubicin,
doxorubicine và mitoxantrone. Vai trò độc tế bào
của chúng chủ yếu do khả năng gắn kết vào
topoisomerase II, hình thành phức hợp ổn định
giữa thuốc và enzym này. Từ đó, chúng bẻ gãy
cấu trúc xoắn kép của DNA và gây hiện tượng
chết theo chương trình. Những cơ chế khác như
phá vỡ cấu trúc toàn vẹn của DNA, hình thành
các gốc tự do và can thiệp vào con đường tín
hiệu trong tế bào hiện vẫn còn được tiếp tục
nghiên cứu. Sau khi truyền vào cơ thể của bệnh
nhân, daunorubicin có 2 thời gian bán hủy khác
nhau. Khởi đầu chúng có thời gian bán hủy (t ½)
khoảng 40 phút, nhưng ngay sau đó chất chuyển
hóa từ daunorubicin (gọi là daunorubicinol) lại
có tác động trên tế bào kéo dài hơn với thời gian
bán hủy lên đến 20 – 50 giờ. Điều này kéo dài
thời gian tiếp xúc của thuốc đối với tế bào ung
thư(6,13,17).
Vincristine là một thuốc hóa trị chống hình
thành vi ống, được sử dụng phổ biến trong các
phác đồ BCCDL. Tác dụng của thuốc thuộc
nhóm vinca alkaloid này là phá vỡ tính toàn
vẹn và cấu trúc của những vi ống trong bào
tương tế bào, từ đó bẻ gãy thoi vô sắc và ngăn
chặn quá trình phân bào xảy ra, chủ yếu tại
pha M. Yếu tố xác định hiệu quả của
vincristine là khả năng đạt nồng độ trong
huyết tương vượt trên ngưỡng. Thời gian bán
hủy của thuốc kéo dài từ 155 -5100 phút và cần
đến nhiều ngày để có thể loại bỏ thuốc ra khỏi
mô. Do độc tính trên thần kinh của vincristine
tăng lên với liều tích lũy nên việc sử dụng
thuốc với khoảng cách mỗi tuần với liều tối đa
2mg cùng phương thức tiêm mạch nhanh
trong các phác đồ BCCDL là tương đối hợp
lý(6,13,17).
Trong các phác đồ hiện nay các tác giả có bổ
sung thêm các thuốc như asparaginase và
cyclophosphamide với mục đích tăng cường
mạnh thêm cho giai đoạn tấn công. Tuy nhiên
một số nghiên cứu cho thấy việc gia tăng thêm
thuốc hóa trị liệu không cải thiện tỷ lệ đạt đáp
ứng hoàn toàn(1,19,34). Lợi điểm có thể nhận thấy
được đó là thời gian đạt được đáp ứng hoàn toàn
nhanh hơn, tránh được những dòng tế bào
kháng thuốc, từ đó có thể cải thiện dự hậu lâu
dài. Ngược lại, phối hợp đa hóa trị liệu đã tăng
độc tính đáng kể và chỉ có thể dành cho các đối
tượng bệnh nhân trẻ có tổng trạng tốt. Điều này
đã hạn chế phần nào độ tuổi có thể áp dụng
được phác đồ hóa trị mạnh(12,37).
Asparaginase là một thuốc dùng khá phổ
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 16
biến trong các phác đồ BCCDL trẻ em và cũng
được đưa vào trong phác đồ dành cho người lớn.
Asparaginase là một men xúc tác cho quá trình
thủy phân asparagine, vốn là một acid amin cần
thiết cho sự phát triển của tế bào non ác tính.
Thiếu asparagine tế bào ung thư nhanh chóng
ngừng hoạt động và phát triển. Việc sử dụng
Asparaginase ít ảnh hưởng đến tế bào bình
thường do khả năng tự tổng hợp Asparagine của
những tế bào này, cùng như đây là loại thuốc rất
ít khả năng gây suy tủy. Tuy nhiên các độc tính
nặng nề của chúng như dị ứng, suy gan, viêm
tụy cấp đã cản trở phần nào khả năng ứng
dụng của nó cho nhiều đối tượng bệnh nhân lớn
tuổi. Asparaginase đòi hỏi phải được sử dụng tại
những trung tâm lớn với các xét nghiệm đầy đủ
cũng như có sự theo dõi sát bệnh nhân(6,13).
Cyclophosphamide là một thuốc alkyl hóa,
tác động thông qua sự hình thành những liên kết
chéo giữa 2 chuỗi DNA, làm biến dạng phân tử
DNA. Từ đó chu trình tế bào sẽ ngừng lại và tế
bào đi đến hiện tượng chết theo chương trình.
Cyclophosphamide phối hợp cùng
daunorubicine trong giai đoạn tấn công trong
các phác đồ nhằm tăng cường khả năng tác động
lên DNA của các tế bào ung thư, từ đó có thể cải
thiện thêm đáp ứng đối với điều trị. Việc bổ
sung cyclophosphamide trong tấn công được các
tác giả nghĩ đến do vai trò của chúng đã được
chứng minh trong phác đồ hyperCVAD dành
cho bệnh nhân BCCDL-T(19).
So với các phác đồ của trẻ em, phác đồ người
lớn vẫn giữ nguyên liều của các thuốc không độc
tủy như asparaginase, vincristine, corticoid, tuy
nhiên lại tăng liều của các thuốc độc tủy như
anthracycline và cyclophosphamide. Điều này
làm tăng mức độ suy tủy do hóa trị liệu gây nên.
Chính vì thế, việc sử dụng G-CSF giúp hạn chế
phần nào độc tính này, đây là một điểm mới
trong phác đồ gần đây như GRAALL 2005,
CALGB 19802 so với nhiều phác đồ trước đây
như CALGB 8811 hay LALA-94. Điều đó lấy cơ
sở từ một nghiên cứu mù đôi có đối chứng của
Larson, sử dụng G-CSF liên quan đến việc hồi
phục bạch cầu hạt nhanh hơn (p<0,0001), hồi
phục nhanh tiểu cầu và giảm thời gian nằm viện
(p=0,02)(22). Tỷ lệ lui bệnh hoàn toàn trong nhóm
có G-CSF cao hơn, đặc biệt ở bệnh nhân lớn tuổi.
Tỷ lệ tử vong liên quan đến điều trị cũng giảm
đáng kể.
Giai đoạn củng cố/tăng cường
Một khi bệnh nhân đã đạt được lui bệnh sau
giai đoạn tấn công, giai đoạn củng cố và tăng
cường sẽ giúp ổn định đáp ứng và giảm thêm
những tế bào ác tính còn tồn lưu, từ đó giảm
được nguy cơ tái phát. Trong các phác đồ điều trị
giai đoạn củng cố thường được chia thành nhiều
đợt nhỏ với mỗi đợt có một thuốc hóa trị liệu
chính như: Cytarabine (aracytine) liều cao,
methotrexate liều cao kết hợp 6-MP,
cyclophosphamide liều cao và etoposide(6).
Cytarabine là một thuốc chống chuyển
hóa, có cấu trúc tương đồng với
deoxycytidine, do đó chúng có thể cạnh tranh
với deoxycytidine khi gắn vào phân tử DNA,
gây ức chế DNA polymerase α và ngăn cản sự
tổng hợp DNA. Tác động chính của cytarabine
còn nằm ở cơ chế ngăn sự kéo dài của phân tử
DNA. Có thể nói cytarabine là một thuốc khá
đặc hiệu cho pha S của chu trình tế bào.
Cytarabine liều cao được đưa vào phác đồ chủ
yếu xuất phát từ những kinh nghiệm điều trị
trước đây trên trẻ em(16). Ngoài ra, với khả
năng thấm tốt qua hàng rào máu não,
cytarabine có thể góp phần ngăn chặn sự xâm
lấn thần kinh trung ương của tế bào ung thư.
Methotrexate liều cao kết hợp 6-MP có thể
được xem như là những thuốc hóa trị liệu chuẩn
dành cho giai đoạn củng cố của các phác đồ
BCCDL. Methotrexate là một thuốc chống
chuyển hóa, có tác động mạnh nhất vào pha S
của chu trình tế bào. Chúng ức chế men
dihydrofolate reductase, từ đó gây hao hụt
nguồn folate trong cơ thể, đây vốn là cộng tố
quan trọng cho việc tổng hợp thymidylate và
purines. Kết quả gây ức chế tổng hợp chuỗi
DNA và sự nhân lên của tế bào. Các tế bào ung
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Tổng Quan
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 17
thư tự động chết theo chương trình. Các phác đồ
gần đây sử dụng liều methotrexate khá cao đến
3g/m2 truyền tĩnh mạch kéo dài 24 giờ, bởi lẽ liều
cao methotrexate thường tương quan đến khả
năng ít tái phát bệnh, đồng thời việc truyền kéo
dài giúp thuốc thấm vào hàng rào máu não tốt
hơn, ngăn ngừa sự xâm lấn tại thần kinh trung
ương. Tuy nhiên, việc sử dụng liều cao
methotrexate mang đến nhiều độc tính nặng nề.
Ngoài việc sử dụng lederfoline, thì việc sử dụng
asparaginase ngay sau methotrexate cũng là một
cách giảm độc tính của thuốc. Lý do chủ yếu bởi
asparaginase ngăn cản tế bào vào pha S để
methotrexate gây tác động, cũng vì thế hạn chế
một số tế bào bình thường vùng niêm mạc bị
ảnh hưởng bởi methotrexate(15). Methotrexate
thường có tác dụng đồng vận với những thuốc
ức chế sự tổng hợp của purine hay những thuốc
có cấu trúc tương đồng với pyrimidine. 6-
metcaptopurine (6-MP) là thuốc được lựa chọn
phối hợp với methotrexate vì mục đích này. Mặc
dù methotrexate có làm tăng nhẹ độ sinh khả
dụng của 6-MP nhưng hiệu quả vẫn được chứng
minh trong nhiều phác đồ trước đây(22,35).
Etoposide cũng được sử dụng trong giai
đoạn củng cố kết hợp với cyclophosphamide liều
cao, nhằm làm tăng hiệu quả tác động lên phân
tử DNA của các tế bào ung thư. Etoposide là một
thuốc ức chế enzym topoisomerase II, từ đó góp
phần phá vỡ cấu trúc chuỗi đôi của DNA cũng
như hình thành các liên kết chéo trên 2 chuỗi của
DNA, chấm dứt sự nhân đôi và tăng sinh tế bào.
Trước đây, Etoposide được sử dụng trong các
phác đồ BCCDL kháng trị hay tái phát ở trẻ em.
Nhưng gần đây phác đồ người lớn đã đưa vào
điều trị cho những bệnh nhân BCCDL mới chẩn
đoán, nhằm nâng cao khả năng tận diệt các tế
bào tồn lưu và hạn chế khả năng phát sinh dòng
kháng thuốc(9,31).
Giai đoạn tăng cường muộn bao gồm những
thuốc tương tự như giai đoạn tấn công. Việc đưa
giai đoạn tăng cường muộn vào phác đồ chủ yếu
dựa vào những thành công của các phác đồ
trước đây(7,21), tuy nhiên hiệu quả vẫn chưa được
thống nhất hoàn toàn trong tất cả nghiên cứu,
trong khi đó độc tính tăng thêm lại là một vấn đề
lớn cho những phác đồ như GRAALL 2005,
CALGB 19802. Do đó, trong tương lai cần có
những phương tiện đáng tin cậy hơn để lựa
chọn bệnh nhân cần thiết cho những giai đoạn
tăng cường mạnh này, chủ yếu là đánh giá tế bào
tồn lưu ác tính (MRD)(1,33).
Giai đoạn duy trì
Điều trị duy trì trong BCCDL người lớn
thường bao gồm 6-MP mỗi ngày, methotrexate
liều thấp mỗi tuần và từng đợt vincritine và
prednisone trong vòng 2 năm. Các tác giả đều
đồng ý rằng việc loại bỏ giai đoạn duy trì thường
liên quan đến thời gian sống không bệnh bị rút
ngắn(3,4,14). Tuy nhiên cũng không có lợi nhiều khi
điều trị duy trì với hóa chất mạnh hơn phác đồ
chuẩn hiện tại(28).
Phòng ngừa xâm lấn thần kinh trung ương
Tương tự như ở trẻ em, xâm lấn thần kinh
trung ương vào lúc chẩn đoán thường rất ít xảy
ra ở người lớn nhưng dự hậu của xâm lấn rất
xấu(23). Nếu không phòng ngừa xâm lấn thần
kinh trung ương, thì phần lớn bệnh nhân
BCCDL sẽ tái phát não - màng não trong vòng 1
năm. Dựa vào những ghi nhận từ các nghiên cứu
trong quá khứ, các phác đồ hiện nay sử dụng
tiêm hóa chất vào ống tủy (methotrexate,
cytarabine và depomedrol) kết hợp với xạ thần
kinh trung ương. Việc sử dụng liều cao của
những hóa chất thấm tốt qua hàng rào máu não
trong phác đồ như methotrexate, cytarabine,
asparaginase cũng một phần nổ lực ngăn ngừa
sự xâm lấn thần kinh trung ương(30).
Tóm lại, điều trị BCCDL người lớn hiện
nay là sự tích hợp từ những phác đồ BCCDL
trẻ em với những kết quả nghiên cứu lâm sàng
cũng như các đặc điểm riêng biệt ở người lớn.
Sử dụng liều cao của một số thuốc hóa trị liệu,
thời gian trì hoãn giữa các đợt hóa trị liệu
được rút ngắn lại phối hợp với G-CSF trong
từng giai đoạn giúp cải thiện phần nào đáp
ứng cho bệnh nhân và giảm độc tính trong
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 18
suốt quá trình điều trị.
Điều trị BCCDL cho nhóm Ph+
Điều trị BCCDL cho nhóm Ph+ là sự kết hợp
giữa phác đồ hóa trị liệu chuẩn và thuốc điều trị
nhắm đích ức chế tyrosin kinase đã tạo nên sự
thay đổi ngoạn mục trong điều trị BCCDL Ph+.
Sự xây dựng phác đồ hiện nay dựa vào những
kết quả của nhiều nghiên cứu có giá trị trước đó.
Tác giả Thomas năm 2004 đã lần đầu
chứng tỏ được việc kết hợp Imatinib trong
điều trị tấn công của phác đồ hyperCVAD đã
mang lại kết quả khả quan nhưng không làm
tăng thêm độc tính cho bệnh nhân với tỷ lệ lui
bệnh hoàn toàn đến trên 90%(36). Những
nghiên cứu khác đã hỗ trợ cho nhận định
này(25,26). Trong nghiên cứu GRAAPH-2003,
imatinib được kết hợp vào trong điều trị tấn
công và củng cố đã cải thiện đáng kể tỷ lệ lui
bệnh hoàn toàn so với nhóm chỉ điều trị hóa
trị liệu đơn thuần như LALA-94. Thực tế, đến
thời điểm hiện tại vẫn chưa có một nghiên cứu
nào khẳng định thời gian tối ưu cho việc điều
trị ức chế tyrosin kinase. Từ một số dữ liệu
bước đầu, nhiều tác giả đã đưa ra khuyến cáo
việc sử dụng ức chế tyrosin kinase nên bắt đầu
sớm trong tuần đầu sau khi bắt đầu hóa trị
liệu và kéo dài đến duy trì(40).
Ghép tế bào gốc tạo máu
Ghép tế bào gốc trong thời gian lui bệnh đầu
tiên thì còn tranh luận chưa thống nhất. BCCDL
người lớn, tỉ lệ sống không biến cố 5 năm (EFS)
là 30 - 40% nếu hóa trị đơn thuần và từ 40 - 60%
nếu dị ghép. Thậm chí, cả hai nghiên cứu trẻ em
và người lớn, gợi ý lợi ích của dị ghép chỉ trên
một số bệnh nhân có nguy cơ cao. Bệnh nhân có
yếu tố tiên lượng xấu, có nhiễm sắc thể Ph
dương tính hoặc kém đáp ứng với điều trị tấn
công ban đầu thì nên dị ghép tế bào gốc trong
thời gian lui bệnh đầu tiên. Dị ghép cũng cải
thiện kết quả ở bệnh nhân BCCDL người lớn có
t(4;11), nhưng không cho kết quả tốt hơn ở trẻ
em có cùng kiểu gen (genotype)(8).
Đối với nhóm BCCDL Ph+, các tác giả vẫn
khuyến cáo nên ghép tế bào gốc đồng loại khi
bệnh ổn định. Tuy nhiên một nghiên cứu giai
đoạn II JALSG đã chứng minh được sự cải thiện
thời gian sống còn ở những bệnh nhân không
ghép tế bào gốc. Chính những điều này đã đặt ra
câu hỏi: liệu ghép có còn quan trọng ở nhóm
BCCDL Ph+. Đây cũng là vấn đề mà các nhóm
nghiên cứu trong thời gian tới để có thể hoàn
thiện nhất cách thức điều trị cho nhóm BCCDL
đặc biệt này(42).
Một số thuốc mới trong điều trị BCCDL
Rituximab
Rituximab là kháng thể đơn dòng IgG kháng
CD20 có mặt trên phần lớn các tế bào lymphô B
nên được dùng điều trị các bệnh tăng sinh ác
tính dòng tế bào lymphô B. Những tiến bộ trong
nghiên cứu mức độ phân tử BCC đã giúp cho các
nhà khoa học tìm ra và ứng dụng nhiều kháng
thể đơn dòng chống kháng nguyên đặc hiệu trên
bề mặt của tế bào ung thư(24).
Dasatinib
Là chất ức chế kinase thế hệ mới sau
imatinib, có tác dụng mạnh hơn và sử dụng cho
trường hợp kháng imatinb. Các phân tử được
thiết kế phù hợp hơn tại vị trí gắn với protein
BCR – ABL. Không giống như imatinib chỉ gắn
với hình thể không hoạt động của BCR – ABL,
dasatinib có thể gắn vào cả các hình thể hoạt
động và không hoạt động. Dasatinib được dung
nạp tốt, phần lớn các tác dụng phụ nặng liên
quan đến thuốc được xử trí bằng cách ngưng
thuốc hoặc giảm liều. đến vừa(24).
Nelarabine
Nelarabine là một chất ức chế purine
nucleoside, khi vào cơ thể nó được chuyển thành
arabinosylguanine nucleotide triphosphate
(araGTP) tương ứng, dẫn đến ức chế tổng hợp
DNA và gây độc . Các nghiên cứu tiền lâm sàng
cho thấy rằng tế bào T là đặc biệt nhạy cảm với
nelarabine. Trong tháng 10 năm 2005, nelarabine
đã được chấp thuận bởi FDA cho bạch cầu cấp
dòng lymphô T và T -cell lymphoblastic
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Tổng Quan
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 19
lymphoma. Sau đó nelarabine cũng được chấp
thuận ở châu Âu(24).
ĐIỀU TRỊ HỖ TRỢ
- Điều trị ngay lập tức hoặc ngăn ngừa biến
chứng chuyển hóa, nhiễm trùng, và sử dụng các
sản phẩm máu nếu cần.
- Đặt ống thông tĩnh mạch trung ương,
chống nôn - buồn nôn, kiểm soát đau, hỗ trợ tâm
lý cho bệnh nhân và gia đình là điều cần thiết.
Biến chứng chuyển hóa
Tăng axit uric và tăng phospho máu với hạ
canxi thứ phát thường gặp lúc chẩn đoán, ngay
cả trước hóa trị liệu, đặc biệt ở bệnh nhân
BCCDL tế bào T. Sử dụng allopurinol hoặc
rasburicase để điều trị tăng axit uric máu,
Sevelamer để điều trị tăng phosphat máu.
Allopurinol giảm sự chuyển hóa của
mercaptopurine bằng cách sử dụng hết
phosphoribosyl pyrophosphate của nội bào và
ức chế xanthin oxydase, vì thế nếu sử dụng
allopurinol cùng với mercaptopurine thì phải
giảm liều của mercaptopurine(27,41).
Tăng bạch cầu
Khi số lượng bạch cầu tăng quá độ (>300
109/l) thì cần phải gạn tách bạch cầu để giảm
nhanh số lượng, làm giảm nguy cơ nghẽn mạch.
Trong điều trị tấn công phải giữ đủ lượng
dịch truyền vào cho bệnh nhân thường khoảng
2,5-3 lít/m2 da, nhằm duy trì lượng nước tiểu
khoảng 100ml/giờ để làm giảm nguy cơ lắng
đọng axit uric và những thành phần khác của
hội chứng ly giải tế bào(27,41).
Truyền chế phẩm máu
- Truyền hồng cấu lắng (HCL) để nâng Hb
9 g/dl.
- Khi số lượng bạch cầu >100 109/l nếu
truyền khối hồng cầu lắng có thể làm tăng độ
quánh máu, do vậy nên điều trị làm giảm số
lượng bạch cầu xuống thấp trước. Nếu tình trạng
thiếu máu nặng kèm với bệnh nhân kém chịu
đựng tình trạng thiếu máu đó, thì có thể truyền
khối hồng cầu lắng với số lượng ít và lập lại
nhiều lần.
- Triệu chứng xuất huyết dưới da chiếm
khoảng 30% trường hợp BCCDL. Nghiên cứu
cho thấy thường những bệnh nhân có số lượng
tiểu cầu dưới 20 109/l dễ có xuất huyết đe dọa
đến tính mạng nên những trường hợp này cần
truyền khối tiểu cầu để phòng ngừa biến
chứng(27,41).
Kiểm soát nhiễm trùng
- Trong giai đoạn điều trị tấn công bệnh
nhân nên nằm ở phòng sạch, không tiếp xúc
người có bệnh nhiễm trùng, không ăn thức ăn
sống, rau chưa nấu, sử dụng thuốc súc miệng
chống nhiễm khuẩn.
- Kháng sinh phòng ngừa là Trimethoprim-
Sulfamethoxazole (Bactrim): liều 24 mg/kg/ngày,
dùng 2-3 lần/ tuần, để phòng ngừa viêm phổi do
pneumocystic carinii (pneumocystic jiroveci).
Nếu bệnh nhân dị ứng bactrim có thể sử dụng
những loại khác như pentamidine.
- Sốt nhiễm trùng thường thấy trong BCCDL,
đặc biệt ở bệnh nhân giảm bạch cầu hạt, những
trường hợp này phải dùng kháng sinh phổ rộng
theo kinh nghiệm, không đợi kết quả xét nghiệm
vi trùng học, cho đến khi hết nhiễm trùng.
- Trong giai đoạn điều trị tấn công có thể làm
gia tăng nguy cơ dể mắc những bệnh nhiễm
trùng, do sử dụng thuốc ức chế tủy xương, ức
chế miễn dịch, gây sự tổn thương niêm mạc. Ít
nhất 50% bệnh nhân trải qua giai đoạn này bị
nhiễm trùng.
- Vi khuẩn thường gặp: Gram dương:
Streptococcus, Staphylococcus. Gram âm: Klebsiella,
E.coli, Pseudomonas Có thể kèm nhiễm nấm khi
giảm bạch cầu kéo dài.
- Cấy máu và các chất dịch như: nước tiểu,
phân, đàm, mủ ở các ổ nhiễm trùng, dịch
màng phổi (nếu có) để phân lập vi khuẩn và
làm kháng sinh đồ. Đồng thời làm các xét
nghiệm khác ở những vị trí nghi ngờ nhiễm
trùng như: chụp X quang phổi, siêu âm bụng,
chụp cắt lớp phổ(27,41)...
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 20
Các yếu tố tăng trưởng tạo máu
Các yếu tố kích thích tăng trưởng dòng bạch
cầu hạt là những yếu tố quan trong điều trị hỗ
trợ, bao gồm: G-CSF, GM-CSF.
Sử dụng 1 trong 2 loại thuốc tăng trưởng trên
ở bệnh nhân BCCDL sau hóa trị tấn công, một số
tác giả nhận thấy: sẽ làm rút ngắn thời gian giảm
bạch cầu hạt trong quá trình điều trị, vẫn tiếp tục
được kế hoạch của phác đồ điều trị; giảm tỉ lệ
nhiễm trùng nghiêm trọng nhưng một số trường
hợp cũng không rõ ràng; rút ngắn thời gian
trung bình nằm viện. Tuy nhiên dùng G-CSF
người ta nhận thấy không kéo dài thời gian sống,
không giảm số ngày sốt do giảm bạch cầu hạt và
cũng không giảm chi phí điều trị(20, 41).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Annino L, Vegna M L, Camera A, et al (2002), “Treatment of
adult acute lymphoblastic leukemia (ALL): long-term follow-
up of the GIMEMA ALL 0288 randomized study”, Blood,
99(3), 863-871.
2. Bostrom B C, Sensel M R, Sather H N, et al (2003),
“Dexamethasone versus prednisone and daily oral versus
weekly intravenous mercaptopurine for patients with
standard-risk acute lymphoblastic leukemia: a report from the
Children's Cancer Group”, Blood, 101(10), 3809-3817.z
3. Cassileth P A, Andersen J W, Bennett J M, et al (1992), “Adult
acute lymphocytic leukemia: the Eastern Cooperative
Oncology Group experience”, Leukemia, 6 Suppl 2, 178-181.
4. Cuttner J, Mick R, Budman D R, et al (1991), “Phase III trial of
brief intensive treatment of adult acute lymphocytic leukemia
comparing daunorubicin and mitoxantrone: a CALGB
Study”, Leukemia, 5(5), 425-431
5. DeVita Vincent T, Lawrence Theodore S, Rosenberg Steven A,
(2011), “DeVita, Hellman, and Rosenberg's cancer : principles
& practice of oncology (9th ed.)”, Wolters Kluwer
Health/Lippincott Williams & Wilkins, Philadelphia.
6. Dombret H, Huguet F, Ifrah N, (2005), Protocol GRAALL 2005,
Protocole multicentrique de traitement des leucémies aiguës
lymphoblastiques de l’adulte jeune, Publique-Hôpitaux de Paris.
7. Durrant I J, Prentice H G, Richards S M, (1997),
“Intensification of treatment for adults with acute
lymphoblastic leukaemia: results of U.K. Medical Research
Council randomized trial UKALL XA. Medical Research
Council Working Party on Leukaemia in Adults”, Br J
Haematol, 99(1), 84-92.
8. Fielding A K, Goldstone A H, (2008), “Allogeneic
haematopoietic stem cell transplant in Philadelphia-positive
acute lymphoblastic leukaemia”, Bone Marrow Transplant,
41(5), 447-453.
9. Freund M, Link H, Diedrich H, et al, (1991), “High-dose ara-C
and etoposide in refractory or relapsing acute leukemia”,
Cancer Chemother Pharmacol, 28(6), 487-490.
10. Furie Bruce, (2003), Clinical hematology and oncology:
presentation, diagnosis, and treatment. Churchill Livingstone,
Philadelphia, Pa.
11. Gaynon P. S, Carrel A. L, (1999), “Glucocorticosteroid therapy
in childhood acute lymphoblastic leukemia”, Adv Exp Med
Biol, 457, 593-605.
12. Gokbuget N, Hoelzer D, (2002), “Recent approaches in acute
lymphoblastic leukemia in adults”, Rev Clin Exp Hematol, 6(2),
114-141; discussion 200-112.
13. Goodman Louis S, Brunton Laurence L, Chabner Bruce, et al
(2011), Goodman & Gilman's pharmacological basis of therapeutics
(12th ed). McGraw-Hill, New York
14. Group Childhood ALL Collaborative (1996), “Duration and
intensity of maintenance chemotherapy in acute
lymphoblastic leukaemia: overview of 42 trials involving
12000 randomised children”, Lancet, 347(9018), 1783-1788.
15. Harris R E, McCallister J A, Provisor D S, et al. (1980),
“Methotrexate/L-asparaginase combination chemotherapy for
patients with acute leukemia in relapse: a study of 36
children”, Cancer, 46(9), 2004-2008.
16. Howard J P, Albo V, Newton W A, Jr, (1968), “Cytosine
arabinoside. Results of a cooperative study in acute childhood
leukemia”, Cancer, 21(3), 341-345.
17. Huguet F, Leguay T, Raffoux E, et al, (2009), “Pediatric-
inspired therapy in adults with Philadelphia chromosome-
negative acute lymphoblastic leukemia: the GRAALL-2003
study”, J Clin Oncol, 27(6), 911-918.
18. Hurwitz C A, Silverman L B, Schorin M A, et al. (2000),
“Substituting dexamethasone for prednisone complicates
remission induction in children with acute lymphoblastic
leukemia”, Cancer, 88(8), 1964-1969.
19. Kantarjian H, Thomas D, O'Brien S, et al. (2004), “Long-term
follow-up results of hyperfractionated cyclophosphamide,
vincristine, doxorubicin, and dexamethasone (Hyper-CVAD),
a dose-intensive regimen, in adult acute lymphocytic
leukemia”, Cancer, 101(12), 2788-2801
20. Kaushansky K, Williams W J, (2010), Williams hematology (8th
ed.). McGraw-Hill Medical, New York, 1732-1760.
21. Larson R A, Dodge R K, Burns C P, et al. (1995), “A five-drug
remission induction regimen with intensive consolidation for
adults with acute lymphoblastic leukemia: cancer and
leukemia group B study 8811”, Blood, 85(8), 2025-2037.
22. Larson R A, Dodge R K, Linker C A, et al, (1998), “A
randomized controlled trial of filgrastim during remission
induction and consolidation chemotherapy for adults with
acute lymphoblastic leukemia: CALGB study 9111”, Blood,
92(5), 1556-1564.
23. Lazarus H. M, Richards S. M, Chopra R, et al, (2006), “Central
nervous system involvement in adult acute lymphoblastic
leukemia at diagnosis: results from the international ALL trial
MRC UKALL XII/ECOG E2993”, Blood, 108(2), 465-472.
24. Lech-Maranda E, Mlynarski W, (2012), “Novel and emerging
drugs for acute lymphoblastic leukemia”, Curr Cancer Drug
Targets, 12(5), 505-521.
25. Lee K H, Lee J H, Choi S J, et al, (2005), “Clinical effect of
imatinib added to intensive combination chemotherapy for
newly diagnosed Philadelphia chromosome-positive acute
lymphoblastic leukemia”, Leukemia, 19(9), 1509-1516
26. Lee S, Kim Y J, Min C K, et al, (2005), “The effect of first-line
imatinib interim therapy on the outcome of allogeneic stem
cell transplantation in adults with newly diagnosed
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Tổng Quan
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 21
Philadelphia chromosome-positive acute lymphoblastic
leukemia”, Blood, 105(9), 3449-3457.
27. Lichtman MA, Beutler E, Seligsohn U, et al. (2007), William
Hematology: Acute lymphoblastic leukemia (7 ed ed.). The
McGraw-Hill companies, Inc.
28. Mandelli F, Annino L, Rotoli B, (1996), “The GIMEMA ALL
0183 trial: analysis of 10-year follow-up. GIMEMA
Cooperative Group, Italy”, Br J Haematol, 92(3), 665-672.
29. Mitchell C D, Richards S M, Kinsey S E, et al, (2005), “Benefit
of dexamethasone compared with prednisolone for childhood
acute lymphoblastic leukaemia: results of the UK Medical
Research Council ALL97 randomized trial”, Br J Haematol,
129(6), 734-745.
30. Omura GA, Moffitt S, Vogler WR, et al, (1980), “Combination
chemotherapy of adult acute lymphoblastic leukemia with
randomized central nervous system prophylaxis”, Blood, 55(2),
199-204
31. Ozkaynak M F, Avramis V I, Carcich S, et al, (1998),
“Pharmacology of cytarabine given as a continuous infusion
followed by mitoxantrone with and without
amsacrine/etoposide as reinduction chemotherapy for
relapsed or refractory pediatric acute myeloid leukemia”, Med
Pediatr Oncol, 31(6), 475-482.
32. Pui C H, Evans W E (2006), “Treatment of acute lymphoblastic
leukemia”, N Engl J Med, 354(2), 166-178.
33. Ribera J M, Ortega J J, Oriol A, et al, (1998), “Late
intensification chemotherapy has not improved the results of
intensive chemotherapy in adult acute lymphoblastic
leukemia. Results of a prospective multicenter randomized
trial (PETHEMA ALL-89). Spanish Society of Hematology”,
Haematologica, 83(3), 222-230
34. Rowe J M, Buck G, Burnett A K, et al, (2005), “Induction
therapy for adults with acute lymphoblastic leukemia: results
of more than 1500 patients from the international ALL trial:
MRC UKALL XII/ECOG E2993”, Blood, 106(12), 3760-3767
35. Stock W, La M, Sanford B, et al, (2008), “What determines the
outcomes for adolescents and young adults with acute
lymphoblastic leukemia treated on cooperative group
protocols? A comparison of Children's Cancer Group and
Cancer and Leukemia Group B studies”, Blood, 112(5), 1646-
1654
36. Thomas D A, Faderl S, Cortes J, et al, (2004), “Treatment of
Philadelphia chromosome-positive acute lymphocytic
leukemia with hyper-CVAD and imatinib mesylate”, Blood,
103(12), 4396-4407
37. Thomas X, Boiron J M, Huguet F, et al (2004), “Outcome of
treatment in adults with acute lymphoblastic leukemia:
analysis of the LALA-94 trial”, J Clin Oncol, 22(20), 4075-4086
38. Trần Văn Bé (1998), Lâm sàng huyết học. Nhà xuất bản y học
TP HCM, 153-163, 191-207
39. Trần Văn Bé (2002), Cẩm nang điều trị các bệnh lý về máu. Nhà
xuất bản Y học, Tp Hồ Chí Minh, tr. 5 - 55
40. Wassmann B, Pfeifer H, Goekbuget N, et al (2006),
“Alternating versus concurrent schedules of imatinib and
chemotherapy as front-line therapy for Philadelphia-positive
acute lymphoblastic leukemia (Ph+ ALL)”, Blood, 108(5), 1469-
1477
41. Wintrobe M M, Greer J P (2009), Wintrobe's clinical hematology
(12th ed.). Wolters Kluwer Health/Lippincott Williams &
Wilkins, Philadelphia, 1821-1842
42. Yanada M, Takeuchi J, Sugiura I, et al (2006), “High complete
remission rate and promising outcome by combination of
imatinib and chemotherapy for newly diagnosed BCR-ABL-
positive acute lymphoblastic leukemia: a phase II study by the
Japan Adult Leukemia Study Group”, J Clin Oncol, 24(3), 460-
466.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_tri_bach_cau_cap_dong_lymphonguoi_lon.pdf