Điều trị bệnh lý khuyết eo trượt đốt sống nặng vùng thắt lưng với cấu hình ốc chân cung và hàn liên thân đốt qua lối sau: Nhân 02 trường hợp

BÀn lUận Thất bại do không hàn xương trong trường hợp chỉ áp dụng phẫu thuật hàn xương tại chổ và không nắn chỉnh cho những trường hợp khuyết eo trượt đốt sống mức độ nặng đã được nhiều tác giả báo cáo (1,7). Tỉ lệ không hàn xương này đặc biệt tăng cao trong những trường hợp cần giải ép rộng cho bệnh lý rễ vùng thắt lưng, có mất vững cột sống thắt lưng, thay đối hình dạng thân đốt sống như đốt sống thắt lưng 5 có hình quả trám và biến đổi tròn nhẵn của vòm xương thiêng(1,7,8). Việc mang nẹp thân hay phải nằm trên giường từ 8 đến 12 tuần sau mổ là vấn đề rất khó khăn cho bệnh nhân(3,12). Các nhận định trên cho thấy tính hợp lý của việc chọn lựa phương pháp điều trị phẫu thuật nắn chỉnh với cấu hình ốc chân cung và hàn liên thân đốt cho các trường hợp khuyết eo trượt đốt sống nặng trong báo cáo của chúng tôi. Nhiều phương pháp nắn chỉnh và hàn xương cho bệnh lý khuyết eo trượt đốt sống thắt lưng nặng đã được báo cáo. Nắn chỉnh qua dụng cụ lối sau và hàn xương sau bên đã được Lenke và Bridwell (7) báo cáo. Tuy nhiên phương pháp này không đảm bảo cho việc chống đở phía trước ở tầng hàn xương dẫn đến thất bại điều trị do gãy, sút dụng cụ lối sau. Nắn chỉnh với hai đường mổ giải phóng lối trước và cố định dụng cụ lối sau cũng đă được báo cáo với những biến chứng liên quan đến đường mổ lối trước như: Cảm giác nóng lạnh khác biệt ở hai chân do tổn thương hệ hạch giao cảm, ảnh hưởng hoạt động sinh dục, tổn thương mạch máu lớn. Và đôi đòi hỏi phải thực hiện hai cuộc mổ cách nhau từ 5 đến 7 ngày(2,6). Hai bệnh nhân trong báo cáo này được điều trị chỉ với một đường mổ lối sau. Với kết quả nắn chỉnh khá tốt từ độ IV trước phẫu thuật về độ I sau phẫu thuật đạt được ở cả hai bệnh hân, và việc hàn liên thân đốt với nêm PEEK được thực hiện an toàn không biến chứng thần kinh. Chúng tôi nhận thấy việc giải phóng mô xơ dính giửa bờ sau dưới của đốt sống trên và bờ trước trên của đốt sống dưới có thể được thực hiện một cách thoả đáng và an toàn qua đường mổ lối sau. Điều này giúp tránh được những biến chứng liên quan đến đường mổ lối truớc. Đồng thời phương pháp điều trị của chúng tôi cũng tạo được sự chống đở phía trước do đó có thể khắc phục được biến chứng gãy sút dụng cụ

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị bệnh lý khuyết eo trượt đốt sống nặng vùng thắt lưng với cấu hình ốc chân cung và hàn liên thân đốt qua lối sau: Nhân 02 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ 1/2012 12 Ngô Minh Lý, Lê Minh Trí, Phạm Văn Nên Bệnh viện CTCH thành phố Hồ Chí Minh Ngo Minh Ly, Le Minh Tri, Pham Van Nen ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ KHUYẾT EO TRƯỢT ĐỐT SỐNG NẶNG VÙNG THẮT LƯNG VỚI CẤU HÌNH ỐC CHÂN CUNG VÀ HÀN LIÊN THÂN ĐỐT QUA LỐI SAU: NHÂN 02 TRƯỜNG HỢP MANAGEMENT OF HIGH GRADE OF THE LUMBAR SPINE WITH PEDICLE SCREW CONSTRUCT AND PLIF: A REPORT OF TWO CASES ABSTRACT Introduction: Lumbar and lumbosacral spondylolisthesis has been grouped into low- grade spondylolisthesis (≤50% slip, forward translation of the vertebral body) and high- grade spondylolisthesis (>50% slip, forward translation of the vertebral body). The former commonly respond to nonsurgical treatment. Whereas the later much more reliably to surgial treatment. The ideal surgical management of high-grade spondylolisthesis is controversial. This paper aims to report two cases of severe spondylolisthesis at lumbar region who were treated by us at the Hospital of Orthopaedy and Traumatology, HCM City Material and Methods: We report two patients with high-grade spondylolisthesis who underwent surgical treatment through posterior approach for wide decompression, reduction by using pedicle screws, and posterior lumbar interbody fusion (PLIF) by using PEEK cages with good outcomes in our Department. Ñaët vaán ñeà: Ñieàu trò beänh lyù khuyeát eo tröôït phuï thuoäc vaøo möùc ñoä nheï hay naëng. Phaãu thuaät thöôøng chæ ñònh cho nhöõng tröôøng hôïp beänh naëng hoaëc ñieàu trò baûo toàn thaát baïi. Baùo caùo naøy nhaèm giôùi thieäu 2 tröôøng hôïp beänh khuyeát eo tröôït naëng ñoát soáng vuøng thaét lung, ñieàu trò noäi khoâng keát quaû ñaõ ñöôïc moå thaønh coâng taïi beänh vieän CTCH thaønh phoá HCM. Ñoái töôïng vaø phöông phaùp nghieân cöùu: Moâ taû 2 tröôøng hôïp beänh nhaân bò khuyeát eo tröôït ñoát soáng vuøng thaét lung ñöôïc phaãu thuaät naén chænh qua caáu hình oác chaân cung vaø haøn lieàn than ñoát qua loái sau (PLIF). Moâ taû kyõ thuaät vaø ñaùnh giaù keát quaû, Keát quaû: Hai beänh nhaân goàm moät nöõ 31 tuoåi vaø moät nam 42 tuoåi, ñeàu coù caùc tieâu chuaån laâm saøng vaø Xquang ñieån hình cuûa beänh khuyeát eo tröôït ñoát soáng vuøng thaét lung, giai ñoaïn IV (theo phaân loaïi Myerding). Caû hai beänh nhaân naøy ñeàu ñöôïc moå naén chænh qua caáu hình oác chaân cung vaø haøn lieàn thaân ñoát qua loái sau; thôøi gian moå laø 180 phuùt-400 phuùt, löôïng maùu maát laø 400ml-600ml. Sau moå coù caûi thieän roõ reät veà daáu hieäu laâm saøng vaø chöùc naêng vaän ñoäng, goùc coøng giaûm töø 450 vaø 480 xuoáng coøn 100 vaø 160. Keát luaän: Phaãu thuaät naén chænh khuyeát eo tröôït ñoát soáng vuøng thaét löng vôùi caáu hình oác chaân cung vaø haøn lieàn thaân ñoát qua loái sau (PLIF) laø löïa choïn thích hôïp, an toaøn vaø hieäu quaû cho caùc tröôïng hôïp beänh naëng Töø khoùa: tröôït ñoát soáng, oác chaân cung, haøn xöông lieân thaân ñoát loái sau (PLIF) TÓM TẮT Điều trị bệnh lý khuyết eo trượt đốt sống nặng vùng thắt lưng với cấu hình ốc chân cung ... 13 Results: Clinical cases presentation: 1) A 31-year-old lady having history of low back pain for more than 10 years admitted our Department with severe low back pain and intermittent claudication in less than 50m. The patient was diagnosed to have partial paralyses in the lower limbs due to high-grade spondylolisthesis at L4-L5 with 450 of lumbocacral kyphosis (slip angle). Surgical treatment was carried out through posterior approach for Gill procedure added wide decompression for L4, L5 nerve roots, reduction by using pedicle screws at L4-L5, and PLIF with PEEK cages. The patient shows a good clinical outcomes after surgery and a markedly correction of lumbosacral kyphosis from 450 to 100; 2) A 42-year-old gentleman sustained low back pain for more than 7 years prior to admittion, came to our deparment for treatment of lumbar problem with severe low back pain and intermittent claudication in less than 20m. Diagnosis was L5-S1 high-grade spondylolisthesis with 480 of lumbosacral kyphosis (slip angle) causing partial paralyses in the lower limbs. The patient was surgically treated with Gill procedure added L5-S1-root wide decompression, reduction by using pedicle screws at L4, L5, S1, and L5-S1 PLIF with PEEK cages. The good clinical outcomes were achieved with lumbosacral kyphosis corrected from 480 to 160. Conclusion: Fusion and reduction with pedicle-screw construct and PLIF with PEEK cages is a treatment of choice for high-grade spondylolisthesis. Wide decompression of the adjacent nerve roots at the involved level plays a key role in advoiding the neurologic deficits. Reduction of lumbosacral kyphosis (slip angle) reduces contracture of Hamstring muscles thus resulting in a better gait for patient. Key words: spondylolisthesis, pedicle screws, PLIF Đặt vấn Đề Bệnh lý khuyết eo trượt đốt sống thắt lưng được phân thành 2 nhóm. Khuyết eo trượt đốt sống mức độ nhẹ (Low-grade spondylolisthesis) với độ trượt ≤50% và khuyết eo trượt đốt sống mức độ nặng (High-grade spondylolisthesis) với độ trượt >50% theo phân loại của Meyerding(8). Điều trị phẫu thuật chỉ đặt ra cho khuyết eo trựơt đốt sống mức độ nhẹ khi thất bại với điều trị bao tồn. Trong khi đó phẫu thuật là chỉ định cho hầu hết các trường hợp khuyết eo trượt đốt sống mức độ nặng. Phương pháp điều trị lý tưởng cho bệnh lý khuyết eo trượt đốt sống nặng vẫn còn là vấn đề bàn cải. Mục tiêu: Báo cáo này nhằm giới thiệu 2 trường hợp bệnh lý khuyết eo trượt đốt sống nặng vùng thắt lưng thành công với điều trị phẫu thuật nắn chỉnh qua cấu hình ốc chân cung và hàn liên thân đốt qua lối sau (PLIF). Trường hợp 1 Bệnh nhân nữ, 31 tuổi, làm nghề buôn bán tạp phẩm, nhập viện điều trị tại Khoa cột sống A, Bv Chấn thương Chỉnh Hình Tp. Hồ Chí Minh vào ngày 19 tháng 8 năm 2009 với mã số nhập viện 663CSA/09 do đau thắt lưng làm bệnh nhân không thể đi lại quá 30m – 50m, ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày. Bệnh nhân đau thắt lưng khoảng trên 10 năm với điều trị nhiều đợt bằng thuốc nhưng diển tiến không thuận lợi với những đợt đau thắt lưng nặng và lập lại nhiều lần nổi bật khoảng gần 2 năm trước nhập viện. Đau thắt lưng lan 2 chân, tê 2 chân nặng lên rõ rệt mỗi khi đi lại làm bệnh nhân không thể đi liên tục hơn 50m đôi khi chỉ 30m, tuy nhiên không ảnh hưởng vấn đề tiêu tiểu. Bệnh nhân phải ưởn người ra trước và hơi gập gối khi đứng, đi lại. Co rút nhóm cơ Hamstrings hai bên ghi nhận rõ khi khám, yếu 2 chân với lực cơ tứ đầu đùi và cơ duỗi dài ngón cái là 3/5. Giảm cảm giác rõ khoảng 60% vùng trước và ngoài cẳng chân hai bên khi kích thích bằng kim. Phản xạ gân xương bất thường với giảm phản xạ gân cơ tứ đầu hai chân. X-quang cho thấy hình ảnh khuyết eo đốt sống thắt lưng 4 (TL4) kèm trựợt nặng độ IV (phân loại Myerding(8)) đốt sống thắt lưng 4 trên thắt lưng 5 (TL4/TL5). Góc còng vùng thắt lưng cùng theo Lindholm và cộng sự(8) là 45°. Trựợt TL4/TL5 thay đổi không rõ trên X-quang ngang động (cúi, ngữa) (hình 1). L4 L4 H1. X-quang động của trường hợp 1: (a) X-quang ngang cúi, (b) X-quang ngang ngữa cho thấy trượt nặng đốt sống TL4/TL5 (độ IV Myerding) và thay đổi không đáng kể trên X-quang động (đường kẻ không liên tục). Ghi nhận khuyết eo đốt sống TL4 (mũi) a b TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ 1/2012 14 Hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) cho thấy thoái hoá nặng, hẹp đĩa đệm TL4-TL5, hẹp ngách bên TL4-TL5 hai bên do thoái hóa mấu khớp và dầy dây chằng vàng, đồng thời cho thấy khoảng cách rất xa (>3/4 chiều dài thân đốt sống) giửa động mạch chủ bụng và nơi dính thân đốt sống TL4-TL5 phía trước do trượt TL4/TL5 (hình 3). Bệnh nhân được chẩn đoán khuyết eo cột sống TL4 kèm trượt nặng TL4/TL5 gây liệt một phần hai chân và đi cách hồi khoảng 30m – 50m. Điều trị Phẫu thuật kéo dài khoảng 2 tiếng 55 phút, với lượng máu mất cho cuộc mổ khoảng 600ml để thực hiện (1) lấy phần cung sau TL4 và giải ép rộng rễ thần kinh TL4, TL5 ra đến vùng lổ liên hợp hai bên (PT Gill + giải ép rộng rễ thần kinh) (hình 2); (2) nắn chỉnh cố định qua dụng cụ ốc chân cung lối sau (ốc chân cung đơn trục, Titanium); (3) hàn liên thân đốt TL4-TL5 qua lối sau (PLIF với nêm PEEK được nhồi xương ghép tự thân). Bớt tê hai chân, phục hồi lực cơ ở hai chân là những cải thiện bước đầu được bệnh nhân ghi nhận sau phẫu thuật. Bệnh nhân bắt đầu đi lại không cần mang nẹp vào ngày thứ 3 sau mổ khi vết mổ bớt đau. Lần tái khám gần nhất khoảng 9 tháng sau phẫu thuật, bệnh nhân thoả mãn với cuôc mổ, hết đau thắt lưng, không còn ưởn lưng khi đi lại, không còn dấu hiệu co rút nhóm cơ Hamstrings hai bên. X-quang kiểm tra cho thấy trựơt đốt sống không thay đổi so với sau mổ, không có biểu hiện gãy sút dụng cụ, không có hiện tượng tiêu xương ghép trong nêm PEEK, và góc còng vùng thắt lưng cùng (lumbosacral kyphosis, slip angle) 100 (hình 4). H2. Hình ảnh trên CT của trường hợp 1: (a) trượt độ IV của đốt sống TL4/TL5 kèm hình ảnh khuyết eo đốt sống TL4 (mũi tên) trên lát cắt dọc; (b) lát cắt ngang cho thấy khuyết eo đốt sống (đầu mũi tên) và mấu khớp thoái hoá (dấu hoa thị). Thoái hoá mấu khớp TL4-TL5, khuyết eo đốt sống TL4, trượt TL4/TL5 thấy rõ trên X-quang điện toán cắt lớp tái tạo (Reconstructive CT scans) (hình 2). a b ** H3. Các rễ thần kinh trên và dưới tầng trượt đốt sống (mũi tên) được giải ép rộng ra đến vùng lổ liên hợp hai bên. Điều trị bệnh lý khuyết eo trượt đốt sống nặng vùng thắt lưng với cấu hình ốc chân cung ... 15 Trường hợp 2 Bệnh nhân nam , 42 tuổi, làm ruộng, nhập viện điều trị tại Khoa Cột Sống A, Bv Chấn thương Chỉnh Hình Tp. Hồ Chí Minh vào ngày 01 tháng 10 năm 2009, mã số nhập viện 754CSA/09 do đau thắt lưng làm bệnh nhân không thể đi lại quá 20m, ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày. Bệnh nhân đau thắt lưng khoảng trên 7 năm, tự điều trị với thuốc tự mua, thuốc nam, thuốc bắc. Đau lan chân phải khoảng 1 năm trước nhập viện kèm tê 2 chân gây khó khăn khi đi lại. Bệnh nhân không thể đi liên tục hơn 20m do đau thắt lưng lan 2 chân. Triệu chứng giảm khi ngồi nghỉ. Vấn đề tiêu tiểu không ghi nhận có than phiền từ bệnh nhân. Đau thắt lưng tăng khi cúi, Bệnh nhân luôn phải ưởn người ra trước và hơi gập gối khi đứng, đi lại. Nhóm cơ Hamstrings hai bên co rút rõ khi khám, Liệt một phần 2 chân bên phải nặng hơn bên trái với lực cơ duỗi dài ngón cái dài (P) 1/5, (T) 3/5; lực cơ dạng cổ chân (P) 2/5, (T) 3/5. Khám bằng kim ghi nhận giảm cảm giác rõ khoảng 70% vùng trước và ngoài cẳng chân hai bên và vùng sau đùi đến cẳng chân. Giảm phản xạ gân xương ở gân gót hai chân. H4. X-quang trước và sau phẫu thuật (t/h 1): (a)X-quang thẳng trước mổ: hình ảnh “Napoleon’s hat” của bản sống (mũi tên). (a1)X-quang thẳng sau mổ: 2 PEEK cages (đầu mũi tên) đặt liên thân đốt TL4-TL5. (b) X-quang ngang trước mổ và (b1)X-quang ngang sau mổ: trượt đốt sống được nắn chỉnh từ độ IV sang độ I (đường kẻ không liên tục) và góc còng vùng thắt lưng cùng cải thiện từ 450 còn 100 450 100 a ba1 b1 H5. X-quang trước và sau phẫu thuật của trường hợp 2: (a) thẳng trước mổ: hình ảnh “Napoleon’s hat” của bản sống (mũi tên); (a1) thẳng sau mổ: 2 PEEK cages (đầu mũi tên) đặt liên thân đốt TL5-Thg1; (b) ngang trước mổ và (b1) ngang sau mổ: trượt đốt sống được nắn chỉnh từ độ IV sang độ I (đường kẻ không liên tục) và góc còng vùng thắt lưng cùng cải thiện từ 480 còn 160 a ba1 b1 * * 480 160 TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ 1/2012 16 X-quang cho thấy hình ảnh khuyết eo đốt sống thắt lưng 5 (TL5) kèm trựợt nặng độ IV (phân loại Myerding) đốt sống thắt lưng 5 trên thiêng 1 (TL5/ Thg1). Trựợt TL5/Thg1 thay đổi không đáng kể trên X-quang ngang động (cúi, ngữa). Hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) cho thấy thoái hoá nặng, hẹp đĩa đệm TL5-Thg1, hẹp ngách bên TL5-Thg1 hai bên do thoái hóa mấu khớp và dầy dây chằng vàng, đồng thời cho thấy khoảng cách rất xa (>3/4 chiều dài thân đốt sống) giửa động mạch chủ bụng và nơi tiếp xúc thân đốt sống TL5-Thg1 phía trước do trượt TL5/Thg1. Bệnh nhân được chẩn đoán khuyết eo cột sống TL5 kèm trượt nặng TL5/Thg1 gây liệt một phần hai chân và đi cách hồi khoảng 20m. Điều trị Phẫu thuật kéo dài khoảng 4 tiếng 30 phút, với lượng máu mất cho cuộc mổ khoảng 400ml để thực hiện (1) lấy phần cung sau TL5 và giải ép rộng rễ thần kinh TL5, Thg1 ra đến vùng lổ liên hợp hai bên (PT Gill + giải ép rộng rễ thần kinh); (2) nắn chỉnh cố định qua dụng cụ ốc chân cung lối sau vào TL4-TL5-Thg1 (ốc chân cung đơn trục, Titanium); (3) hàn liên thân đốt TL5-Thg1 qua lối sau (PLIF với nêm PEEK được nhồi xương ghép tự thân. Bệnh nhân cảm nhận bớt tê hai chân, phục hồi lực cơ ở hai chân là những cải thiện trong 24 giờ sau mổ, bắt đầu đi lại không cần mang nẹp vào ngày thứ 3 sau mổ khi vết mổ bớt đau. Lần tái khám gần nhất khoảng 7 tháng sau phẫu thuật, bệnh nhân hài lòng với cuôc mổ, bớt đau thắt lưng nhiều, không còn ưởn lưng khi đi lại, không còn dấu hiệu co rút nhóm cơ Hamstrings hai bên. X-quang kiểm tra cho thấy trựơt đốt sống không thay đổi so với kết quả ngay sau mổ, không có biểu hiện gãy sút dụng cụ, không có hiện tượng tiêu xương ghép trong nêm PEEK, góc còng vùng thắt lưng cùng (lumbosacral kyphosis) là 16º so với 480 trước phẫu thuật (hính 5). BÀn lUận Thất bại do không hàn xương trong trường hợp chỉ áp dụng phẫu thuật hàn xương tại chổ và không nắn chỉnh cho những trường hợp khuyết eo trượt đốt sống mức độ nặng đã được nhiều tác giả báo cáo (1,7). Tỉ lệ không hàn xương này đặc biệt tăng cao trong những trường hợp cần giải ép rộng cho bệnh lý rễ vùng thắt lưng, có mất vững cột sống thắt lưng, thay đối hình dạng thân đốt sống như đốt sống thắt lưng 5 có hình quả trám và biến đổi tròn nhẵn của vòm xương thiêng(1,7,8). Việc mang nẹp thân hay phải nằm trên giường từ 8 đến 12 tuần sau mổ là vấn đề rất khó khăn cho bệnh nhân(3,12). Các nhận định trên cho thấy tính hợp lý của việc chọn lựa phương pháp điều trị phẫu thuật nắn chỉnh với cấu hình ốc chân cung và hàn liên thân đốt cho các trường hợp khuyết eo trượt đốt sống nặng trong báo cáo của chúng tôi. Nhiều phương pháp nắn chỉnh và hàn xương cho bệnh lý khuyết eo trượt đốt sống thắt lưng nặng đã được báo cáo. Nắn chỉnh qua dụng cụ lối sau và hàn xương sau bên đã được Lenke và Bridwell (7) báo cáo. Tuy nhiên phương pháp này không đảm bảo cho việc chống đở phía trước ở tầng hàn xương dẫn đến thất bại điều trị do gãy, sút dụng cụ lối sau. Nắn chỉnh với hai đường mổ giải phóng lối trước và cố định dụng cụ lối sau cũng đă được báo cáo với những biến chứng liên quan đến đường mổ lối trước như: Cảm giác nóng lạnh khác biệt ở hai chân do tổn thương hệ hạch giao cảm, ảnh hưởng hoạt động sinh dục, tổn thương mạch máu lớn. Và đôi đòi hỏi phải thực hiện hai cuộc mổ cách nhau từ 5 đến 7 ngày(2,6). Hai bệnh nhân trong báo cáo này được điều trị chỉ với một đường mổ lối sau. Với kết quả nắn chỉnh khá tốt từ độ IV trước phẫu thuật về độ I sau phẫu thuật đạt được ở cả hai bệnh hân, và việc hàn liên thân đốt với nêm PEEK được thực hiện an toàn không biến chứng thần kinh. Chúng tôi nhận thấy việc giải phóng mô xơ dính giửa bờ sau dưới của đốt sống trên và bờ trước trên của đốt sống dưới có thể được thực hiện một cách thoả đáng và an toàn qua đường mổ lối sau. Điều này giúp tránh được những biến chứng liên quan đến đường mổ lối truớc. Đồng thời phương pháp điều trị của chúng tôi cũng tạo được sự chống đở phía trước do đó có thể khắc phục được biến chứng gãy sút dụng cụ. Giải ép rộng rễ thần kinh tại tầng bệnh, đặc biệt rễ thần kinh ngay trên tầng đĩa sống bệnh (ví dụ rễ thần kinh TL5 cho tầng đĩa bệnh TL5-TH1) là việc rất quan trọng nhằm tránh biến chứng thần kinh khi thực hiện nắn chỉnh, đồng thời mang lại kết quả phục hồi thần kinh cho bệnh sau phẫu thuật. Cả hai trường hợp trong nghiên cứu của chúng tôi, các rễ thần kinh ngay trên tầng đĩa sống bệnh đều được giải ép rộng bộc lộ rõ rễ thần kinh ra đến vùng lổ liên hợp hai bên nhằm tránh tình trạng rễ thần kinh có thể bị chèn ép trong phần xương và mô xơ quanh rễ. Quan niệm này của chúng tôi cũng phù hợp với rất nhiều tác giả khác. Dù quan niệm điều trị giữa các tác giả có khác nhau như: Chỉ hàn xương đề nghị bởi Smith và Bohlman(11), nắn Điều trị bệnh lý khuyết eo trượt đốt sống nặng vùng thắt lưng với cấu hình ốc chân cung ... 17 Tài liệu tham khảo 1. Boxall D, Bradford DS, Winter RB, Moe JH: Management of severe spondylolisthesis in children and adolescents. J Bone Joint Surg Am 1979;61:479-495. 2. Bradford DS, Boachie-Adjei O: Treatment of severe spondylolisthesis by anterior and posterior reduction and stabilization: A long-term follow-up study. J Bone Joint Surg Am 1990;72:1060-1066. 3. Burkus JK, Lonstein LE, Winter RB, Denis F: Long-term evaluation of adolescents treated operatively for spondylolisthesis: A comparison of in situ arthrodesis and reduction followed by immobilization in a cast. J Bone Joint Surg Am 1992;74:693-704. 4. Dick WT, Schnebel B: Severe spondylolisthesis: Reduction and internal fixation. Clin Orthop Relat Res 1988;232:70-79. 5. Herman MJ, Pizzutillo PD, Cavalier R: Spondylolysis and spondylolisthesis in a child and adolescent athlete. Orthop Clin Noth Am 2003;34:461-467. 6. Lehmer SM, Steffee AD, Gaines RW Jr: Treatment of L5-S1 spondyloptosis by staged L5 resection with reduction and fusion of L4 onto S1 (Gaines procedure). Spine 1994;19:1916-1925. 7. Lenke LG, Bridwell KH: Evaluation and surgical treatment of high-grade isthmic dysplastic spondylolisthesis. Instr Course Lect 2003; 52:525-532. 8. Lindholm TS, Ragni R, Ylikovski M, Poussa M: Lumbar isthmic spondylolisthesis in children and adolescents: Radiographic evaluation and result of operative treatment. Spine 1990; 15:1350-1355. 9. Meyerding HW: Spondylolisthesis. Surg Gynecol Obstet 1932;54:371-377. 10. Petraco DM, Spivak JM, Cappadona JG, Kummer FG, Neuwirth MG: An anatomic evaluation of L5 nerve stretch in spondylolisthesis reduction. Spine 1996;21:1133-1138. 11. Smith MD, Bohlman HH: Spondylolisthesis treated by a single stage operation combining decompression with in situ posterolateal and anterior fusion: An analysis of eleven patients who had long-term follow-up. J Bone Joint Surg Am 1990;72:415-421. 12. Wiltse LL: The paraspinal sacrospinalis-splitting approach to the lumbar spine. Clin Othop Relat Res 1973;91:48-57. chỉnh kết hợp với hàn xương phía sau(1,7,8,10), nắn chỉnh và hàn xương qua hai đường mổ trước sau(4) nhưng các tác giả trên đều đưa ra chung một khuyến cáo là cần giải ép rộng rễ thần kinh khi phẫu thuật. Biến dạng còng vùng nối cột sống Thắt lưng - Thiêng (Lumbosacral kyphosis) được đánh giá qua góc trượt (Slip angle)(5) là yếu tố quan trọng liên quan đến sự co rút của nhóm cơ Hamstring ảnh hưởng đến dáng đi của bệnh nhân bị trượt đốt sống nặng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ còng cột sống Thắt lưng - Thiêng (biểu hiện qua góc trượt) đều cải thiện rõ rệt sau phẫu thuật ở cả hai bệnh nhân. Điều này giải thích lý do của việc đạt kết quả tốt trong việc cải thiện dáng đi làm hài lòng cả hai bệnh nhân sau phẫu thuật. Từ kết quả trên, chúng tôi cho rằng cải thiện biến dạng còng là vấn đề quan trọng trong phẫu thuật nắn chỉnh trượt đốt sống nặng vùng Thắt lưng - Thiêng. Việc sửa chửa di lệch trước sau của thân đốt sống chỉ nên thực hiện trong phạm vi an toàn nhằm tránh biến chứng thần kinh sau phẫu thuật.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdieu_tri_benh_ly_khuyet_eo_truot_dot_song_nang_vung_that_lun.pdf
Tài liệu liên quan