Về việc sử dụng vật liệu nút mạch, chúng tôi
thấy rằng coils là vật liệu nút mạch tối ưu sử dụng qua
đường TM đối với RĐTMMCXH với tỷ lệ bít tắc lỗ rò
80-100%[4,8]. Tuy nhiên, do xoang hang rộng nên để
nút hết luồng thông cần có số lượng coils lớn. Hơn nữa
cấu trúc rò phức tạp, nhiều ngách nên việc nút tắc hoàn
toàn bằng coils sẽ gặp khó khăn. Do đó, chúng tôi lựa
chọn phương án nút coils kết hợp với Onyx/Phil/Squid
trong hầu hết trường hợp (77,8%) cho kết quả tắc hoàn
toàn. Yoshida và cs đã can thiệp nút tắc hoàn toàn lỗ rò
với tỷ lệ 81,6% qua đường tĩnh mạch [19]. Theo Zhang
và cs, nút RĐTMMCXH bằng Onyx qua đường động
mạch và tĩnh mạch cho tỷ lệ thành công 91% và không
tái phát, tai biến triệu chứng thần kinh sọ não thoáng
qua chiếm 18%[1]. Trong các nghiên cứu khác tỷ lệ
nút thành công bằng Onyx cũng khá cao 62,5-80%[4].
Đối với trường hợp RĐTMMC có trào ngược vỏ não,
Van Rooij và cs sử dụng Onyx qua đường động mạch
cho kết quả tắc triệt để 100% và không tai biến trong
nghiên cứu 8 trường hợp[16]. Onyx là vật liệu nút mạch
dạng lỏng đồng trùng hợp không dính cho phép bơm số
lượng nhiều, dễ kiểm soát với thời gian kéo dài trong
một lần thủ thuật[6]. Do đó vật liệu này dần thay thế
keo trong điều trị bệnh lý dị dạng mạch máu não. Trong
nghiên cứu của chúng tôi có 2 trường hợp nút tắc hoàn
toàn bằng Onyx/Phil đơn thuần. Tuy nhiên, trường hợp
nút bằng Phil 25% bệnh nhân bị tai biến nghiêm trọng
(tắc động mạch não giữa phải và các nhánh xa động
mạch não trước phải không thể tái thông bằng lấy huyết
khối cơ học bằng Solitair và ACE 68). Do đó vấn đề đặt
ra là việc kiểm soát vật liệu nút mạch trong quá trình bơm
Phil/Onyx là hết sức quan trọng. Phil là vật liệu dạng lỏng
không trùng hợp hóa, độ cản quang tương đối thấp, do
đó khó khảo sát sự phân bố trong quá trình bơm.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị can thiệp rò động tĩnh mạch màng cứng xoang hang qua tái thông xoang đá dưới tại bệnh viện Bạch Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 32 - 12/201844
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
ĐIỀU TRỊ CAN THIỆP RÒ ĐỘNG TĨNH MẠCH
MÀNG CỨNG XOANG HANG QUA TÁI THÔNG
XOANG ĐÁ DƯỚI TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Transvenous embolisation of cavernous sinus
dural arteriovenous fistulas by recanalisation of
angiographic occlusive inferior petrous sinus
Vũ Đăng Lưu*, Trần Anh Tuấn*, Phạm Minh Thông*,
Nguyễn Quang Anh*, Nguyễn Thanh Nam**
* Trung tâm Điện quang, Bệnh
viện Bạch Mai, Hà Nội
** Khoa Chẩn đoán Hình ảnh,
Bệnh viện đa khoa quốc tế
Vinmec Đà Nẵng
SUMMARY
Background: Transvenous coil embolization via inferior petrous
sinus (IPS) is a curative and safe method to manage cavernous sinus
dural arteriovenous fistulas (CSDAVFs). However, this access will
be challenging in case of CSDAVFs associated with angiographic
occlusive IPS. Purpose: To report our primary results and experience
of transvenous embolization of the CSDAVFs by recanalisation of
angiographic occlusive IPS.
Methods: Retrospective study of the cases of 12 patients (1 man
and 11 women, ranging from 38 years to 79 years of age (mean, 62
years)) who underwent transvenous embolization by recanalisation of
angiographic occlusive IPS over a 18 month period. The angioarchitecture
of the CSDAVFs, the angiographic as well as the clinical outcomes after
embolization and the periprocedural complications were analyzed.
Results: True occlusive IPS was found in 12 of the patients. The
microcatheter was successfully navigated to the fistula site of the CS in
10 patients (83,3%), while such navigation failed in 2 patients following
numerous attempts.The rate of complete occlusion of CSDAVFs was
75%. One case with fatal complication due to MCA occlusion.
Conclusion: Angiographic occlusive IPS of CSDAVF may
be related to true occlusion of IPS. Transvenous embolization via
recanalisation of angiographic occlusive IPS is a safe and effective
method to manage CSDAVFs.
Keywords: Transvenous embolisation of cavernous, dural
arteriovenous fistulas
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 32 - 12/2018 45
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rò động tĩnh mạch màng cứng xoang hang
(RĐTMMCXH) là tình trạng thông động tĩnh mạch trực
tiếp hoặc gián tiếp vùng xoang hang có mạch nuôi xuất
phát từ các nhánh màng cứng động mạch cảnh ngoài
và/hoặc động mạch cảnh trong[1,2,3,4,8]. Điều trị can
thiệp RĐTMMCXH qua xoang đá dưới (XĐD) là một kỹ
thuật hiệu quả, an toàn [3,4,5,11]. Tuy nhiên, hướng
tiếp cận này có thể gặp khó khăn khi XĐD bị tắc hoặc
không hiện hình. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
với mục tiêu mô tả đặc điểm hình ảnh học RĐTMMCXH
theo phân loại Barrow/Cognard[9], mối liên quan giữa
hình ảnh và chiến lược, kỹ thuật điều trị, kết quả cũng
như tai biến, đặc biệt là kinh nghiệm kỹ thuật tái thông
XĐD và sử dụng vật liệu nút mạch nhân 12 trường hợp
can thiệp RĐTMMCXH qua tái thông XĐD tại Đơn vị
can thiệp mạch, khoa Chẩn đoán Hình ảnh, bệnh viện
Bạch Mai từ 01/01/2017 đến 30/6/2018.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Từ 01/2017 đến 06/2018 12 bệnh nhân được
chẩn đoán RĐTMMCXH với triệu chứng lâm sàng tiến
triển, được điều trị nút tắc luồng thông qua tái thông
XĐD tại Đơn vị can thiệp mạch, khoa Chẩn đoán Hình
ảnh, bệnh viện Bạch Mai. Tất cả các bệnh nhân được
giải thích đầy đủ và cam kết đồng ý thủ thuật.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Hồi cứu, ghi nhận đặc điểm chung, đặc điểm lâm
sàng, đặc điểm hình ảnh RĐTMMCXH theo phân loại
Barrow/Cognard, chiến lược và kỹ thuật điều trị, vật liệu
nút mạch, hiệu quả nút mạch, tai biến trong và ngay
sau thủ thuật.
Hiệu quả lâm sàng được đánh giá theo triệu
chứng lâm sàng: cải thiện, không đổi, tệ hơn ngay sau
thủ thuật và trong thời gian điều trị nội trú.
Tai biến liên quan đến thủ thuật được khảo sát
ngay trong quá trình điều trị.
III. KẾT QUẢ
Dấu hiệu lâm sàng thường gặp nhất là các dấu
hiệu về mắt (đỏ mắt - 66,7%, lồi mắt – 66,7%, đau mắt/
giảm thị lực – 33,3%, sụp mi – 1 trường hợp), ù tai –
15,2%, đau đầu – 15,2%. Có 7 trường hợp rò bên trái,
3 trường hợp rò bên phải, 2 trường hợp rò hai bên. Hầu
hết RĐTMMCXH dẫn lưu qua xoang hang – 91,6%, tĩnh
mặt mắt trên 75%, tĩnh mạch vỏ não 33,3% tuy nhiên
có 25% trường hợp dẫn lưu qua xoang hang/ tĩnh mạch
mắt trên đối bên, 1 trường hợp có dẫn lưu về xoang
thẳng. Hầu hết RĐTMMCXH thuộc phân loại D theo
Barrow (83,3%), phân loại 2a/3/4 theo Cognard có tỷ lệ
tương ứng là 50%/25%/25%. Tuy có 33,3% bệnh nhân
có trào ngược tĩnh mạch vỏ não trên phim nhưng triệu
chứng thần kinh chỉ gặp 15,2% với dấu hiệu đau đầu.
Tái thông XĐD thành công trong 10 trường hợp
(83,3%) trong đó qua XĐD trái 7 trường hợp, qua XĐD
phải 3 trường hợp. Hai trường hợp tái thông thất bại do
hẹp tắc mạn tính tĩnh mạch cảnh trong phải và tắc mạn
tính XĐD phải. Hai trường hợp này được hẹn theo dõi và
can thiệp thì 2 hoặc sử dụng phương pháp điều trị khác.
Có 9 trường hợp (75%) được nút tắc hoàn toàn lỗ
rò qua tái thông XĐD, 1 trường hợp nút tắc bán phần
bằng hạt PVA qua đường động mạch và 2 trường hợp
thất bại. Trong 9 ca nút tắc hoàn toàn RĐTMMCXH có
7 ca (77,8%) sử dụng coils kết hợp Onyx/Phil/Squid,
2 ca sử dụng Onyx hoặc Phil 25% đơn thuần. Trường
hợp 1 tái thông được XĐD trái, nhưng không tiếp cận
được gốc tĩnh mạch mắt trái để thả coils hay vật liệu nút
mạch. Trường hợp 2 thất bại do không tái thông được
XĐD phải, chuyển chiến thuật qua đường XĐD trái vào
xoang hang trái nhưng không tiếp cận được vị trí rò
xoang hang phải, huyết khối tĩnh mạch mắt trên phải.
Hầu hết bệnh nhân xuất hiện đau đầu trong quá
trình thủ thuật được điều trị triệu chứng. Trong 12
trường hợp điều trị can thiệp có 01 trường hợp tai biến
nghiêm trọng là thuyên tắc động mạch não giữa phải
với liệt tăng dần ½ người trái. Tiến hành gây mê nội khí
quản, thực hiện thủ thuật lấy huyết khối bằng Solitaire
4/20, 6/20 và hút bằng ACE 68 nhưng không thành
công. Bàng hệ qua động mạch thông trước và thông
sau kém. Ca này sử dụng Phil 25% làm vật liệu nút
mạch qua đường TM.
IV. BÀN LUẬN
Hầu hết bệnh nhân chúng tôi vào viện vì triệu chứng
ở mắt là chủ yếu như đỏ mắt - 66,7%, lồi mắt – 66,7%,
đau mắt/giảm thị lực – 33,3%. Theo Kiyosue và cs, các
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 32 - 12/201846
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
triệu chứng lâm sàng thường gặp trong RĐTMMCXH
bao gồm triệu chứng ở mắt (80-97%), triệu chứng dây
thần kinh sọ (44-77%), ù tai (40-50%)[8]. Một số khác
vào viện kèm theo triệu chứng đau đầu, ù tai. Do đó chỉ
định điều trị can thiệp nội mạch là hợp lý.
Can thiệp RĐTMMCXH được tiến hành qua hai
đường: tắc các động mạch nuôi qua đường động
mạch hoặc tắc lỗ rò xoang hang qua đường tĩnh
mạch[1,4,5,6,8]. Một số nghiên cứu cho thấy tắc động
mạch nuôi qua đường động mạch bằng vật liệu nút
mạch thể lỏng (NCBA, Onyx) cho kết quả tốt với tỷ lệ
tai biến thấp[1,4,10,14]. Tuy nhiên đường động mạch
không phải dễ tiếp cận do RĐTMMCXH thường có
nhiều mạch nuôi từ các nguồn khác nhau, mạch nhỏ
và ngoằn ngoèo. Hơn nữa, các luồng thông nối trực
tiếp giữa động mạch cảnh trong và ngoài khá phức tạp
trong RĐTMMCXH, nút mạch qua đường động mạch
có nguy cơ gây nhồi máu não hoặc tắc mạch nuôi
các dây thần kinh nội sọ. Ngược lại, nút mạch điều trị
RĐTMMCXH qua đường tĩnh mạch bằng coils là nút
tắc xoang hang bệnh lý cho kết quả an toàn và hứa
hẹn[1,3]. Theo Ali Pashapour và cs, tỷ lệ nút tắc thành
công qua đường TM là 100% sau khi đường động
mạch đã thất bại; một số nghiên cứu trước đó cũng cho
thấy tỷ lệ nút tắc hoàn toàn là 80-100%, tuy nhiên các
tai biến liên quan đến thương tổn mạch máu, chảy máu
nội sọ hay tổn thương dây thần kinh cũng được báo
cáo[1]. Theo Kyosue H. và cs, kỹ thuật nút coils qua
đường tĩnh mạch được xem là kỹ thuật điều trị triệt để
hàng đầu đối với RĐTMMCXH[8]. Jae Sang và cs xem
kỹ thuật này là tiêu chuẩn vàng trong điều trị rò động
tĩnh mạch màng cứng[10].
Việc lựa chọn đường vào qua TM thích hợp phụ
thuộc vào xoang hang bị thương tổn và các TM dẫn
lưu. Đường TM thường gặp nhất là qua XĐD bằng
cách đặt ống thông dẫn đường JB 5F/Chaperon 6F
đồng trục vào TM cảnh trong tiếp cận XĐD, sau đó đưa
microcatheter hỗ trợ vi dây dẫn vào XĐD tiếp cận vị trí rò
xoang hang. Đường này ngắn, trực tiếp và dễ dàng tiếp
cận hơn các đường TM khác và đặc biệt hữu ích trong
RĐTMMCXH dẫn lưu sau vào XĐD bình thường[5].
Tuy nhiên, kỹ thuật này không phải luôn dễ dàng đối
với trường hợp rò có cấu trúc giải phẫu phức tạp, đặc
biệt ở bệnh nhân tắc hoặc hẹp XĐD. Theo Rhim và cs,
có 34,5% trường hợp tắc XĐD cùng bên ở bệnh nhân
RĐTMMCXH. Shiu và cs cho thấy có 31% trường hợp
không thể tái thông XĐD do cấu trúc giải phẫu mạch
phức tạp[3]. Các nghiên cứu trước đó cho thấy XĐD có
thông nối với các tĩnh mạch lân cận. Theo Mishuhashi
và cs, có 6 dạng dẫn lưu từ XĐD phụ thuộc vào vị trí đổ
vào TM cảnh trong và thông nối với TM xung quanh. Do
đó, kiến thức giải phẫu chi tiết và việc khảo sát, phân
tích kỹ giải phẫu đoạn nối XĐD – TM cảnh trong trước
can thiệp là tối quan trọng cho tỷ lệ thành công tái thông
XĐD và giảm thời gian thủ thuật.
Việc không hiện hình XĐD trong RĐTMMCXH
có thể do nhiều yếu tố khác nhau liên quan đến tắc
hoàn toàn XĐD, vách ngăn giữa XĐD – xoang hang
hoặc bất sản. Trong trường hợp tắc hoàn toàn XĐD,
trên phim chụp động mạch cảnh sẽ hiện hình một phần
phần trên XĐD do dòng chảy qua lỗ rò, không có sự
thông nối trực tiếp giữa XĐD và TM cảnh trong. Chụp
qua microcatheter cho thấy XĐD hẹp, bờ không đều
hoặc tắc. Nếu XĐD bình thường nhưng không thông
với xoang hang, rò xoang hang sẽ dẫn lưu theo các
tĩnh mạch thay thế như tĩnh mạch mắt trên và/hoặc tĩnh
mạch não giữa nông.
Tiếp cận xoang hang qua tái thông XĐD được
Hallbach và cs mô tả đầu tiên năm 1988. Sau đó các
báo cáo tiếp theo cho thấy tỷ lệ thành công 50-75%,
Rhim – 54,3%. Theo C-B Lou và cs, tỷ lệ thành công
trong báo cáo 20 trường hợp là 80%[3]. Theo Young
D. và cs, tỷ lệ tái thông XĐD thành công là 80% với kỹ
thuật uốn cong đầu vi dây dẫn. Trong nghiên cứu của
chúng tôi tỷ lệ tái thông XĐD thành công là 83,3% với
tỷ lệ nút tắc lỗ rò 77,8%. Trong nghiên cứu này, chúng
tôi thất bại trong 2 trường hợp không tái thông được
XĐD. Việc thành công trong tái thông XĐD tiếp cận
RĐTMMCXH về mặt lý thuyết phụ thuộc vào thời gian
hình thành huyết khối trong XĐD, xoang hang hoặc cấu
trúc giải phẫu đường rò (độ dài đoạn tắc thật sự). Tắc
mạn tính XĐD với huyết khối cứng là thách thức khó
vượt qua để tiếp cận lỗ rò như hai trường hợp trên với
hẹp tắc mạn tính tĩnh mạch cảnh trong phải-XĐD phải/
XĐD phải. Ngược lại, microcatheter/guide wire dễ dàng
đi qua huyết khối mềm hơn là trong trường hợp tắc mạn
tính. Tương tự, chúng ta dễ dàng vượt qua huyết khối
ngắn hơn là huyết khối dài[5].
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 32 - 12/2018 47
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Theo kinh nghiệm chúng tôi, khó khăn lớn nhất
trong tiếp cận RĐTMMCXH qua tái thông XĐD là tìm
được lỗ vào đoạn nối XĐD – TM cảnh trong, vì vậy
nắm được các dạng XĐD đổ vào tĩnh mạch cảnh
trong hết sức có ý nghĩa. Đồng thời việc sử dụng JB
5F/ Chaperon 6F đồng trục vào tĩnh mạch cảnh trong
sau đó hướng đầu tận JB ra trước vào trong để trợ lực
cho việc tái thông XĐD bằng vi ống thông/vi dây dẫn
hoặc bằng wire Radiofocus 0.035. Đối với trường hợp
RĐTMMCXH có vách ngăn giữa XĐD với xoang hang,
việc đưa vi ống thông/vi dây dẫn vào XĐD khá thuận
lợi, nhưng vượt qua vách ngăn là thách thức.Ngược lại,
đối với trường hợp tắc XĐD thật sự, việc tái thông XĐD
là thách thức chủ yếu cần phải vượt qua. Theo Young
D. và cs, nếu kỹ thuật xoáy wire truyền thống không đủ
lực để tái thông XĐD, có thể sử dụng kỹ thuật uốn cong
đầu vi dây dẫn bằng cách đẩy vi dây dẫn tạo lực uốn
cong đầu wire nhờ trở kháng trong XĐD bị tắc do huyết
khối, sau đó đẩy JB 5F/vi ống thông vào sâu trong lỗ nối
XĐD-TM cảnh trong để trợ lực, đẩy vi dây dẫn với đầu
được uốn cong qua XĐD vào xoang hang rồi đưa vi ống
thông vào xoang hang. Kỹ thuật này cho tỷ lệ tái thông
80% so với kỹ thuật xoáy wire truyền thống -28,6%[19].
Hướng tiếp cận xoang hang qua tái thông XĐD
được cho là an toàn và hiệu quả ngay cả khi xoang
đá không hiện hình và phải định hướng mù[3,8,19].
Benndorf và cs báo cáo không có tai biến trong nghiên
cứu 4 trường hợp[3]. Tai biến nghiêm trọng nhất trong
kỹ thuật này là rách XĐD gây chảy máu nội sọ.Tai biến
này xảy ra hầu hết do đẩy mù wire đầu nhọn lại trợ lực
bởi ống thông và cấu trúc XĐD hẹp kèm bơm thuốc áp
lực cao gây mở rộng lỗ rách. Để tránh tai biến này cần
sử dụng vi ống thông/dây dẫn một cách nhẹ nhàng, tinh
tế[3,4,8]. Chúng tôi sử dụng chủ yếu vi dây dẫn 0.014
(Transcend, Traxcess, Ashahi Chikai) để tái thông XĐD
vì wire mềm do đó giảm nguy cơ rách mạch máu. Tuy
nhiên một số trường hợp chúng tôi cũng sử dụng wire
Radiofocus 0.035 để tái thông XĐD vì wire này đầu tròn,
mềm, ít gây thương tổn đặc biệt khi chuyển động xoay
liên tục. Theo Lekkhong và cs, việc sử dụng Radiofocus
0.035 chủ yếu để tạo đường đi cho vi ống thông/dây dẫn.
Chiến lược nút tắc hoàn toàn lỗ rò và xoang hang
bệnh lý cần phải được cân nhắc kỹ. Nút tắc không hoàn
toàn luồng thông qua đường TM có thể làm lâm sàng
bệnh nhân nặng thêm do tăng áp lực TM nội sọ. Do đó
việc khảo sát kỹ hình ảnh giải phẫu mạch máu tương
quan với triệu chứng lâm sàng trước nút mạch là hết
sức cần thiết góp phần tăng tỷ lệ thành công của thủ
thuật. Cần phải nút tắc hoàn toàn các đường ra của
xoang hang để tránh dẫn lưu về các TM nguy hiểm như
TM não giữa sâu, TM móc, TM nền Rosenthal, TM gian
cuống,[2], do đó trước khi thả coils cần đánh giá xem
microcatheter đã ở vị trí phù hợp để có thể nút tắc tất cả
các đường ra của xoang hang hay không[1]. Tanoue và
cs còn giới thiệu kỹ thuật quặc ngược vi ống thông để
nút tắc lỗ rò trước nhằm giảm lưu lượng dòng chảy[15].
Hơn nữa phải thả coils càng nhanh càng tốt để tránh
tăng áp lực lên các TM dẫn lưu khác. Ưu tiên nút tắc
phần sau xoang hang, nơi lỗ rò thường gặp nhất để
giảm lưu lượng luồng thông và nguy cơ tăng áp lực
TM. Tránh thả quá nhiều coils vào xoang hang để tránh
chèn ép các dây thần kinh sọ não[1,4].
Về việc sử dụng vật liệu nút mạch, chúng tôi
thấy rằng coils là vật liệu nút mạch tối ưu sử dụng qua
đường TM đối với RĐTMMCXH với tỷ lệ bít tắc lỗ rò
80-100%[4,8]. Tuy nhiên, do xoang hang rộng nên để
nút hết luồng thông cần có số lượng coils lớn. Hơn nữa
cấu trúc rò phức tạp, nhiều ngách nên việc nút tắc hoàn
toàn bằng coils sẽ gặp khó khăn. Do đó, chúng tôi lựa
chọn phương án nút coils kết hợp với Onyx/Phil/Squid
trong hầu hết trường hợp (77,8%) cho kết quả tắc hoàn
toàn. Yoshida và cs đã can thiệp nút tắc hoàn toàn lỗ rò
với tỷ lệ 81,6% qua đường tĩnh mạch [19]. Theo Zhang
và cs, nút RĐTMMCXH bằng Onyx qua đường động
mạch và tĩnh mạch cho tỷ lệ thành công 91% và không
tái phát, tai biến triệu chứng thần kinh sọ não thoáng
qua chiếm 18%[1]. Trong các nghiên cứu khác tỷ lệ
nút thành công bằng Onyx cũng khá cao 62,5-80%[4].
Đối với trường hợp RĐTMMC có trào ngược vỏ não,
Van Rooij và cs sử dụng Onyx qua đường động mạch
cho kết quả tắc triệt để 100% và không tai biến trong
nghiên cứu 8 trường hợp[16]. Onyx là vật liệu nút mạch
dạng lỏng đồng trùng hợp không dính cho phép bơm số
lượng nhiều, dễ kiểm soát với thời gian kéo dài trong
một lần thủ thuật[6]. Do đó vật liệu này dần thay thế
keo trong điều trị bệnh lý dị dạng mạch máu não. Trong
nghiên cứu của chúng tôi có 2 trường hợp nút tắc hoàn
toàn bằng Onyx/Phil đơn thuần. Tuy nhiên, trường hợp
nút bằng Phil 25% bệnh nhân bị tai biến nghiêm trọng
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 32 - 12/201848
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(tắc động mạch não giữa phải và các nhánh xa động
mạch não trước phải không thể tái thông bằng lấy huyết
khối cơ học bằng Solitair và ACE 68). Do đó vấn đề đặt
ra là việc kiểm soát vật liệu nút mạch trong quá trình bơm
Phil/Onyx là hết sức quan trọng. Phil là vật liệu dạng lỏng
không trùng hợp hóa, độ cản quang tương đối thấp, do
đó khó khảo sát sự phân bố trong quá trình bơm.
V. KẾT LUẬN
Điều trị nội mạch RĐTMMCXH qua tái thông XĐD
là kỹ thuật an toàn, hiệu quả, ít tai biến với tỷ lệ tái
thông XĐD thành công 83,3%, tỷ lệ tắc hoàn toàn lỗ rò
77,8%. Vật liệu nút mạch lựa chọn tối ưu gồm coils kết
hợp Onyx.
HÌNH ẢNH MINH HỌA
Hình 1. Bệnh nhân BTH, 75 tuổi, RĐTMMCXH trái Barrow D/Cognard 3, dẫn lưu xoang hang, TM mắt
hai bên, trào ngược TM tiểu não, hẹp tắc XĐD hai bên. Nút tắc hoàn toàn bằng coils và Onyx qua tái thông
XĐD phải
Hình 2. BN NTN 69 tuổi, RĐTMMCXH phải, Barrow D, dẫn lưu xoang hang phải, trào ngược TM vỏ não
vùng thái dương (Cognard 4), tắc XĐD phải. Nút tắc hoàn toàn bằng coils và Onyx qua tái thông XĐD phải.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 32 - 12/2018 49
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali P. et al., Long-Term Endovascular Treatment Outcome of 46 Patients with Cavernous Sinus Dural
Arteriovenous Fistulas Presenting with Ophthalmic Symptoms A Non-Controlled Trial with Clinical and
Angiographic Follow-up, The Neuroradiology Journal 27: 461-470, 2014 - doi: 10.15274/NRJ-2014-10079
2. Chai K. et al., Radiographic Evaluation and Clinical Implications of Venous Connections Between Dural
Arteriovenous Fistula of the Cavernous Sinus and Cerebellum and the Pontomedullary Venous System, World
Neurosurg. (2015) 84, 4:1112-1126
3. Chao-Bao L. et al., Transvenous embolization of cavernous sinus dural arteriovenous fistula via angiographic
occlusive inferior petrous sinus, Journal of the Chinese Medical Association 78 (2015) 526e532
4. Chao-Bao L. et al., Update of embolization of intracranial dural arteriovenous fistula, Journal of the Chinese
Medical Association 77 (2014) 610e617
5. Chao-Bao L. et al., Aggressive cavernous sinus dural arteriovenous fistula: Angioarchitecture analysis and
embolization by various approaches, Journal of the Chinese Medical Association 79 (2016) 152e158
6. Cognard C.et al., Endovascular Treatment of Intracranial Dural Arteriovenous Fistulas with Cortical Venous
Drainage: New Management Using Onyx, AJNR Am J Neuroradiol 29:235– 41 Feb 2008
7. Han M.H., Endovascular Treatment in Direct Carotid Cavernous Fistula Interventional Neuroradiology 9 (SuppJ
2): 55-62, 2003
8. Kiyosue H. et al., Treatment of Intracranial Dural Arteriovenous Fistulas: Current Strategies Based on Location
and Hemodynamics, and Alternative Techniques of Transcatheter Embolization, RadioGraphics 2004;
24:1637–1653
9. Korkmazer B. et al., Endovascular treatment of carotid cavernous sinus fstula: A systematic review, World J
Radiol 2013 April 28; 5(4): 143-155
10. Jae-Sang O. et al., Endovascular Treatment of Dural Arteriovenous Fistulas : Single Center Experience, J
Korean Neurosurg Soc 59 (1) : 17-25, 2016
11. Jong Kook Rhim, Endovascular Treatment of Bilateral Cavernous Sinus Dural Arteriovenous Fistula: Therapeutic
Strategy and Follow-Up Outcomes, Korean J Radiol 2018;19(2):334-341
12. Matsumoto A. et al.. Cavernous sinus dural arteriovenous fistula treated by facial vein direct puncture: Case
report and review of the literature, Interv Neuroradiol. 2017 Jun; 23(3): 301–306
13. Nabil El-Hindy et al., Diffcult indirect carotid-cavernous fstulas –alternative techniques to gaining access for
treatment, Clinical Interventions in Aging 2014:9 1687–1690
14. Sabareesh K. Natarajan et al., Multimodality Treatment of Intracranial Dural Arteriovenous Fistulas in the Onyx
Era: a Single Center Experience, World Neurosurgery 73: 365-379, 2010
15. Tanoue S.et al., Turn-Back Embolization Technique for Effective Transvenous Embolization of Dural
Arteriovenous Fistulas, AJNR Am J Neuroradiol 33:E88–E91 Jun-Jul 2012
16. Van Rooij W.J., Sluzewski M., Curative Embolization with Onyx of Dural Arteriovenous Fistulas with Cortical
Venous Drainage, AJNR Am J Neuroradiol 31:1516–20 Sep 2010
17. Xianli L., Cavernous region dural fistulas with venous drainage of laterocavernous sinus, Neurology India, Vol.
59, No. 2, pp. 190-194March-April, 2011
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 32 - 12/201850
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
18. Yoshida K. et al., Transvenous Embolization of Dural Carotid Cavernous Fistulas: A Series of 44 Consecutive
Patients, AJNR Am J Neuroradiol 31:651–55 Apr 2010
19. Young D.C. et al., Transvenous microguidewire looping technique for breach of ipsilateral inferior petrosal
sinus occlusions en route to cavernous sinus dural arteriovenous fistulas, Interv Neuroradiol. 2016 Oct; 22(5):
590–595.
TÓM TẮT
Điều trị can thiệp đường tĩnh mạch rò động tĩnh mạch màng cứng xoang hang (RĐTMMCXH) qua xoang đá dưới (XĐD)
là kỹ thuật điều trị triệt để và an toàn. Tuy nhiên, một số trường hợp RĐTMMCXH kèm tắc XĐD là thách thức trong việc tiếp
cận lỗ rò.
Mục tiêu: báo cáo kết quả bước đầu và kinh nghiệm điều trị cũng như tai biến nhân 12 trường hợp can thiệp RĐTMMCXH
qua tái thông XĐD tại Đơn vị can thiệp mạch, khoa Chẩn đoán Hình ảnh, bệnh viện Bạch Mai từ 01/01/2017 đến 30/6/2018.
Kết quả: Tỷ lệ tái thông XĐD thành công 83,3%, tỷ lệ nút tắc hoàn toàn luồng thông qua tái thông XĐD 75%. Tai biến
nghiêm trọng xảy ra ở trường hợp nút lỗ rò bằng Phil 25%.
Kết luận: Điều trị can thiệp RĐTMMCXH qua tái thông XĐD là một kỹ thuật điều trị triệt để, hiệu quả, tương đối an toàn.
Từ khóa: Rò Động tĩnh mạch màng cứng, can thiệp đường tĩnh mạch
Ngày nhận bài: 10/8/2018. Ngày chấp nhận đăng: 20/10/2018
Người liên hệ: Vũ đăng Lưu, trung tâm CĐHA, bệnh viện Bạch Mai; Email: vudangluu@yahoo.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dieu_tri_can_thiep_ro_dong_tinh_mach_mang_cung_xoang_hang_qu.pdf