Triệu chứng lâm sàng 6 tháng sau điều trị, thang
điểm đau của bệnh nhân được giảm từ 6,7 điểm xuống
1,2 điểm theo thang điểm với p<0,05. Khi so sánh mức
độ giảm của từng nhóm bệnh nhân có triệu chứng đau,
chúng tôi nhận thấy với sự khác biệt về mức độ giảm
đau giữa các nhóm bệnh nhân đau nhiều, đau trung
bình với đau ít, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
p<0,05, kết quả này cũng tương ứng với nghiên cứu
của Nicolas, Puche-Sanz [8][9]. Như vậy điều trị giảm
đau tức bìu cho những bệnh nhân đau nhiều và đau
trung bình sẽ có hiệu quả hơn nhóm bệnh nhân đau ít.
Trên siêu âm doppler sau 6 tháng tất cả các bệnh
nhân không còn bị giãn tĩnh mạch tinh, đường kính tĩnh
mạch tinh < 2,5mm và không còn dòng trào ngược khi
làm nghiệm pháp valsava.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 33 bệnh nhân
có thay đổi tinh dịch đồ. Sau 6 tháng sự cải thiện về tinh
dịch đồ là khá đáng kể, cụ thể mật độ tinh trùng tăng từ
10 triệu lên 21 triệu tinh trùng/ml, với p <0,05, độ di động
tinh trùng tăng lên từ 27% lên 55%, với p < 0,05. Kết
quả này cũng khá tương đồng với một số tác giả khác
[3, 5]. Như vậy có thể thấy rằng nút mạch cho những
bệnh nhân giãn tĩnh mạch tinh có thể giúp cải thiện về
số lượng, sự di động cũng như số lượng tinh trùng sống.
Tuy nhiên do thời gian theo dõi còn ngắn nên chúng tôi
chưa đánh giá về khả năng có con của những bệnh nhân
đến khám vì vô sinh hay có thay đổi tinh dịch đồ.
Trên thế giới đã có một số báo cáo về tỷ lệ tái phát
sau điều trị giãn tĩnh mạch tinh bằng can thiệp từ 0 –
8% [6], tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi hiện
tại chưa gặp bệnh nhân có tái phát sau điều trị có thể do
thời gian nghiên cứu của chúng tôi còn ngắn, số lượng
bệnh nhân chưa nhiều, có thể do chúng tôi sử dụng keo
nên tắc hoàn toàn các nhánh bên giảm tái phát. Các tác
dụng phụ thường gặp đã được một số tác giả báo cáo
thường gặp là viêm đám rối tĩnh mạch tinh hay tràn dịch
màng tinh hoàn, những biến chứng này do chất gây xơ
trào vào đoạn xa của tĩnh mạch tinh. Tuy nhiên trong
nghiên cứu của chúng tôi chưa phát hiện biến chứng
nào, có thể do chúng tôi dùng Coils chặn đầu dưới nên
keo không trào được đến đoạn xa của tĩnh mạch tinh [9].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 36 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị giãn tĩnh mạch tinh bằng can thiệp nội mạch sử dụng kỹ thuật sandwich tại bệnh viện Bạch Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201810
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐIỀU TRỊ GIÃN TĨNH MẠCH TINH
BẰNG CAN THIỆP NỘI MẠCH SỬ DỤNG
KỸ THUẬT SANDWICH
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
The treatment of varicocele endovascular intervention
using the sandwich technique at Bach Mai Hospital
Nguyễn Xuân Hiền*, Phan Hoàng Giang*, Lê Văn Khánh*,
Đỗ Huy Hoàng**
* Bác sỹ khoa Chẩn đoán hình
ảnh, bệnh viện Bạch Mai
** Bác sỹ Nội trú Chẩn đoán
hình ảnh, trường Đại học Y
Hà Nội
Purpose: Evaluating the result of varicocele endovascular
intervention by sandwich technique combining Coils and glue (histocryl).
Methods and objectives: 78 patients were diagnosed and treated
successfully at Bach Mai hospital from 5/2009 to 5/2017, they were
examined, performed semen analysis and ultrasound at before and after 6
months of embolization.
Result: The average age of 22.6 years old, the hospitalized reasons
is mainly scrotal pain, with 76.9%. After 6 months of treatment, all patients
have pain reduction, the pain scores decreased from 6.7 points to 1.2, p <
0.05. Increasing sperm concentration from 10 million/ml to 21 million/
ml, sperm mobility increased from 27% to 55%, p <0.05. Spermatic vein
diameter returns to normal limits and have no reflux line after 6 months.
No major or minor complications during the intervention and 6 months
after intervention
Conclusion: Embolization of spermatic vein with technique
sandwich combined Coils and glue to treat varicocele is safe and high
effective.
Key word: varicocele, varicocele endovascular intervention,
sandwich technique
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 11
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giãn tĩnh mạch tinh là bệnh lý gây ra bởi sự trào
ngược dòng máu tĩnh mạch vào tĩnh mạch tinh, hậu
quả là sự giãn các tĩnh mạch ở bìu tạo thành búi ngoằn
ngoèo. Ước tính có 9-15% nam giới bị giãn tĩnh mạch
tinh và ngày nay được xem là nguyên nhân gây vô sinh
hàng đầu ở nam giới [1][2][3]. Nguyên nhân do tĩnh
mạch tinh trái dẫn lưu máu từ tinh hoàn về tĩnh mạch
thận trái, khi có sự suy van hoặc thiếu hụt các van máu
máu tĩnh mạch cùng một số sản phẩm chuyến hóa,
protagladin sẽ trào ngược về tinh hoàn làm biến đổi
tinh hoàn, kết quả làm biến đổi số lượng - chất lượng
tinh trùng. Một số nghiên cứu đã chỉ ra tầm quan trọng
của việc điều trị giãn tĩnh mạch tinh ở tuổi thiếu niên
để tránh vô sinh ở tuổi trưởng thành [4]. Phương pháp
điều trị giãn tĩnh mạch tinh kinh điển là phẫu thuật thắt
tĩnh mạch tinh bằng nội soi hoặc mổ mở. Tuy nhiên
phương pháp này bệnh nhân phải trải qua cuộc gây
mê hoặc gây tê tủy sống, tỷ lệ tái phát của phương
pháp này còn cao [5]. Hiện nay với sự tiến bộ của điện
quang can thiệp, phương pháp can thiệp nội mạch
bằng sự kết hợp vật liệu Coils (vòng xoắn kim loại) và
keo (histoacryl) theo kỹ thuật sandwich để điều trị cho
giãn tĩnh mạch tinh cho thấy nhiều ưu điểm và có thể
khác phục được nhược điểm của phẫu thuật, hay nút
mạch bằng keo hoặc Coils đơn thuần, do đó ngày càng
được chỉ định rộng rãi ở các bệnh viện lớn, trong đó có
Bệnh viện Bạch Mai.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu
Tổng số 78 bệnh nhân được chẩn đoán và điều
trị giãn tĩnh mạch tinh bên trái tại khoa Chẩn đoán
hình ảnh, bệnh viện Bạch Mai trong khoảng thời gian
từ tháng 5/2009 đến tháng 5/2017, có đầy đủ các xét
nghiệm chẩn đoán cơ bản (siêu âm doppler tĩnh mạch
tinh, xét nghiệm tinh dịch đồ) và xét nghiệm đánh giá
tình trạng chung.
Tiêu chuẩn lựa chọn:
Bệnh nhân được chẩn đoán giãn tĩnh mạch tinh
(sờ thấy trên lâm sàng), siêu âm doppler tĩnh mạch
tinh giãn ≥ 2,5mm (hoặc nghiệm pháp Valsava tăng ≥
1,1mm) và:
Có triệu chứng: đau bìu, thay đổi số lượng chất
lượng tinh trùng
Vô sinh nam
Bệnh nhân trẻ tuổi
Tiêu chuẩn loại trừ:
Bệnh nhân giãn tĩnh mạch tinh nhưng không điều
trị bằng can thiệp nội mạch
Bệnh nhân sau điều trị không theo dõi, tái khám
tối thiểu 3 tháng
2. Phương pháp nghiên cứu
Mô tả can thiệp, hồi cứu và tiến cứu
Các biến số nghiên cứu: đặc điểm đau trước và
sau nút theo thang điểm Visual analog score (Vas), siêu
âm doppler trước và sau nút 6 tháng, chất lượng tinh
dịch đồ trước và sau nút 6 tháng (mật độ tinh trùng, độ
di động tinh trùng).
Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện
trực tiếp trên bệnh nhân nên các thông tin riêng về
bệnh tật trong hồ sơ bệnh án được gắn mã số để đảm
bảo tính chính xác, hoàn toàn được bảo mật và chỉ
được sử dụng cho mục đích nghiên cứu.
3. Thủ thuật gây tắc tĩnh mạch tinh
Chụp tĩnh mạch: Chọc tĩnh mạch đùi. Tiến hành
dùng ống thông 5F có đầu cong chụp tĩnh mạch thận
trái trong lúc làm nghiệm pháp Valsalva với liều cản
quang 7-15ml tốc độ 5ml/s. Mục đích xác định điểm
xuất phát của tĩnh mạch tinh và các biến thể giải phẫu
tĩnh mạch tinh trái nếu có. Sau đó dùng vi ống thông
2.7F đưa xuống đoạn thấp của tĩnh mạch tinh ngang
mức lỗ bẹn sâu để chụp đánh thêm mức độ trào ngược
và các nhánh bên, để phân độ các type đưa ra chiến
lược điều trị.
Có một số phương pháp gây tắc mạch đã được
tiến hành, tuy nhiên trong nghiên cứu chúng tôi sử dùng
kỹ thuật “sandwich” kết hợp giữa vật liệu Coils và keo
histocryl. Kỹ thuật gồm 3 bước:
Bước 1: Sau khi chụp tĩnh mạch tinh, xác định
phân loại tĩnh mạch tinh. Coils được đặt ở ngang mức
lỗ bẹn sâu. Mục đích ngăn không cho kéo di chuyển sâu
phía dưới gây biến chứng viêm đám rối tĩnh mạch tinh
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201812
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bước 2: Dùng hỗn dịch keo histocryl và lipiodol
với tỷ lệ ¼ (0.5 ml histocryl/ 2ml lipiodol) gây tắc. Mục
đích để gây tắc toàn bộ các nhánh bên tránh tái phát.
Bước 3: Tiến hành thả Coils phía trên vị trí bơm
keo. Mục tiêu của Coils này nhằm tránh đại thực bào đi
vào ăn mòn keo gây tái phát.
Hình 1. Can thiệp nội mạch điều trị giãn tĩnh mạch
tinh sử dụng kỹ thuật sandwich
Tuần hoàn sau khi nút mạch: sau khi tĩnh mạch
tinh bị tắc, các tĩnh mạch dẫn lưu máu từ đám rối tĩnh
mạch ở bìu sẽ theo tĩnh mạch tinh ngoài dẫn lưu máu
về tĩnh mạch chậu trong và chậu ngoài.
II. KẾT QUẢ
Bảng 1. Triệu chứng trước khi vào viện
Lý do n = 78 %
Đau tức bìu 60 76,9
Vô sinh 13 16,6
Cả hai 5 6,6
Tinh dịch đồ 33 42
Nhận xét: Lý do vào viện chủ yếu của bệnh nhân
là đau tức bìu chiếm 76,9%. Số bệnh nhân bị biến đổi
tinh dịch đồ trong số bệnh nhân giãn tĩnh mạch tinh
chiếm tỷ lệ 42%.
Biểu đồ 1. Mức độ đau theo thang điểm Vas của
bệnh nhân trước nút mạch.
Nhận xét: Bệnh nhân có đau bìu chủ yếu là nhóm
đau vừa chiếm tỷ lệ 61,5%.
Bảng 2. Đường kính tĩnh mạch tinh trước nút mạch
trước và sau khi làm nghiệm pháp Valsalva
Siêu âm (n=78) Trước Valsava Sau Valsava
Đường kính trung
bình (mm)
2,8 3,9
Min/ Max (mm) 2,6/3,7 3,5/5,7
Nhận xét: đường kính tĩnh mạch tinh trước nút
trước và sau Valsava là 2,8mm và 3,9mm, dao động từ
từ 2,6mm và 5,7mm.
Bảng 3. Mức độ giảm triệu chứng đau tức bìu sau
nút mạch 6 tháng
Thang điểm đau (Vas)
(n=35)
Trước Sau 6 tháng
Điểm trung bình 6,7 1,2
Tỷ lệ giảm (%) (p < 0,05)
Nhận xét: Bệnh nhân có thang điểm đau trung
bình trước nút mạch là 6,7 điểm, sau nút mạch giảm
80% so với trước nút chỉ còn 1,2 điểm, với p < 0,05.
Bảng 4. Tinh dịch đồ trước và sau 6 tháng nút mạch
Xét nghiệm tinh
dịch đồ (n=33) Trước
Sau 6
tháng P
Mật độ tinh trùng
(triệu/ml) 10 +/- 8,2 21 +/- 13,5 <0,05
Độ di động (%) 27 +/- 12,5 55 +/- 8,1 <0,05
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 13
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nhận xét: Mật độ tinh trùng, độ dị động tinh trùng
trước nút mạch tương ứng là 10 triệu/ml và 27%. Sau
nút mạch 6 tháng có sự tăng lên đáng kể có ý nghĩa
thống kê với mật độ tinh trùng là 21 triệu/ml và độ di
động là 55% với p<0,05.
Bảng 5. Siêu âm doppler sau nút mạch 6 tháng
Đặc điểm Đường kính (mm) Valsava
Trước 3 – 6 Có
Sau 6 tháng < 2,5 Không
Nhận xét: Sau nút mạch sau 6 tháng, tất cả bệnh
nhân đều có đường kính tĩnh mạch tinh trở về bình
thường và không còn dòng trào ngược khi làm nghiệm
pháp Valsava.
IV. BÀN LUẬN
Giãn tĩnh mạch tinh là sự giãn bất thường, ngoằn
ngoèo của đám rối tĩnh mạch hình dây leo phía sau tinh
hoàn do trào ngược máu từ tĩnh mạch tinh. Đây là bệnh
lý gặp ở 10 – 15% nam giới bình thường và 40% ở nam
giới vô sinh. Trong nghiên cứu của chúng tôi độ tuổi
trung bình là 22,6 tuổi (từ 16 – 52 tuổi). Lý do bệnh nhân
đến khám chủ yếu là đau tức bìu trái đơn thuần chiếm tỷ
lệ cao nhất với 76,9%, ở nhóm này chủ yếu là bệnh nhân
đau vừa chiếm tỷ lệ cao nhất với 61,5%, số bệnh nhân
bị biến đổi tinh dịch đồ bao gồm giảm mật độ tinh trùng,
độ di động tinh trùng, chiếm tỷ lệ khá cao 42%, kết quả
tương đồng với nghiên cứu của Gandini [6].
Kết quả siêu âm ở các nhóm bệnh nhân được nút
giãn tĩnh mạch tinh cho thấy đường kính trung bình tĩnh
mạch tinh giãn trước Valsava là 2,8mm, sau Valsava là
3,9mm, như vậy đường kính tĩnh mạch tinh trước nút
đều lớn hơn 2.5mm, và dao động trong khoảng 3-6mm.
Dựa vào lâm sàng và siêu âm doppler có thể phân loại
mức độ của giãn tĩnh mạch tinh thành 3 type theo Dubin
và Amelar, theo đó trong nghiên cứu chúng tôi gặp chủ
yếu là type I với 60% và type II với 30%. Trong số các
bệnh nhân được nút mạch có tới 33 bệnh nhân (chiếm
42%) có biến đổi về tinh dịch đồ chú ý nhất là sự di
động của tinh trùng, đây là yếu tố chính để có thai. Như
vậy chỉ với dấu hiệu đau tức bìu bệnh nhân đã có biến
đổi về tinh dịch đồ, nếu muộn hơn những thay đổi này
sẽ đáng kễ và có thể gây vô sinh.
Hình 2: (A, B) Hình ảnh siêu âm 2D, doppler tĩnh
mạch tinh của bệnh nhân trước can thiệp, đường
kính tĩnh mạch tinh 3,6mm. (C, D) Hình ảnh siêu âm
2D, doppler tĩnh mạch tinh của bệnh nhân sau can
thiệp 3 tháng, đường kính tĩnh mạch tinh 1,9mm.
Hình thái giải phẫu giãn tĩnh mạch tinh dựa trên
bảng phân loại của Bahren 1983 chia thành 5 type,
theo đó trong nghiên cứu của chúng tôi type I, III chiếm
43,5% đây là các type chỉ có một nhánh chính, các type
còn lại chiếm 47,5% có một nhánh chính và các nhánh
bên với: tĩnh mạch thận, tĩnh mạch thắt lưng, tĩnh mạch
sau phúc mạc, tĩnh mạch đại tràng,... Với các type có
nhánh bên điều trị phẫu thuật hoặc can thiệp chỉ dụng
01 loại vật liệu đơn thuần sẽ gây tái phát. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, tất cả bệnh nhân đều được kết hợp
giữa thả Coils và bơm keo. Dựa vào siêu âm, tĩnh mạch
tinh giãn từ 3-6mm và kết hợp đo đường kính tĩnh mạch
tinh giãn trên chụp tĩnh mạch tinh trên chụp mạch số
hóa xóa nền, đường kính Coils đầu đặt ở lỗ bẹn sâu
có đường kính 6-8mm, Coils phía trên vị trí bơm keo
thường chọn Coils 8-12mm, tùy vào mức độ giãn tĩnh
mạch của bệnh nhân. Số lượng Coils trung bình 2,01
Coils/ bệnh nhân. Việc sử dụng kỹ thuật sandwich kết
hợp thả Coils và bơm keo thay vì thả Coils hoặc bơm
keo đơn thuần sẽ đạt được ưu điểm đồng thời giải
quyết các nhược điểm của mỗi loại vật liệu. Thứ nhất,
việc dùng Coils chặn đầu dưới sẽ làm cho keo không
di chuyển sâu xuống vùng bìu bẹn, hạn chế các tác
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201814
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
dụng phụ sau nút mạch như viêm tinh hoàn, tràn dịch
tinh hoàn như một số tác giả khác đã công bố khi chỉ tử
dụng chất gây xơ (keo) không [7]. Thứ 2, bơm hỗn dịch
keo sẽ gây tắc được toàn bộ nhánh bên, tránh tái phát
từ nhánh bên xuống đám rối tĩnh mạch tinh. Thứ 3, sử
dụng Coils phía trên nhằm tránh keo đi vào tĩnh mạch
gây huyết khối (nhồi máu tĩnh mạch thận, nhồi máu
phổi), đồng thời đại thực bào không vào tĩnh mạch tinh,
ăn mòn keo gây tái phát sau điều trị. Thứ 4, kỹ thuật này
làm giảm số lượng Coils, giảm chi phí cho bệnh nhân.
Hình 3. Kỹ thuật sandwich trên chụp mạch số hóa xóa nền. (A) Hình ảnh chụp qua ống thông thấy giãn tĩnh
mạch tinh type 4 có nhánh bên với đạị tràng, thận trái, tĩnh mạch thắt lưng. (B) Hình ảnh chụp qua vi ống thông thấy
máu trào nhiều vào tĩnh mạch vùng bìu. (C) Sau can thiệp sử dụng kỹ thuật sandwich, chụp kiểm tra thấy tắc hoàn
toàn tĩnh mạch tinh, không còn dòng trào ngược vào tĩnh mạch vùng bìu.
Triệu chứng lâm sàng 6 tháng sau điều trị, thang
điểm đau của bệnh nhân được giảm từ 6,7 điểm xuống
1,2 điểm theo thang điểm với p<0,05. Khi so sánh mức
độ giảm của từng nhóm bệnh nhân có triệu chứng đau,
chúng tôi nhận thấy với sự khác biệt về mức độ giảm
đau giữa các nhóm bệnh nhân đau nhiều, đau trung
bình với đau ít, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
p<0,05, kết quả này cũng tương ứng với nghiên cứu
của Nicolas, Puche-Sanz [8][9]. Như vậy điều trị giảm
đau tức bìu cho những bệnh nhân đau nhiều và đau
trung bình sẽ có hiệu quả hơn nhóm bệnh nhân đau ít.
Trên siêu âm doppler sau 6 tháng tất cả các bệnh
nhân không còn bị giãn tĩnh mạch tinh, đường kính tĩnh
mạch tinh < 2,5mm và không còn dòng trào ngược khi
làm nghiệm pháp valsava.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 33 bệnh nhân
có thay đổi tinh dịch đồ. Sau 6 tháng sự cải thiện về tinh
dịch đồ là khá đáng kể, cụ thể mật độ tinh trùng tăng từ
10 triệu lên 21 triệu tinh trùng/ml, với p <0,05, độ di động
tinh trùng tăng lên từ 27% lên 55%, với p < 0,05. Kết
quả này cũng khá tương đồng với một số tác giả khác
[3, 5]. Như vậy có thể thấy rằng nút mạch cho những
bệnh nhân giãn tĩnh mạch tinh có thể giúp cải thiện về
số lượng, sự di động cũng như số lượng tinh trùng sống.
Tuy nhiên do thời gian theo dõi còn ngắn nên chúng tôi
chưa đánh giá về khả năng có con của những bệnh nhân
đến khám vì vô sinh hay có thay đổi tinh dịch đồ.
Trên thế giới đã có một số báo cáo về tỷ lệ tái phát
sau điều trị giãn tĩnh mạch tinh bằng can thiệp từ 0 –
8% [6], tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi hiện
tại chưa gặp bệnh nhân có tái phát sau điều trị có thể do
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/2018 15
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
thời gian nghiên cứu của chúng tôi còn ngắn, số lượng
bệnh nhân chưa nhiều, có thể do chúng tôi sử dụng keo
nên tắc hoàn toàn các nhánh bên giảm tái phát. Các tác
dụng phụ thường gặp đã được một số tác giả báo cáo
thường gặp là viêm đám rối tĩnh mạch tinh hay tràn dịch
màng tinh hoàn, những biến chứng này do chất gây xơ
trào vào đoạn xa của tĩnh mạch tinh. Tuy nhiên trong
nghiên cứu của chúng tôi chưa phát hiện biến chứng
nào, có thể do chúng tôi dùng Coils chặn đầu dưới nên
keo không trào được đến đoạn xa của tĩnh mạch tinh [9].
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên 78 bệnh nhân tại khoa Chẩn
đoán hình ảnh, bệnh viện Bạch Mai, cho thấy điều trị
giãn tĩnh mạch tinh bằng phương pháp nút mạch sử
dụng kỹ thuật sandwich kết hợp thả Coils và bơm keo là
phương pháp an toàn, hiệu quả, ít biến chứng, giảm rõ
rệt triệu chứng đau tức bìu cùng như tăng mật độ và độ
di động tinh trùng từ đó làm giảm tỷ lệ vô sinh ở người
trưởng thành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Berger OG, Varicocele in adolescence. ClinPediatr (Phila), 1998. 19:(810-811).
2. Aziz N, Agarwal A, Nallella KP, et al. Relationship between epidemiological features and aetiology of male
infertility as diagnosed by a comprehensive infertility service provider. Reprod Biomed Online, 2006. 12: p.
209-2014.
3. Bigot JM and et al. Trait ment endovasculaire des varicocèles. Radiodiagnosis - Urologie - Gynécologie,
2003(34-450-D).
4. Kurgan A, Nunnelee J., Zilberman M. The importance of the early detection of varicocele in adolescent males.
1994. 19: p. 36-37.
5. Homonnai ZT, Engelhard Y, Rudberg Z, David MP, Paz G. Varicocelectomy and male fertility: comparison of
semen quality and recurrence of varicocele following varicocelectomy by two techniques. Int J Androl 1997. 3:
p. 447-458.
6. Roberto Gandini and et al. Transcatheter foam sclerotherapy with sodium tetradecyl sulfate--outcome in 244
patients. Radiology, 2008. 246: p. 2.
7. Kian-Hiong Tay and et al. Selective Spermatic Venography and Varicocele Embolization in Men with Circumaotic
Left Renal Veins. Journal vascular interventional radiology 2002. 13: p. 739-742.
8. Nicolas Favard, Morgan Moulin, and et al. Comparison of three different embolic materials for varicocele
embolization: retrospective study of tolerance, radiation and recurrence rate. Quantitative imaging in Medicine
and Surgery, 2015. 5(6): p. 806-814.
9. Puche-Sanz and et al. Primary treatment of painful varicocoele through percutaneous retrograde embolization
with fibred Coilss. Andrology, 2014. 2: p. 716-720.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị gây tắc giãn tĩnh mạch tinh bằng kỹ thuật sandwich sử dụng vật liệu Coilss (vòng xoắn
kim loại) và keo (histoacryl).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 78 bệnh nhân được chẩn đoán và can thiệp thành công giãn tĩnh mạch tinh tại
Bệnh viện Bạch Mai từ 5/2009 đến 5/2017, các bệnh nhân được khám lâm sàng, làm tinh dịch đồ, siêu âm ở thời điểm trước nút
mạch và sau nút mạch 6 tháng.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 31 - 7/201816
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Kết quả: Độ tuổi trung bình 22,6 tuổi, lý do vào viện chủ yếu là đau tức bìu chiếm 76,9%. Kết quả sau 6 tháng điều trị tất
cả bệnh nhân đều giảm triệu chứng đau, thang điểm đau Vas giảm từ 6,7 điểm xuống 1,2 sau 6 tháng, p<0,05. Mật độ tinh trùng
tăng lên từ 10 triệu/ml lên 21 triệu/ml, độ di động tinh trùng tăng từ 27% lên 55%, p < 0,05. Đường kinh tĩnh mạch tinh trở về
giới hạn bình thường và không còn dòng trào ngược khi làm Valsava sau 6 tháng. Không có các biến chứng lớn hay nhỏ trong
quá trình can thiệp và 6 tháng sau can thiệp.
Kết luận: Điều trị can thiệp nội mạch với kỹ thuật sandwich kết hợp Coils và keo trong điều trị giãn tĩnh mạch tinh là an
toàn và hiệu quả cao.
Từ khóa: Giãn tĩnh mạch tinh, can thiệp nội mạch điều trị giãn tĩnh mạch tinh, kỹ thuật sandwich
Người liên hệ: Nguyễn Xuân Hiền, khoa CĐHA bệnh biện Bạch Mai, email: ngochienduyocbm@gmail.com
Ngày nhận bài 20.6.2018. Ngày chấp nhận đăng: 20.7.2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dieu_tri_gian_tinh_mach_tinh_bang_can_thiep_noi_mach_su_dung.pdf