U di căn não một ổ trong nghiên cứu của
chúng tôi là 70,2%, đây là chỉ định lý tưởng cho
phẫu thuật và chúng tôi mổ một u là 79 trường
hợp (94%). Nhiều nghiên cứu cho thấy mức độ
chứng cứ loại I cho phẫu thuật tốt hơn xạ toàn
bộ não. Mintz và cộng sự báo cáo nghiên cứu
ngẫu nghiên phẫu thuật lấy bỏ u và xạ trị bổ
xung tốt hơn so với xạ trị đơn thuần. Trong một
nghiên cứu khác ở bệnh nhân u di căn não một
ổ, Patchell và cộng sự đã so sánh kết quả mổ lấy
u và xạ trị so với xạ trị đơn thuần cho thấy thời
gian sống sót trung bình lâu hơn có ý nghĩa
thống kê (40 tuần so với 15 tuần) và sự độc lập
về chức năng cũng được duy trì lâu hơn (4). Mặt
khác chúng tôi cũng mổ lấy 2 thương tổn di căn
cho 4 bệnh nhân di căn não đa ổ. Trước đây u di
căn não được xem như là chống chỉ định cho
phẫu thuật thậm chí có thể lấy u dể dàng. Theo
báo cáo của trung tâm Anderson (Texas) chỉ ra
rằng có thể phẫu thuật u di căn đa ổ với thời
gian sống cũng tương tự với u một ổ trung bình
là 14 tháng. Các nghiên cứu khác của Binda và
Iwadate cũng cho kết quả tương tự. Tuy nhiên
số lượng thương tổn mổ thường ít hơn 3 và chỉ
mổ những u lớn gây triệu chứng đe dọa sự sống
và vị trí có thể lấy được.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 178 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị phẫu thuật u di căn não, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 59
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT U DI CĂN NÃO
Trần Thiện Khiêm*, Nguyễn Phong*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị phẫu thuật của u di căn não.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca. Từ tháng 1/2010 đến tháng 06/2012 có 84 trường
hợp u di căn não được phẫu thuật tại khoa Ngoại Thần kinh-BV Chợ Rẫy. Tác giả đã mô tả các dấu hiệu lâm sàng
của u di căn não, tất cả bệnh nhân đều được đánh giá hình ảnh dựa vào MRI não. Tình trạng trước mổ được
đánh giá bằng thang điểm Glasgow và Karnofsky. Kết quả phẫu thuật đánh giá lúc ra viện bằng điểm GOS, lấy
hết u và biến chứng sau mổ.
Kết quả: Tuổi trung bình của 54 nam (64%) và 30 nữ (36%) là 53,2 ± 9,9 tuổi (19 -74). 88% bệnh nhân
không có tiền sử ung thư trước đó. Triệu chứng lâm sàng gồm: đau đầu (95%), yếu nửa người (43%), dấu tiểu
não (18%) và động kinh là 7%. U di căn trên lều chiếm 74%, thường gặp ở thùy trán (40,6%), thường chỉ có 1 u
chiếm 70,2. Đường kính u trung bình là 39,6 ± 13,7mm. Ung thư nguyên phát chủ yếu là từ phổi (40,5%),
tuyến giáp (19%) và không rõ nguồn gốc là 24%. Kết quả lấy toàn bộ u là 93%, không có trường hợp nào tử
vong do mổ và 2 trường hợp liệt nặng nửa người hơn trước mổ (2,4%), không có biến chứng xuất huyết hay mổ
lại, nhiễm trùng hoặc dò dịch não tủy sau mổ. 97,6 % có kết quả tốt sau mổ: hồi phuc 63,1% và tàn phế vừa
34,5%.
Kết luận: Phẫu thuật u di căn não trong một số trường hợp chọn lọc mang lại hiệu quả và tính an toàn cao,
cải thiện chất lượng cuộc sống tạm thời cho bệnh nhân ung thư.
Từ khóa: U di căn não, phẫu thuật, xạ toàn bộ não
ABSTRACT
THE SURGICAL TREATMENT OF BRAIN METASTASES
Tran Thien Khiem, Nguyễn Phong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 59 - 64
Objective: To evaluate the clinical feature, radiology and results of surgical treatment of brain metastases.
Methods: Prospective and descriptive study, 84 patients with brain metastases who underwent surgery at
the Neurosurgery department of ChoRay Hospital from 1/2010 to 06/2012. We descriptived clinical features of
brain metastases, diagnosis were made by MRI of the brain. All patients wered assessed by the GCS and
Karnofsky scale in the preoperative. The post-operative results were evaluated by GOS, total tumoral remove and
complication on the discharge time.
Results: Mean age of the 54 male (64%) and 30 female (36%) patient was 53.2 ± 9.9 years (ranging 19-74
years). 88% had no known history of malignancy prior to neurosurgical admission. Clinical features consisted of:
headache (95%), hemiparesis (43%), cerebellar signs (18%) and seizures (7%). The mean diameter of tumors was
39± 14.2mm. 70.2% were solitary metastases, supratentorial tumors (74%), the highest incidence of parenchymal
mets was frotal lobe (40.6%). Primary malignancies were mainly lung (40.5%), thyroid gland (19%) and
undetermined (35%). 93% totally removed. No one died in this study. Complications in surgical group include
two of hemiplegia (2.4%). There were not any hemorrhages, preoperative, infections, or CFS leakage. 97.6%
patients had post-operative good outcome (good recovery: 63.1% and moderate disability 34.5%)
Conclusion: The selective surgical treament of brain metastases was safe and effective treatment. The quality
*Khoa phẫu thuật thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy.
Tác giả liên lạc: ThS. BS Trần Thiện Khiêm ĐT: 0989299759 Email:ttkhiemntk@yahoo.com.vn.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 60
of life was improved.
Key words: Brain metastases, surgical treatment, whole brain radiotherapy
ĐẶT VẤN ĐỀ
U di căn não là u não thường gặp ở người
lớn, khoảng 20%- 40% bệnh nhân ung thư sẽ
diễn tiến đến di căn não và nó trở thành nguyên
nhân quan trọng gây tử vong và thương tật cho
bênh nhân ung thư.
Theo thống kê tại Mỹ mỗi năm có khoảng
170.000 trường hợp u di căn não mới mắc (2). Sở
dĩ u di căn não có chiều hướng gia tăng là do có
sự gia tăng thời gian sống của bệnh nhân ung
thư nhờ những tiến bộ trong điều trị ung thư
nguyên phát, hai là nhờ sự phát triển của ngành
chẩn đoán hình ảnh nhất là cộng hưởng từ có
thể phát hiện những di căn còn nhỏ. Mặt khác
các tác nhân hóa trị ung thư toàn thân có tính
xuyên thấu qua hàng rào máu não kém ngược
lại đôi khi còn làm yếu đi hàng rào máu não làm
cho ung thư di căn theo đường máu tới não.
Trước đây điều trị u di căn não chủ yếu là xạ
toàn bộ não và dùng corticoid kéo dài để làm
giảm triệu chứng và kéo dài thời gian sống
trung bình từ 3 đến 6 tháng. Ngày nay với sự
tiến bộ trong kỹ thuật phẫu thuật thần kinh kết
hợp với xạ trị làm kéo dài thời gian sống thêm,
làm cho xu hướng điều trị phẫu thuật u di căn
não ngày càng được lựa chọn. Hơn nữa phẫu
thuật là điều trị duy nhất cho kết quả mô học
nhất là những trường hợp không rõ u nguyên
phát, phẫu thuật làm giảm triệu chứng hiệu quả
và kiểm soát u tại chỗ tốt hơn, làm giảm tác
dụng phụ do sử dụng corticoid kéo dài.
Ở nước ta, phẫu thuật u di căn não chỉ được
thực hiện tại một số trung tâm lớn(1). Ở bệnh
viện Chợ Rẫy, những năm gần đây số lượng u
di căn não được điều trị ngày càng nhiều đồng
thời kết hợp với sự sẵn có của xạ trị toàn não và
xạ phẫu là mô hình điều trị được lựa chọn hiện
nay. Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình
nào đánh giá đầy đủ về vấn đề này, vì vậy
chúng tôi tiến hành đề tài “Điều trị phẫu thuật u
di căn não”nhằm mục tiêu:
- Khảo sát đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học
của u di căn não
- Bước đầu đánh giá kết quả phẫu thuật u di
căn não
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
84 trường hợp u di căn não được mổ có kết
quả giải phẫu bệnh là u di căn não từ tháng
01/2010- 06/2012.
Tiêu chuẩn loại trừ
U sàn sọ xâm lấn não
Các trường hợp u di căn màng não, xương
sọ, da đầu.
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu mô tả hàng loạt ca
Cách thức tiến hành
Thu thập các dữ liệu lâm sàng và cận lâm
sàng, kết quả phẫu thuật với mẫu bệnh án được
thiết kế sẵn cho tất cả bệnh nhân u não có kết
quả giải phẫu bệnh là u di căn não
Xử lí số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS
13.0
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian 2,5 năm, chúng tôi đã phẫu
thuật 84 trường hợp u di căn não. Tuổi trung
bình của 54 nam (64%) và 30 nữ (36%) là 53,2 ±
9,9 tuổi (19- 74), tập trung chủ yếu là 40- 59 tuổi
(70,3%), nam gấp 1,8 lần nữ. Đặc điểm lâm sàng
của u di căn não được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng của u di căn não
Đặc điểm Số lượng (%)
≤ 3 tháng 68 (81%) Bệnh sử kéo dài
> 3 tháng 16 (19%)
Chưa biết 74 (88%) Tiền sử ung thư
nguyên phát Đã biết 10 (12%)
Đau đầu 80 (95%)
Ói 22 (26,2%)
Động kinh 6 (7%)
Yếu liệt nửa người 36 (43%)
Triệu chứng lâm
sàng
Hội chứng tiểu não 15 (18%)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 61
Đặc điểm Số lượng (%)
Thay đội tâm thần 4 (4,8%)
Giảm thị lực 7 (8,3%)
Tình trạng trước mổ của bệnh nhân được
đánh giá bằng thang điểm Glasgow và
Karnofsky trong bảng 2:
Bảng 2: Tình trạng trước mổ
Tình trạng trước mổ
13-15 điểm 82 (97,6%) Điểm Glasgow
trước mổ 7-12 điểm 2 (2,4%)
<70 6 (7%)
70-80 57 (68%)
90 21 (25%)
Điểm Karnofsky
trước mổ
Trung bình 76,6± 9,3
Tất cả bệnh nhân đều được chẩn đoán bằng
MRI não. Kích thước u được đo trên MRI,
đường kính lớn nhất của u trung bình là 39,6 ±
13,7 mm (15- 90mm). U thường chỉ xuất hiện ở
một bên bán cầu não (74%) và có ở cả 2 bán cầu
não là 26%, vị trí và số lượng u được trình bày
lần lượt ở bảng 3 và bảng 4.
Bảng 3. Vị trí u di căn não
Đặc điểm Số lượng
Trên lều 62 (74%)
Dưới lều 11 (13%)
Cả trên và dưới lều 11 (13%)
Trán 34 (40,6%)
Thái dương 14 (16,7%)
Đính 14 (16,7%)
Chẩm 15 (18%)
Hố sau 20 (24%)
Thái dương đính 12 (14,3%)
Bảng 4: Số lượng u
Số lượng u
1 59 (70%)
2 14 (16,7%)
3 4 (4,8%)
>3 7 (8,3%)
Hầu hết các trường hợp u di căn não có giải
phẫu bệnh là ung thư biểu mô tuyến, cụ thể
trong bảng 5.
Bảng 5. Các loại u nguyên phát
Loại u nguyên phát Tần suất Tỷ lệ %
Phổi 34 40,5
Vú 2 2.4
Buồng trứng 3 3.6
Melanoma 2 2.4
Tuyến giáp 16 19
Đại tràng 2 2,4
Dạ dày 1 1,2
Tử cung 1 1.2
Không biết 20 23,8
Khác 3 3,6
Tổng 84 100.0
Chúng tôi đánh giá kết quả lấy hết u dựa
vào CT não cản quang được thực hiện trong
vòng 24- 48 giờ đầu sau mổ, tình trạng phù não
cũng như biến chứng máu tụ sau mổ cũng được
đánh giá và điều trị kịp thời. 94% trường hợp
chúng tôi chỉ mổ 1 u, tuy nhiên chúng tôi cũng
lấy 2 u trong một lần mổ cho 5 bệnh nhân (6%).
Có 6/84 trường hợp u liên quan tới vùng vận
động chúng tôi có sử dụng Navigation hướng
dẫn trong lúc mổ. Kết quả sớm được đánh giá
lúc ra viện (7-15 ngày sau mổ) theo thang điểm
GOS và các biến chứng sau mổ rất ít, chỉ có 2
bệnh nhân (2,4%) liệt nặng nửa người sau mổ
thể hiện trong bảng 6 và bảng 7.
Bảng 6. Kết quả phẫu thuật
Kết quả lấy u Số lượng (%)
Toàn bộ 78 (93%)
Bán phần 3 (3,6%)
Sinh thiết hở 2 (2,4%)
Sinh thiết stereotaxy 1 (1,2%)
Bảng 7: Kết quả lúc ra viện
Hồi phục 53 (63,1%)
Di chứng vừa 29 (34,5%)
Di chứng nặng 2 (2,4%)
Tử vong 0
BÀN LUẬN
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng
tôi là 53,2 ± 9,9 tuổi, tập trung chủ yếu là 40-59
tuổi (70,3%), tỉ lệ nam: nữ là 1,8 : 1. Điều này
cũng phù hợp với nhiều nghiên cứu trên thế
giới là u thường gặp ở người lớn tuổi từ 50-70
tuổi và sự khác biệt ở hai giới là không lớn(2).
Triệu chứng hầu như luôn có là đau đầu
(95%), đau đầu là triệu chứng của rất nhiều
bệnh, tuy nhiên u di căn não đau đầu là triệu
chứng của tăng áp lực nội sọ và nhất là u trong
lô nghiên cứu chúng tôi có kích thước khá lớn,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 62
trung bình là 39,6 ± 13,7mm, gây hiệu ứng choán
chỗ nhiều.
Yếu liệt nửa người là triệu chứng thực thể
thường gặp (43%) là do u thường liên quan
với thùy trán gần vùng vận động hoặc vùng
thái dương đỉnh là 2 vị trí di căn não thường
gặp. Theo y văn u di căn não thường liên
quan với vùng thái dương- đính - trán, do nó
là vùng của các nhánh tận của động mạch não
giữa, dễ bị tắc lại làm bẫy cho di căn phát
triển, cũng như vùng ranh giới giữa chất
trắng và chất xám. Kế đến là dấu hiệu tiểu não
(18%). Theo tác giả Greenberg khuyến cáo u
tiểu não người lớn phải được xem là u di căn
não cho đến khi nó được chứng minh là
không phải(2). Dấu hiệu tiểu não là triệu
chứng rất có giá trị cho chẩn đoán di căn hố
sau cần được khám thường quy trên lâm sàng.
Tất cả bệnh nhân đều được chẩn đoán bằng
MRI não, các đặc điểm hình ảnh học của u được
tác giả đánh giá cụ thể. Đường kính lớn nhất của
u trung bình là 39,6 ± 13,7mm. U trên lều chiếm
74 %, thường gặp ở thùy trán (40,6%). Chúng tôi
đánh giá mức độ lấy hết u dựa vào hình chụp
CT não cản quang được thực hiện trong vòng
24-48 giờ sau mổ. Các biến chứng như máu tụ
trong sọ, phù não sau mổ cũng được đánh giá
và điều trị tích cực. Tỉ lệ lấy toàn bộ u cao (93%),
chủ yếu là chỉ mổ 1 u (94%), những u lớn, gây
triệu chứng, đe dọa sự sống. 6/84 trường hợp u
nằm gần ở vùng chức năng (vận động, ngôn
ngữ) có sử dụng Navigation hướng dẫn trong
lúc mổ, giúp cho phẫu thuật an toàn hơn, ít tổn
thương não hơn, kỹ thuật này cũng đã được
nhấn mạnh trong nhiều nghiên cứu(6,7). Có 29
trường hợp (34,5%) chẩn đoán trước mổ không
phải u di căn (u sao bào, u màng não, áp xe não)
và kết quả sau mổ là u di căn, đều được tiếp tục
tầm soát u nguyên phát. Tất cả các trường hợp u
di căn não sau mổ đều được hẹn xạ trị tại khoa
ung bướu và tiếp tục tầm soát cũng như điều trị
u nguyên phát một cách hệ thống.
Các triệu chứng lâm sàng của u di căn não
diễn tiến khá nhanh, 81 % bệnh sử dưới 3 tháng
và 88% trường hợp chưa biết tiền sử ung thư hệ
thống trước đó, triệu chứng của u não như là
biểu hiện đầu tiên của bệnh ung thư giai đoạn
có di căn xa. Điều này có trái ngược với nhiều
nghiên cứu ở Mỹ và Châu Âu, các bệnh nhân
hầu hết có tiền sử ung thư đã điều trị trước đó
rồi mới di căn não. Như vậy có thể do nhiều yếu
tố: bệnh nhân của chúng ta ít quan tâm sức
khỏe, dân trí còn thấp hoặc kỹ thuật, chiến lược
chăm sóc sức khỏe định kỳ ở người lớn nước ta
còn hạn chế.
Các bệnh nhân chúng tôi mổ hầu hết có
thang điểm Glassgow 13-15 điểm (97,6%), và
tình trạng tổng quát còn tốt, 93% có điểm
Karnofsky trên 70 điểm. Điều này cũng phù hợp
với chỉ định mổ u di căn của nhiều nghiên
cứu(2,3,4,7). Điểm Karnofsky và glassgow cao thể
hiện tình trạng thần kinh ổn định cũng như tình
trạng tòan thân còn khá tốt, ung thư hệ thống
chưa lan rộng hoặc đang được kiểm soát tốt, nó
là yếu tố tiên lượng rất có giá trị cho kết quả
điều trị phẫu thuật u di căn não. Nghiên cứu
của chúng tôi còn cho thấy có mối tương quan
thuận giữa điểm Karnofsky trước mổ với kết
quả sớm sau mổ, điểm Karnofsky càng cao thì
kết quả sau mổ càng tốt có ý nghĩa thống kê với
p< 0,001 (F Anova =19,8). Khảo sát mối tương
quan giữa đường kính u với kết quả sau mổ cho
thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (với
p= 0,85 > 0,05) có nghĩa là kích thước u lớn
không có ảnh hưởng đến kết quả sau mổ xấu.
Bằng các phương tiện chẩn đoán hiện đại
được áp dụng tại bệnh viện Chợ Rẫy như X
quang phổi, CT ngực bụng, MRI sọ não, siêu âm
bụng, xạ hình xương, dấu ấn ung thư được
dùng thường qui trong chẩn đoán u di căn não
và kể cả PET-CT cũng được ứng dụng nhưng
chỉ vài trường hợp. Có những trường hợp chưa
tầm soát thấy u nguyên phát, chúng tôi phẫu
thuật lấy u dựa vào kết quả giải phẫu bệnh gợi ý
u nguyên phát và bệnh nhân được tiếp tục tầm
soát sau mổ. Kết quả cho thấy u di căn não chủ
yếu là ung thư biểu mô tuyến từ phổi (40,5 %),
kế đến là tuyến giáp (19%) và các cơ quan khác
như vú, buồng trứng, da.. ít gặp, có 2 (2,4%)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 63
trường hợp melanoma ác di căn não cũng được
ghi nhận. Kết quả này cũng tương tự với các
nghiên cứu của Greenberg MS, Stephen J, Sills
AK và tác giả Đồng Văn Hệ, cho rằng tỉ lệ u di
căn từ phổi và vú chiếm trên 50% các di căn
não(1,2,6). Khoảng 24% các trường hợp không rõ u
nguyên phát, tỉ lệ này còn cao so với thế giới.
Mặc dù PET-CT có giá trị rất quan trọng trong
việc tầm soát ung thư sớm nhưng vì nhiều lý do
bệnh nhân trong nghiên cứu này chưa được ứng
dụng nhiều. Mặt khác tại thời điểm u di căn não
bằng những phương tiện hiện đại cũng có sự
giới hạn trong việc tầm soát, theo y văn thế giới
tỉ lệ này dao động trong khoảng 10%(2).
Vai trò của phẫu thuật u di căn não đã được
chứng minh qua nhiều nghiên cứu. Phẫu thuật
là điều trị duy nhất mà có thể cho kết quả mô
học và đặc biệt là bệnh nhân không rõ u nguyên
phát, nó làm giảm triệu chứng nhanh, kiểm soát
thương tổn tại chỗ tốt hơn và lâu dài hơn so với
xạ trị đơn thuần. Trong nghiên cứu của chúng
tôi phẫu thuật cho kết quả tốt, tỉ lệ lấy toàn bộ u
là 93%, không có trường hợp nào tử vong do
phẫu thuật. Hơn nữa biến chứng sau mổ cũng
rất thấp, chỉ 2 trường hợp (2,4%) liệt nặng hơn
sau mổ và không có biến chứng tụ máu hố mổ,
nhiễm trùngVì phần lớn u di căn não có ranh
giới rõ, mạch nuôi tương đối dễ cầm máu đồng
thời sự lựa chọn u có vị trí phẫu thuật dễ tiếp
cận cũng như có sự tiến bộ trong kỹ thuật mổ
giúp cho phẫu thuật thành công cao. Kết quả
này cũng tương tự với các nghiên cứu của các
tác giả trong và ngoài nước. Kết quả sau mổ cho
thấy tỉ lệ hồi phục và tàn phế vừa lần lượt là
63,1% và 34,5%. Các bệnh đều được xạ toàn bộ
não tại khoa ung bướu và điều trị u nguyên
phát, thời gian sống thêm đang được theo dõi
và trình bày trong một nghiên cứu khác. Thực tế
thời gian sống thêm sau mổ phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: tuổi, tình trạng trước mổ, sự
lan rộng của ung thư hệ thống.
U di căn não một ổ trong nghiên cứu của
chúng tôi là 70,2%, đây là chỉ định lý tưởng cho
phẫu thuật và chúng tôi mổ một u là 79 trường
hợp (94%). Nhiều nghiên cứu cho thấy mức độ
chứng cứ loại I cho phẫu thuật tốt hơn xạ toàn
bộ não. Mintz và cộng sự báo cáo nghiên cứu
ngẫu nghiên phẫu thuật lấy bỏ u và xạ trị bổ
xung tốt hơn so với xạ trị đơn thuần. Trong một
nghiên cứu khác ở bệnh nhân u di căn não một
ổ, Patchell và cộng sự đã so sánh kết quả mổ lấy
u và xạ trị so với xạ trị đơn thuần cho thấy thời
gian sống sót trung bình lâu hơn có ý nghĩa
thống kê (40 tuần so với 15 tuần) và sự độc lập
về chức năng cũng được duy trì lâu hơn (4). Mặt
khác chúng tôi cũng mổ lấy 2 thương tổn di căn
cho 4 bệnh nhân di căn não đa ổ. Trước đây u di
căn não được xem như là chống chỉ định cho
phẫu thuật thậm chí có thể lấy u dể dàng. Theo
báo cáo của trung tâm Anderson (Texas) chỉ ra
rằng có thể phẫu thuật u di căn đa ổ với thời
gian sống cũng tương tự với u một ổ trung bình
là 14 tháng. Các nghiên cứu khác của Binda và
Iwadate cũng cho kết quả tương tự. Tuy nhiên
số lượng thương tổn mổ thường ít hơn 3 và chỉ
mổ những u lớn gây triệu chứng đe dọa sự sống
và vị trí có thể lấy được.
Tại bệnh viện Chợ Rẫy, số lượng bệnh nhân
được chẩn đoán u di căn não khá nhiều song số
lượng mổ không nhiều, trong 2,5 năm mà chúng
tôi chỉ mổ 84 trường hợp. Điều này là vì bệnh
nhân có bệnh cảnh lâm sàng của u di căn não rõ
ràng, tổng trạng kém hoặc họ từ chối phẫu thuật
được chúng tôi chỉ định điều trị xạ phẫu hoặc xạ
trị toàn não tại trung tâm ung bướu, đây là thế
mạnh trong một cơ sở có khả năng điều trị đa
mô thức u di căn não như bệnh viện Chợ Rẫy.
Ứng cử viên cho phẫu thuật u di căn não trong
nghiên cứu của chúng tôi là những bệnh nhân
có tổng trạng còn tốt hay là điểm Karnofsky trên
70, một số u nghi di căn mà không rõ ổ nguyên
phát cần phải mổ để có giải phẫu bệnh, thường
không có tiền sử ung thư nguyên phát hay chưa
có sự lan rộng của ung thư hệ thống và chủ yếu
là u di căn một ổ hoặc u có kích thước lớn gây
triệu chứng. Một u là chỉ định tốt cho phẫu
thuật u di căn não, vẫn có thể mổ cùng lúc nhiều
u tuy nhiên thường chúng tôi chỉ mổ dưới 3 u.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 64
KẾT LUẬN
Phẫu thuật u di căn não trong một số trường
hợp chọn lọc mang lại hiệu quả và tính an toàn
cao, cải thiện chất lượng cuộc sống tạm thời cho
bệnh nhân ung thư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đồng Văn Hệ (2010). Điều trị phẫu thuật u di căn não. Y học
thực hành 715, 5/2010.
2. Greenberg MS (2010). Brain tumor. In: Greenberg Mark:
Handbook of neurosurgery, seventh edition, pp 702-
710.Thieme, New York.
3. Jaganathan J (2010). Clinical and pathological characteristics of
brain metastasis resected after failed radiosurgery. Neurosurgery
66: 208-217.
4. Patchell RA (1990). The randomized trial of surgery in the
treatment of single metastases to brain. New Eng, I Med, 322:
494-500.
5. Ranasighe M, Sheehan J (2007). Surgical management of brain
metastases. Neurosurg Focus 22, 1: 1-7.
6. Sills AK (2005). Current treatment approaches surgery for brain
metastases. Neurosurgery, 57: 28-32.
7. Tze CT (2003). Image-guided craniotomy for cerebral
metastases: Techniques and outcomes. Neurosurgery 53, (1): pp
82-89.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_tri_phau_thuat_u_di_can_nao.pdf