Đánhgiákếtquảphẫuthuật
Tất cả bệnh nhân được đánh giá kết quả
theo thang điểm Karnofsky tại thời điểm bệnh
nhân xuất viện và thời điểm theo dõi sau cùng
gần đây nhất và phân thành nhóm: tốt
(Karnofsky từ 90‐100 điểm), vừa (Karnofsky từ
60‐80 điểm), xấu (Karnofsky từ 0‐50 điểm).
Kết quả ghi nhận tại thời điểm xuất viện là
có 51 trường hợp tốt (71,6%), 11 trường hợp
vừa (17,3%) và 2 trường hợp xấu (3,2%). Nếu
đánh giá theo thang điểm GOS tại thời điểm ra
viện thì có tỉ lệ là: GOS=5 chiếm 95,2%, GOS=4
chiếm 1,6%, GOS=2 chiếm 3,2%. Kết quả qua
quá trình theo dõi tại thời điểm tái khám gần
đây nhất (sớm nhất 9 tháng và dài nhất 33
tháng) sau phẫu thuật ghi nhận được là: 60
trường hợp tốt (93,6%), 2 trường hợp vừa
(3,2%) và 2 trường hợp xấu (3,2%).
Do tác giả Hischam Bassiouni(4)đánh giá theo
thang điểm Karnofsky nên chúng tôi so sánh với
tác giả này thì tỉ lệ tốt, vừa, xấu của chúng tôi
tương đương như tác giả này. Còn so với tác giả
Ph. Bret (đánh giá theo thang điểm GOS)(5) thì kết
quả tốt của chúng tôi cao hơn.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị phẫu thuật u màng não lều tiểu não, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 259
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT U MÀNG NÃO LỀU TIỂU NÃO
Trần Hùng Phong**, Nguyễn Phong*, Nguyễn Đức Viễn*, Trần Kim Tuyến*
TÓM TẮT
Mục đích: Phân tích đặc điểm lâm sàng, một số đường vào lấy u và kết quả điều trị phẫu thuật trong điều
trị phẫu thuật 64 bệnh nhân đã được mổ lấy u màng não lều tiểu não tại khoa ngoại thần kinh của bệnh viện
Chợ Rẫy.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu và hồi cứu tất cả các bệnh nhân u màng não vùng lều tiểu não đã được
chẩn đoán bằng CT không cản quang và có cản quang hoặc MRI và có giải phẫu bệnh là u màng não tại khoa
ngoại thần kinh của bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01/2011 đến tháng 12/2013. Thu thập các dữ liệu về triệu
chứng lâm sàng, hình ảnh học thần kinh, các đường mổ vào lấy u đã sử dụng và kết quả theo dõi sau mổ. Đánh
giá việc lấy triệt để u theo phân loại của Simpson. Đánh giá kết quả sau mổ theo thang điểm Karnofsky.
Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân là 48 ± 1,7 thay đổi từ 25 ‐ 76 tuổi. Có 52 bệnh nhân nữ (81,3%)
và 12 nam (18,7%). Lâm sàng, triệu chứng thường gặp nhất là nhức đầu (95,3%) và hội chứng tiểu não
(67,1%). Trong 64 trường hợp này, có 37 trường hợp u xuất phát từ cạnh ngoài lều tiểu não, 13 trường hợp u
xuất phát từ giữa của lều tiểu não, 11 trường hợp u xuất phát từ sau trong của lều tiểu não và 3 trường hợp u
xuất phát từ khuyết lều giữa của lều tiểu não. Hình ảnh học, u có kích thước lớn hơn 30 x 30 mm là 62 trường
hợp (96,8%). Có 5 đường vào lấy u đã được sử dụng. Điều trị phẫu thuật lấy u triệt để (Simpson I và II) là
89,1%, có 1 trường hợp tử vong (1,5%).
Kết luận: Tùy thuộc vào vị trí của u và hướng phát triển của u (trên lều tiểu não hoặc dưới lều tiểu não
hoặc cả hai) quyết định đường phẫu thuật. Đường vào tốt nhất để lấy u hiện là vấn đề vẫn còn đang bàn cãi.
Việc phân tích cẩn thận trước mổ, chọn đường vào thích hợp và sử dụng kính vi phẫu để lấy u sẽ giảm thiểu tần
xuất và tỉ lệ tử vong.
Từ khóa: U màng não, lều tiểu não, khuyết lều tiểu não, đường vào phẫu thuật.
ABSTRACT
THE SURGICAL TREATMENT OF TENTORIAL MENINGIOMAS
Tran Hung Phong, Nguyen Phong, Nguyen Duc Vien, Tran Kim Tuyen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 259 – 264
Objective: Analysing clinical presentations, surgical approaches and surgical treatment outcomes of the
sixty‐four tentorial meningiomas that were operated from Jan 2011 to Dec 2013 in the Neurosurgical
Department of Cho Ray Hospital.
Methods: The medical records of 64 patients with Tentorial Meningiomas were reviewed for informations of
clinical presentations, neuroradiological imagings, surgical treatments and long‐term outcomes, approaches. The
extent of tumor resections were evaluated according to the Simpson’s grading for tumor removal. Long‐term
results were assessed according to the Karnofsky rating scale (KRS).
Results: The mean age of the patients was 48 ± 1,7 years old, ranging from 25 ‐ 76 years old. There were 52
female (81.3%) and 12 male (18.7%). Clinically, the most common symptom was headache (95.3%), followed by
cerebellar syndromes (67.1%). Patients with Tentorial Meningiomas were classified into 5 subgroups according
* Khoa Ngoại Thần Kinh Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS Trần Hùng Phong; ĐT: 0903652401; Email: drtranphong@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 260
to the tumor sites which were based on the imaging studies. Neuroradiologically, the sizes of tumors in 62 cases
(96.8%) were larger than 30 x 30 mm. There were 5 surgical approaches to Tentorial Meningiomas. Radical
surgical removals (Simpson I and II) were achieved in 89.1% of the cases, 1 case with mortality (1.5%).
Conclusion: The locations and growth directions of the tumors (supratentorial or infratentorial, or both)
determine the operative approaches. The best surgical approach to TMs is still a controversial matter. A precise
pre‐operative plan, appropriate approach and the use of a neurosurgical microscope may carry out excellent
outcomes with minimal mortality rates.
Keywords: Meningiomas, tentorium, tentorial incisura, surgical approach.
ĐẶT VẤN ĐỀ
U màng não vùng lều tiểu não chiếm khoảng
6‐8% các u màng não trong sọ. Đây là một trong
các vị trí khó khăn cho phẫu thuật nên nó vẫn
còn là vấn đề thách thức cho các phẫu thuật viên
thần kinh. Trong đó, việc lựa chọn đường mổ
thích hợp cho từng vị trí xuất phát của u từ lều
tiểu não quyết định cho sự thành công của điều trị
phẫu thuật.
Thực hiện công trình nghiên cứu này, chúng
tôi muốn trình bày một số nhận xét về chẩn đoán,
các đường vào lấy u và kết quả điều trị phẫu thuật
loại u này cũng như các biến chứng mà chúng tôi
đã gặp khi điều trị phẫu thuật.
BỆNH NHÂN ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bệnh nhân
Tất cả các bệnh nhân đã được phẫu thuật lấy u
màng não vùng lều tiểu não tại khoa ngoại thần
kinh thuộc bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 1 năm
2011 đến tháng 12 năm 2013. Tất cả bệnh nhân
được chẩn đoán bằng CTscan hoặc MRI, phẫu
thuật lấy u, CTscan hoặc MRI kiểm tra sau mổ và
có giải phẫu bệnh là u màng não. Thu thập các
dữ liệu về triệu chứng lâm sàng, hình ảnh học
thần kinh trước mổ và sau mổ. Mô tả phương
pháp phẫu thuật như đường mổ, đánh giá mức độ
lấy triệt để u theo phân loại của Simpson(2,8). Các
biến chứng phẫu thuật được thu thập, đánh giá
kết quả phẫu thuật theo thang điểm Karnofsky(4)
ngay tại thời điểm bệnh nhân ra viện và theo dõi
tiếp tục sau 3 tháng, 6 tháng và mỗi năm khi
bệnh nhân tái khám.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu và hồi cứu.
Trong 3 năm (từ 01/2011‐12/2013) có 64 bệnh
nhân đã được phẫu thuật lấy u màng não vùng
lều tiểu não tại khoa ngoại thần kinh thuộc bệnh
viện Chợ Rẫy.
Chẩn đoán hình ảnh học
Trong 64 trường hợp đã được chẩn đoán bằng
hình ảnh học, có 51 trường hợp vừa được chụp
CTscan vừa được chụp MRI và có 13 trường hợp
chỉ được chụp MRI. Có 3 trường hợp được khảo
sát thêm về mạch máu bằng chụp DSA.
Dựa vào vị trí của u và hướng phát triển của u
ở lều tiểu não (trên lều tiểu não hoặc dưới lều tiểu
não, hoặc cả hai) trên hình ảnh học (CTscan,
MRI), chúng tôi phân loại các nhóm u theo hệ
thống phân loại của Yasargil (Hình 1).
‐ Nhóm I: 2 trường hợp
‐ Nhóm II: 3 trường hợp
‐ Nhóm III: 12 trường hợp
‐ Nhóm IV: 10 trường hợp
‐ Nhóm V: 37 trường hợp
Hình 1: Sơ đồ vị trí u màng não lều tiểu não theo hệ
thống phân loại của Yasargil.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 261
Tất cả bệnh nhân được chụp CTscan có tiêm
thuốc cản quang hoặc MRI sau mổ để đánh giá
mức độ lấy triệt để u và đánh giá tình trạng não
sau phẫu thuật lấy u.
Về lâm sàng, chúng tôi đánh giá kết quả phẫu
thuật theo thang điểm Karnofsky và dựa vào
phân nhóm: tốt, vừa và xấu của các tác giả
M.Alaywan(1), Hischam Bassiouni(4) và thang
điểm GOS theo tác giả Ph.Bret(5) để đánh giá kết
quả phẫu thuật tại thời điểm bệnh nhân xuất viện
(bảng 1).
Bảng 1: Xếp loại kết quả tốt, vừa và xấu theo thang
điểm Karnofsky
Điểm Karnofsky Tình trạng bệnh nhân
90-100 điểm
(nhóm tốt)
Làm việc bình thường, không có hoặc có
những triệu chứng nhẹ không đáng kể.
60-80 điểm (nhóm
vừa)
Tự lo trong sinh hoạt, còn vài triệu
chứng.
0-50 điểm ( nhóm
xấu)
Gồm bệnh tử vong, hấp hối, tàn phế
nặng hoặc cần phải sự trợ giúp thường
xuyên trong sinh hoạt.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Dịch tễ học
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 48 ± 1,7; nhỏ
nhất là 25 tuổi và lớn nhất là 76 tuổi. Tỉ lệ nữ gấp 4
lần nam (nữ chiếm 81,3% và nam chiếm 18,7%).
Đặc điểm lâm sàng:
Đa số bệnh nhân nhập viện vì nhức đầu
(82,8%), tiếp theo là buồn ói và ói (29,6%), chóng
mặt (25%), rối loạn vận động (18,7%). Lâm sàng,
triệu chứng thường gặp nhất là đau đầu vùng sau
gáy và kéo dài dai dẳng (95,3%), buồn ói và ói
(57,8%), chóng mặt (42,1%). Khám lâm sàng có
biểu hiện tăng áp lực nội sọ (71,8 %), thất điều tiểu
não (67,1%) và rối loạn chức năng dây sọ (20,3%).
Có 2 trường hợp bệnh nhân nhập viện trong tình
trạng giảm tri giác và có giãn não thất được đặt
V.P Shunt cấp cứu sau đó mới tiến hành mổ lấy u
ở lần mổ sau.
Kết quả phẫu thuật
Mức độ phẫu thuật lấy u triệt để được đánh
giá theo phân độ của Simpson với kết quả như
sau: Phẫu thuật lấy toàn bộ u được thực hiện ở 59
trường hợp (chiếm 92,1%), có 2 trường hợp u
thuộc nhóm I trên và dưới lều 2 bên được lấy u
bên mổ còn phần nhỏ u ở bên kia bị che khuất
bởi liềm lều tiểu não và xoang thẳng được hẹn
bệnh nhân trở lại để lấy phần u đó, có 2 trường
hợp để lại phần u nhỏ dính vào xoang xích ma.
Kết quả ghi nhận tại thời điểm xuất viện có 51
trường hợp tốt (79,6%), 11 trường hợp vừa
(17,3%) và 2 trường hợp xấu (3,2%). Nếu đánh giá
theo thang điểm GOS tại thời điểm ra viện thì có
tỉ lệ là: GOS=5 chiếm 95,2%, GOS=4 chiếm 1,6%,
GOS=2 chiếm 3,2%.
Kết quả qua quá trình theo dõi tới thời điểm
tái khám gần đây nhất (sớm nhất 9 tháng và dài
nhất 33 tháng) sau phẫu thuật ghi nhận được là:
61 trường hợp tốt (95,3%), 2 trường hợp vừa
(3,2%), 1 trường hợp xấu (1,5%).
Biến chứng sau mổ
Chúng tôi có 12 biến chứng sau mổ xảy ra
trên 8 bệnh nhân (Bảng 2).
Bảng 2: Biến chứng sau phẫu thuật
Biến chứng Số BN Ghi chú
Máu tụ trong não 3 1 ca mổ lại lấy máu tụ, 2 ca điều trị bảo tồn.
Liệt VII ngoại biên 2 1 ca độ II, 1 ca độ III: đều hồi phục.
Dãn não thất 3 1 ca dẫn lưu não thất ra ngoài, 2 ca đặt V.P Shunt.
Rối loạn ý thức 1 Bệnh nhân hay nói nhảm, có cải thiện dần.
Yếu nửa người 1 Là ca được mổ lấy máu tụ.
Tụ dịch não tủy vết mổ 2 Dẫn lưu thắt lưng thất bại → Mổ vá màng cứng
Viêm màng não 1 Sau khi đặt EVD.
Tử vong 1
Tổng số biến chứng 12 xảy ra trên 8 bệnh nhân
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 262
BÀN LUẬN
Về độ tuổi, trong 64 trường hợp nghiên cứu
của chúng tôi thì nhỏ nhất là 25 tuổi và lớn nhất
là 76 tuổi, trung bình là 48 tuổi. So sánh với các
tác giả khác thì độ tuổi trung bình trong nghiên
cứu cùa chúng tôi trẻ hơn so với các tác giả
Hischam Bassiouni, Ph. Bret và M. Samii(4,3,6)
(Student với p=0,005) (Bảng 3).
Bảng 3: Phân bố theo tuổi
Tác giả Số trường
hợp
Độ tuổi Tuổi trung
bình
Hischam Bassiouni 81 18-72 55
Ph. Bret 27 30-77 53
M.Samii 25 28-72 52
BV Chợ Rẫy 64 25-78 48
Về lâm sàng, theo các tài liệu y văn thì
triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân u màng
não lều tiểu não thường gặp nhất là: nhức đầu,
mất chức năng tiểu não, rối loạn chức năng
dây sọ và chóng mặt. Sau đây là kết quả một
số triệu chứng chính của chúng tôi ghi nhận
được so sánh với các tài liệu y văn (Bảng 4).
Bảng 4: So sánh triệu chứng lâm sàng thường gặp
với tài liệu y văn
Các dấu hiệu và
triệu chứng
Bệnh viện Chợ
Rẫy (n=64)
Tài liệu y
văn(2,4,5,7)
Nhức đầu 95,3% 20-85%
Hội chứng tiểu não 67,1% 30-80%
Buồn ói, ói 57,8% 15-50%
Chóng mặt 42,1% 5-15%
Khiếm khuyết dây sọ 20,3% 40-60%
Mờ mắt 14,7% 10-15%
Rối loạn ý thức 3,6% 5-30%
Dấu tháp 0% 5-10%
Như vậy, triệu chứng lâm sàng của u màng
não vùng lều tiểu não có sự đặc trưng riêng so
với u màng não ở vị trí khác như u màng não
vòm sọ, u màng não cạnh xoang tĩnh mạch dọc
trên và liềm não, u màng não rãnh khứu.
Về việc phân bố vị trí u: Việc xác định vị trí
của u màng não lều tiểu não rất quan trọng vì nó
là cơ sở để chọn đường vào lấy u và quyết định
sự thành công của cuộc mổ.
Chúng tôi lựa chọn cách phân loại dựa theo
sự phân loại của Yasargil(4,5).
Sau đây là bảng so sánh về sự phân bố vị trí
u so với các tác giả khác
Bảng 5: so sánh về sự phân bố vị trí u so với các tác giả khác
Tác giả Nhóm I Nhóm II Nhóm III Nhóm IV Nhóm V
Hischam Bassiouni 6(7,5%) 19(23,7%) 12(15%) 2(2,5%) 41(51,3%)
Ph. Bret 10(37%) 7(25,9%) 3(11,1%) 3(11,1%) 4(14,9%)
BV Chợ Rẫy 2(3,6%) 3(4,6%) 12(18,7%) 10(15,6%) 37(57,8%)
Xét về tỉ lệ % của từng vị trí u thì số liệu của
chúng tôi gần với số liệu của Hischam Bassiouni hơn.
Về kích thước của khối u thì đường kính
trung bình của khối u trong số liệu nghiên cứu
của chúng tôi (5,2cm x 2,6cm x 9,7cm) lớn hơn
nhiều so với của tác giả Ph. Bret (3cm x 1cm x
6cm) với p=0,005. Sự khác biệt này có thể do bệnh
nhân ở nước ta đến bệnh viện khám trễ hơn.
Đặc điểm phẫu thuật
Chúng tôi chọn đường vào lấy u tùy thuộc
vào vị trí của u và hướng phát triển của u ở lều
tiểu não (trên lều tiểu não hoặc dưới lều tiểu não,
hoặc cả hai) trên hình ảnh học theo hệ thống
phân loại của Yasargil (Hình 1).
Chúng tôi đã sử dụng các đường mổ vào lấy
u là: Đường bên dưới lều‐trên tiểu não, đường
giữa dưới lều‐trên tiểu não, đường chẩm rãnh
liên bán cầu, đường dưới thái dương trước
xoang xích ma, đường phối hợp chẩm‐dưới thái
dương (Bảng 6).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 263
Bảng 6: Các đường vào lấy u
Đường vào
lấy u
Đường bên dưới
lều-trên tiểu não
Đường giữa dưới
lều-trên tiểu não
Đường chẩm rãnh
liên bán cầu
Đường dưới thái dương
trước xoang xích ma
Đường phối hợp chẩm-
dưới thái dương
Nhóm I 0 0 2 0 0
Nhóm II 0 0 0 3 0
Nhóm III 10 0 0 0 2
Nhóm IV 2 7 1 0 0
Nhóm V 32 0 0 2 3
Tổng cộng 44 7 3 5 5
Về đường mổ và kỹ thuật mổ, chúng tôi
nghiên cứu kỹ hình ảnh học của bệnh nhân
trước mổ theo phân loại của Yasargil và chọn
đường mổ thích hợp cho từng vị trí u nên đã lấy
khá triệt để u (Simpson I và II: 93,4%) và kết quả
phẫu thuật đạt kết quả tốt.
Chúng tôi trình bày một số đặc điểm chính
của từng đường mổ mà chúng tôi đã sử dụng:
Đường bên dưới lều‐trên tiểu não
‐ Đường này thích hợp nhất vào lấy u ở mặt
dưới bên của lều tiểu não, ngoài ra cho u ở mặt
dưới giữa hoặc gần hội lưu xoang của lều tiểu não.
‐ Chú ý các cấu trúc xoang ngang, xoang xích
ma, xoang thẳng và các dây sọ VII, VIII, V.
‐ Phá bể lớn dẫn lưu dịch não tủy cho tiểu
não bớt căng, đỡ vén não. Cắt gốc bám của u ở
nơi nào có thể được, lấy u trong lòng u trước khi
lấy bỏ bao u.
Đường giữa dưới lều‐trên tiểu não
‐ Đường này thường được sử dụng để lấy u
ở mặt dưới lều tiểu não gần xoang thẳng và hội
lưu xoang.
‐ Chú ý các cấu trúc xoang ngang, hội lưu
xoang, xoang thẳng và các cấu trúc cạnh khuyết
lều: pca, sca, dây IV, thân não, tĩnh mạch Labbe(6).
‐ Phá bể lớn dẫn lưu dịch não tủy cho tiểu
não bớt căng, đỡ vén não, có thể loại bỏ tĩnh
mạch cầu để hạ tiểu não. Cắt gốc bám của u ở
nơi nào có thể được, lấy u trong lòng u trước khi
lấy bỏ bao u.
Đường chẩm rãnh liên bán cầu
‐ Đường mổ này chúng tôi áp dụng để lấy u
trên hoặc dưới lều vùng khuyết lều sau.
‐ Mở sọ chẩm giữa, bộc lộ xoang dọc, vùng hội
lưu xoang, xoang ngang 2 bên, mở màng cứng bên
trái, bao bọc xoang thẳng và xoang ngang bên
phải, vén thùy chẩm lên và sang bên. Đốt lều tiểu
não và cắt xuyên lều để tới khuyết lều.
‐ Tránh làm tổn thương dây IV và tĩnh mạch
sâu, lấy u trong lòng rồi gỡ bao u khỏi tổ chức
xung quanh(6).
Đường dưới thái dương trước xoang xích ma
‐ Đường mổ này áp dụng để lấy u ở trên lều
tiểu não giữa, bên và khuyết lều. Cho phép kiểm
soát tốt vùng bụng của thân não.
‐ Mở sọ thấp, nên cắt một phần xương đá để
phẫu trường rộng hơn đỡ vén não, thấy một
phần xoang ngang và cấu trúc quan trọng là tĩnh
mạch Labbe, cắt màng nhện xung quanh tĩnh
mạch này sẽ tách rời khỏi thùy thái dương, có
thể cắt một phần dưới thùy thái dương, tránh
vén thùy thái dương sau kéo dài nhất là bán cầu
ưu thế.
Biến chứng
Theo bảng 2, có tất cả 12 biến chứng sau mổ
xảy ra trên 8 bệnh nhân (12,5%). Trong đó có 3
trường hợp có máu tụ sau mổ: Một trường hợp
có máu tụ hố mổ ít kèm dãn não thất, được dẫn
lưu dịch não tủy ra ngoài và điều trị bảo tồn, sau
đó bệnh nhân tỉnh, xuất viện trong tình trạng tốt.
Có 1 trường hợp mổ lại lấy máu tụ, sau mổ tỉnh
nhưng còn yếu nửa người. Và một trường hợp
nặng nề nhất là trường hợp mổ u ở khuyết lều,
sau mổ bị máu tụ ngoài màng cứng chẩm và dập
não xuất huyết hố mổ. Trường hợp này có lẽ
trong lúc mổ có vén não nhiều và thời gian vén
não kéo dài nên dẫn đến dập não xuất huyết tại
hố mổ. Do đó, cần vén não nhẹ nhàng và thời
gian mỗi lần vén không quá 30 phút.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 264
Một trường hợp biến chứng nặng nề là rò
dịch não tủy qua tai ở bệnh nhân được mổ u
thuộc nhóm V có một phần u lan tới mặt trước
trong của xương đá nên được cắt xương đá khi
mở sọ. Sau phẫu thuật lấy u bệnh nhân tỉnh, 5
ngày sau rò dịch não tủy qua tai rồi kéo theo
biến chứng viêm màng não mủ, dãn não thất
điều trị 32 ngày sau mổ, bệnh nhân suy kiệt
nặng và tử vong tại nhà sau khi xin xuất viện về
7 ngày. Bệnh nhân này được đánh giá theo
thang điểm Karnofsky là 0‐20 điểm và xếp loại
kết quả xấu. Như vậy, biến chứng viêm màng
não mủ chỉ xảy ra ở 1 trường hợp (1,6 %) nhưng
nó gây di chứng nặng và tử vong. Để tránh biến
chứng này, theo M. Samii và cộng sự thì sau khi
đóng màng cứng, xương đá được phủ bởi miếng
cơ và với keo sinh học (fibrin glue).
Bảng 7: So sánh tỉ lệ biến chứng với các tác giả khác
Tác giả H. Bassiouni Ph. Bret BV Chợ Rẫy
Biến chứng (n=16/27) (n=15/81) (n=8/64)
Máu tụ 1 0 3
Dãn não thất 3 3 3
Liệt VII ngoại biên 2 2 2
Yếu nửa người 5 3 1
Viêm màng não 1 1 1
Rò dịch não tủy 5 0 0
Tử vong 2 1 1
Đánh giá kết quả phẫu thuật
Tất cả bệnh nhân được đánh giá kết quả
theo thang điểm Karnofsky tại thời điểm bệnh
nhân xuất viện và thời điểm theo dõi sau cùng
gần đây nhất và phân thành nhóm: tốt
(Karnofsky từ 90‐100 điểm), vừa (Karnofsky từ
60‐80 điểm), xấu (Karnofsky từ 0‐50 điểm).
Kết quả ghi nhận tại thời điểm xuất viện là
có 51 trường hợp tốt (71,6%), 11 trường hợp
vừa (17,3%) và 2 trường hợp xấu (3,2%). Nếu
đánh giá theo thang điểm GOS tại thời điểm ra
viện thì có tỉ lệ là: GOS=5 chiếm 95,2%, GOS=4
chiếm 1,6%, GOS=2 chiếm 3,2%. Kết quả qua
quá trình theo dõi tại thời điểm tái khám gần
đây nhất (sớm nhất 9 tháng và dài nhất 33
tháng) sau phẫu thuật ghi nhận được là: 60
trường hợp tốt (93,6%), 2 trường hợp vừa
(3,2%) và 2 trường hợp xấu (3,2%).
Do tác giả Hischam Bassiouni(4) đánh giá theo
thang điểm Karnofsky nên chúng tôi so sánh với
tác giả này thì tỉ lệ tốt, vừa, xấu của chúng tôi
tương đương như tác giả này. Còn so với tác giả
Ph. Bret (đánh giá theo thang điểm GOS)(5) thì kết
quả tốt của chúng tôi cao hơn.
KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu kỹ về chẩn đoán hình ảnh
học của bệnh nhân để chọn lựa đường mổ vào
lấy u thích hợp nhất sẽ góp phần giảm tỉ lệ bệnh
tật và tử vong trong điều trị phẫu thuật u màng
não vùng lều tiểu não. Vi phẫu thuật trong điều
trị u màng não vùng lều tiểu não đạt kết quả tốt
(93,6%) với Karnofsky 90‐100 điểm, tử vong thấp
(1,6%). Như vậy, có thể điều trị khỏi bệnh u
màng não vùng lều tiểu não bằng phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alaywan M, Sinsou M (1993). Prognostic factors in the
surgery for intracranial meningioma. Role of the tumoral size
and arterial vascularization originating from the pia mater.
Study of 150 cases. Neurochirugie. 39(6): 337‐347.
2. Al‐Mefty O (1998). Operateive technique for Tentorial
Meningiomas, Operative atlas of meningiomas, pp. 317‐318.
3. Al‐Mefty O (1991), Meningiomas, edited by O. Al‐Mefty.
Raven Press, Ltd., New York ©.
4. Bassiouni H, Hunold A, Asgari S, Stolke Dal (2004).
Tentorial Meningiomas: Clinical Results in 81 Patients
Treated Microsurgically. Neurosurgery. 55(1):108‐116.
5. Bret P, Guyotat J, Madarassy G, Ricci AC, Signorelli F
(2000). Tentorial Meningiomas: Report on Twenty‐Seven
Cases. Acta Nerochir. 142(5): 513‐526.
6. Samii M, Carvalho GA, Tatagiba M, Matthies C, Vorkapic
P (1996). Meningiomas of the tentorial notch: Surgical
anatomy and management, J. Neurosurg. 84(3): 375‐381.
7. Schaller C, Meyer B, Jung A, Erkwoh A, Schramm J (2002).
Results for microsurgical removal of tentorial meningiomas.
Zentralbl Nerochir. 63(2): 59‐64.
8. Simpson D (1957). The recurrence of intracranial meningioms
after surgical treatment. J Neurol Neurosurge Psychiatry.
20(1):.22‐29.
9. Yasargil MG (1996). Meningiomas: Microneurosurgery. In
Yasargil: Microneurosurgery of CNS tumors. Stuttgart Georg.
Thieme. 4B: 134–65.
Ngày nhận bài báo: 21/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 2/11/2014
Ngày bài báo được đăng: 5/12/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_tri_phau_thuat_u_mang_nao_leu_tieu_nao.pdf