Điều trị phẫu thuật u màng não rãnh khứu bằng đường mở sọ trán ‐ thái dương một bên
Kết quả phẫu thuật
Chúng tôi đánh giá mức độ lấy hết u dựa
vào phân độ Simpson. Có 11/14 trường hợp
(78,6%) là Simpson 2. Chúng tôi để lại phần khối
u bám vào màng cứng phủ xoang sàng để tránh
gây rách màng cứng dẫn đến rò dịch não tủy.
Có 1 bệnh nhân có biến chứng viêm màng
não sau mổ. Bệnh nhân có xoang trán rất lớn
kèm theo viêm xoang trong thời gian phẫu
thuật. Bệnh nhân đã được điều trị khỏi bằng
kháng sinh liều cao. 1 bệnh nhân khác có biến
chứng rò dịch não tủy do rách màng cứng ở nền
sọ đã được điều trị bằng đặt dẫn lưu thắt lưng
trong vòng 5 ngày sau mổ. Không phát hiện biến
chứng phù não sau mổ nào trong cả 14 trường
hợp. Đây là ưu điểm nổi bật của đường mở sọ
trán‐thái dương so với đường mở trán 2 bên.
Kết quả sau mổ tốt (điểm Karnofsky 90‐100)
chiếm tỷ lệ cao: 13/14 bệnh nhân (92,9%). Các tác
giả khác cũng thông báo kết quả tương tự khi áp
dụng đường mở sọ 1 bên đối với u màng não
rãnh khứu(3,4).
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị phẫu thuật u màng não rãnh khứu bằng đường mở sọ trán ‐ thái dương một bên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 182
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT U MÀNG NÃO RÃNH KHỨU
BẰNG ĐƯỜNG MỞ SỌ TRÁN‐THÁI DƯƠNG MỘT BÊN
Phạm Quỳnh Trang**, Nguyễn Thế Hào*, Trần Trung Kiên*, Phạm Văn Cường*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Phân tích phương pháp và đánh giá kết quả phẫu thuật u màng não (UMN) rãnh khứu bằng
đường mở sọ trán‐thái dương một bên.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 14 bệnh nhân UMN rãnh khứu được phẫu thuật bằng đường mở
sọ trán‐thái dương (TD) một bên từ 3.2013 đến 6.2014 tại bệnh viện Bạch Mai và bệnh viện Việt Đức.
Kết quả: 14 bệnh nhân từ18‐68 tuổi (trung bình 41,2), nữ:nam là 10:4. 100% bệnh nhân được phẫu thuật
sử dụng đường trán TD một bên. Kết quả lấy hết u: Simpson 2 78,7%, Simpson 1: 21,3%. Biến chứng viêm
màng não: 7,1%, rò DNT: 7,1%. Karnofsky 100 chiếm 78,7%.
Kết luận: Đường mở sọ trán TD một bên bảo tồn được hệ thống mạch máu, thần kinh ở nền sọ, chức năng
khứu giác của bệnh nhân. Kết quả phẫu thuật tốt chiếm đa số.
Từ khóa: u màng não, rãnh khứu.
ABSTRACT
FRONTOLATERAL APPROACH IN RESECTION OF OLFACTORY GROOVE MENINGIOMAS
Pham Quynh Trang, Nguyen The Hao, Tran Trung Kien*, Pham Van Cuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 182 – 186
Objective: Analyzing the frontolateral approach in resection of olfactory groove meningiomas.
Methods: Perspective study of 14 patients of olfactory groove meningioma operated from3.2013 to 6.2014 at
Viet Duc hospital and Bach Mai hospital.
Results: Mean age 41.2 (from 18 to 68). 100% frontolateral approach. Surgical results: Simpson 2 (78.7%),
Simpson 1 21.3%. Post‐op complication: Meningitis 7.1%, CSF fistula 7.1%. Karnofsky 100 is 78.7%.
Conclusions: Frontolateral approach can preserve vascular system, the cranial nerves, olfactory function.
Surgical result is favorable.
Keywords: meningiomas, olfactory groove.
ĐẶT VẤN ĐỀ
U màng não rãnh khứu được Durante phẫu
thuật thành công lần đầu tiên trên thế giới năm
1885. Có nhiều đường mổ khác nhau được sử
dụng để phẫu thuật u màng não rãnh khứu.
Đường mổ được áp dụng phổ biến nhất là
đường mở sọ trán hai bên. Ưu điểm của đường
mổ này là có thể dễ dàng tiếp cận khối u, cắt
nguồn mạch máu nuôi u, lấy u được từ cả 2 bên
liềm đại não. Tuy nhiên, nhược điểm của đường
mổ trán 2 bên là: 1. Mở vào xoang trán, làm tăng
nguy cơ nhiễm trùng sau mổ, 2. Vén cả 2 thùy
trán gây tổn thương tổ chức não cũng như hệ
thống tĩnh mạch và nguy cơ tổn thương dây
thần kinh khứu giác hai bên, 3. Trong những
trường hợp khối u lớn, đường trán 2 bên không
cho phép phẫu thuật viên kiểm soát hệ thống
động mạch lớn ở nền sọ do khối u làm thay đổi
vị trí bình thường của động mạch(3,2). Đường mổ
trán thái dương một bên có thể khắc phục
những vấn đề trên. Chính vì vậy, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu này nhằm phân tích phương
* Khoa Ngoại Bệnh viện Bạch Mai ** Khoa phẫu thuật Thần Kinh bệnh viện Việt Đức
Tác giả liên lạc: BS Phạm Quỳnh Trang ĐT: 0944300378 Email: drphamquynhtrang@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 183
pháp và đánh giá kết quả phẫu thuật u màng
não rãnh khứu bằng đường mổ trán thái dương
một bên
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 14 bệnh nhân được chẩn đoán là u
màng não rãnh khứu
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
Những bệnh nhân được chẩn đoán dựa vào
lâm sàng và hình ảnh là u màng não rãnh khứu,
được phẫu thuật bằng đường mổ trán thái
dương một bên
Kết quả giải phẫu bệnh là u màng não
Đầy đủ hồ sơ bệnh án, phim ảnh
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân được chẩn đoán là u màng não
rãnh khứu nhưng được phẫu thuật bằng đường
mổ trán hai bên
Bệnh nhân không được phẫu thuật
Không có kết quả giải phẫu bệnh hoặc kết
quả không phải u màng não
Không đầy đủ hồ sơ bệnh án, phim ảnh
Thời gian nghiên cứu
3.2013 đến 6.2014
Địa điểm nghiên cứu
Khoa Phẫu thuật Thần kinh ‐ Bệnh viện Việt
Đức và khoa Ngoại ‐ Bệnh viện Bạch Mai
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu
Các chỉ tiêu nghiên cứu
‐ Các đặc điểm bệnh nhân: Tuổi, giới, các
triệu chứng lâm sàng
‐ Các đặc điểm hình ảnh của khối u: Kích
thước, độ tăng sinh mạch của khối u, u xâm lấn
một bên hoặc hai bên liềm đại não, phù não, liên
quan giữa khối u và các động mạch ở nền sọ
‐ Phương pháp phẫu thuật
‐ Các thuận lợi và khó khăn trong phẫu thuật
‐ Kết quả phẫu thuật: Kết quả lấy hết u dựa
trên phân độ Simpson, các biến chứng sau mổ,
kết quả khám lại sau 3‐6 tháng dựa vào bảng
phân độ Karnofsky (KPS)
KẾT QUẢ
Đặc điểm bệnh nhân:
Từ tháng 3.2013 đến tháng 6.2014 chúng tôi
phẫu thuật 14 u màng não rãnh khứu trong số
189 u màng não, tỷ lệ là 7,4%. Tuổi bệnh nhân từ
18 đến 68, trung bình là 41,2 tuổi. Giới: 10 nữ: 4
nam, tỷ lệ 2,5:1
Các triệu chứng lâm sàng được tóm tắt trong
Bảng 1
Bảng 1 Các triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Thay đổi tính cách, nhận thức 9 64,3
Các triệu chứng về thị giác 7 50
Tăng áp lực nội sọ 9 64,3
Giảm/mất hoàn toàn khứu giác 14 100
Các đặc điểm về hình ảnh
Cả 14 bệnh nhân được chụp cắt lớp vi tính,
cộng hưởng từ và chụp động mạch não trước
mổ. Các đặc điểm về hình ảnh của khối u được
tóm tắt trong Bảng 2
Bảng 2 Các đặc điểm về hình ảnh
Đặc điểm Số bệnh nhân Tỷ lệ
Kích thước khối u: <30mm
30-60mm
>60mm
2
3
9
14,3
21,4
64,3
Phù não 12 85,7
U nằm ở đường giữa
U nằm lệch sang một bên
6
8
42,8
57,2
Mạch máu lớn nằm trong u 5 35,7
Phương pháp phẫu thuật
14/14 bệnh nhân đều được phẫu thuật, sử
dụng mở sọ trán thái dương một bên.
Bệnh nhân nằm ngửa, đầu nghiêng 45‐60 độ.
Cửa sổ xương 2/3 trán‐1/3 thái dương đến sát
nền trán và nền thái dương.
Mở màng cứng. Sử dụng kính vi phẫu mở
đoạn sâu khe Sylvien và bể dịch não tủy giữa TK
thị giác và ĐM cảnh trong để làm xẹp não. Vén
não tối thiểu để bộc lộ khối u. Làm giảm thể tích
trong lòng khối u để bộc lộ dần dần phần màng
cứng ở nền sọ. Đốt và cắt các cuống mạch nuôi u
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 184
từ màng cứng nền sọ. Bộc lộ động mạch cảnh
trong cho tới ngã ba, nằm ở mặt sau‐ngoài của u.
Sau đó, giảm thể tích khối u dần dần để bộc lộ
được hoàn toàn phức hợp động mạch não trước,
giao thoa thị giác và 2 thần kinh thị giác. Mở
liềm đại não để kiểm soát được phần u và thần
kinh khứu giác bên đối diện. Bộc lộ đoạn xa
động mạch não trước bên đối diện và tổ chức
não xung quanh khối u. Nếu cần thì mở ống thị
giác để lấy phần u nằm trong ống thị giác. Sau
khi lấy hết u, đốt cầm máu kĩ màng cứng ở nền
trán. Có thể sử dụng cân galea và keo sinh học
đển tránh rò dịch não tủy.
Các thuận lợi của đường mở sọ trán ‐ thái
dương một bên
Hạn chế mở vào xoang trán
Hạn chế sử dụng van vén não
Làm xẹp được não sớm bằng cách mở vào
bể dịch não tủy ở nền sọ và bằng cách mở khe
Sylvien.
Hạn chế làm thương tổn hệ thống tĩnh
mạch dẫn lưu. Không phải thắt xoang tĩnh
mạch dọc trên
Hạn chế thương tổn tổ chức não trán hai bên,
ảnh hưởng đến chức năng nhận thức, tâm thần
của bệnh nhân.
Chủ động bộc lộ được sớm động mạch và
thần kinh ở nền sọ
Bảo tồn được thần kinh khứu bên đối diện.
Các khó khăn của đường mở sọ trán ‐ thái
dương một bên
Không quan sát được trực diện khối u.
Không loại bỏ được từ đầu tất cả các nguồn
cấp máu từ nền sọ trán hai bên liềm đại não
Khó khăn khi cần phục hồi những vị trí rách
của nền sọ tầng trước để tránh rò dịch não tủy
Kết quả phẫu thuật
Mức độ lấy hết u dựa theo phân độ Simpson:
Bảng 3. Kết quả lấy u theo Simpson
Độ Simpson Số bệnh nhân Tỷ lệ
Độ I 3 21,3
Độ II 11 78,7
Tổng 14 100
Các biến chứng sau mổ
Bảng 4. Biến chứng sau mổ
Biến chứng Số bệnh nhân Tỷ lệ
Viêm màng não 1 7,1
Rò dịch não tủy 1 7,1
Tổng số 2 14,2
Kết quả khám lại sau mổ 3‐6 tháng:
Bảng 5. Kết quả theo Karnofsky
Điểm Karnofsky Số bệnh nhân Tỷ lệ
100 11 78,7
90 2 14,2
80 1 7,1
BÀN LUẬN
Đặc điểm bệnh nhân:
Tỷ lệ tuổi giới trong nghiên cứu của chúng
tôi không có gì khác biệt so với các nghiên cứu
trong y văn về u màng não nói chung và u
màng não rãnh khứu nói riêng. Tỷ lệ u màng
não rãnh khứu trong nghiên cứu của chúng tôi
là 7,4%. Tỷ lệ trung bình ở các nghiên cứu khác
là từ 4‐10%(4).
Triệu chứng gặp ở 100% bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi là giảm hoặc mất khứu
giác. Có 9/14 (64,3%) bệnh nhân có biểu hiện rối
loạn về tính cách, nhận thức, tương ứng với
những trường hợp khối u lớn (trên 60mm). Biểu
hiện tăng áp lực nội sọ không rõ ràng (9/14 bệnh
nhân ‐ 64,3%): Đau đầu nhẹ, buồn nôn(4).
Kích thước khối u trung bình là 42mm (nhỏ
nhất là 26mm, lớn nhất là 71mm). Trong đó có 9
trường hợp khối u >60mm (64,3%). Tỷ lệ khối u
có kích thước khổng lồ cao do u màng não nói
chung tăng kích thước chậm. Hơn nữa, u màng
não rãnh khứu khu trú ở vùng trán, thường
không có biểu hiện lâm sàng rầm rộ nên bệnh
nhân chỉ đi khám ở giai đoạn khối u đã có kích
thước lớn(3,4).
Các khối u có kích thước lớn thường kèm
theo hình ảnh phù não trên phim chụp cộng
hưởng từ. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
những khối u kích thước lớn hơn 45mm đều có
kèm theo phù não (12/14 bệnh nhân ‐ 85,7%).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 185
U màng não rãnh khứu có thể nằm ở đường
giữa hoặc lệch sang một bên. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, có 6/14 bệnh nhân (42,8%) có khối
u nằm ở chính giữa. 8 trường hợp còn lại (57,2%)
khối u chiếm ưu thế hơn ở một bên trán. Trong
các nghiên cứu trên thế giới, tỷ lệ khối u nằm
lệch sang một bên thường cao hơn so với khối u
nằm cân đối ở đường giữa. Nguyên nhân được
cho là do khối u khởi phát từ rãnh khứu một bên
nên thường không nằm cân đối ở đường giữa(4).
Chỉ có 5/14 bệnh nhân (35,7%) có các mạch
máu lớn ở nền sọ nằm trong u. Các mạch máu
này có thể động mạch não trước đoạn A1, thông
trước hoặc A2. U màng não rãnh khứu xuất phát
từ nền sọ trước, nên trong quá trình khối u phát
triển về kích thước, các tổ chức mạch máu, thần
kinh có xu hướng bị đẩy ra ngoài khối u. Chính
vì vậy tỷ lệ các mạch máu lớn nằm trong khối u
không cao.
Phương pháp phẫu thuật
Chúng tôi áp dụng đường mở sọ trán thái
dương một bên cho cả 14/14 trường hợp
(100%). Trong y văn có nhiều quan điểm khác
nhau về việc lựa chọn đường mổ. Tác giả
Aguiar (2009) lựa chọn đường mổ trán‐thái
dương một bên cho những khối u có kích
thước nhỏ hoặc trung bình, đường trán 2 bên
cho những khối u khổng lồ(4). Tuna (2004) thì
lựa chọn đường mổ trán‐thái dương một bên
cho những khối u nằm lệch sang một bên và
đường trán 2 bên cho những trường hợp nằm
cân đối ở đường giữa(4). Chúng tôi nhận thấy
rằng việc lựa chọn đường mổ trán‐thái dương
một bên không phụ thuộc vào kích thước cũng
như vị trí khối u. Với những khối u kích thước
lớn hoặc khổng lồ, việc làm giảm thể tích khối
u có thể thực hiện được dễ dàng bằng sử dụng
dao siêu âm (sonopet) hoặc dùng dao điện đơn
cực cắt từng phần nhỏ trong lòng khối u.
Chúng tôi kê tư thế đầu bệnh nhân nghiêng
45‐60 độ. Với tư thế đầu như vậy, việc thao tác
ở đường giữa cũng như sang phía nền sọ bên
đối diện cũng không gặp khó khăn.
Các thuận lợi của đường mở sọ trán‐thái dương
một bên
Cũng như nhận xét một số tác giả, chúng tôi
nhận thấy phẫu thuật lấy u màng não rãnh khứu
bằng đường mở sọ trán thái‐ dương một bên có
nhiều ưu điểm. Nổi bật nhất là việc bảo tổn được
hệ thống tĩnh mạch vùng trán và xoang tĩnh
mạch dọc trên, mà đường mở sọ trán hai bên
thường xuyên gặp phải. Ngoài ra, đường mở sọ
trán thái dương cho phép tiếp cận ngay từ đầu
hệ thống động mạch nền sọ. Theo Babu (1995),
mặc dù khối u có xu hướng đẩy các động mạch
ra ngoài(1). Tuy nhiên, trong một số trường hợp,
khối u vẫn phát triển vòng quanh các động
mạch. Việc tiếp cận ngay từ đầu giúp tránh làm
tổn thương các động mạch lớn trong quá trình
phẫu tích lấy u.
Với đường trán 2 bên, quá trình phẫu tích
lấy u bắt đầu trực tiếp từ nền sọ trán ở phía
trước. Trong giai đoạn cắt bỏ chỗ bám của khối
vào nền sọ trước, não còn phù nên cần phải
dùng van vén tổ chức não, có thể gây tổn thương
tổ chức não trán cả 2 bên. Ở đường mở sọ trán‐
thái dương một bên, phẫu thuật viên có thể hút
dịch não tủy để làm xẹp ở nền sọ. Việc mở khe
Sylvian ở phần sâu làm cho thùy trán được vén
ra một cách nhẹ nhàng, không gây đè ép nhiều
vào tổ chức não(1,2).
Một ưu điểm nữa của đường mở trán thái
dương một bên là khả năng bảo tồn được dây
thần kinh khứu một bên. Ở đường trán 2 bên,
trong quá trình cắt bỏ chỗ bám của khối u vào
nền sọ trước, thần kinh khứu cả 2 bên thường bị
tổn thương. Khối u thường phát triển từ rãnh
khứu một bên, thần kinh khứu bên đối diện
thường bị đẩy ra ngoài. Bằng cách phẫu tích lấy
u từ một bên, ở giai đoạn lấy u cuối cùng ở phía
bên đối diện, phẫu thuật viên có thể phẫu tích
phần còn lại của khối u ra khỏi thần kinh khứu(2).
Các hạn chế của đường mở sọ trán‐thái dương
một bên
Khối u màng não rãnh khứu xuất phát từ
đường giữa. Việc tiếp cận khối u từ bên cạnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 186
làm cho phẫu thuật viên không qua sát được
toàn diện khối u. Việc cắt phần bám của khối u
vào nền sọ tầng trước từ đầu cũng đồng nghĩa
với việc cắt toàn bộ nguồn cấp máu cho khối u.
Vì vậy, quá trình lấy từng phần khối u sau đó sẽ
ít chảy máu. Ngược lại, ở đường mở trán‐thái
dương một bên, phẫu thuật viên không thể cắt
bỏ các động mạch cấp máu cho khối u từ nền sọ
trán ngay từ đầu được(3,2).
Vì khối u phát triển từ nền sọ trước nên
trong quá trình cắt bỏ chỗ bám của khối u, phần
màng cứng ở phần nền sọ này có thể bị rách gây
rò dịch não tủy. Ở đường mở sọ trán 2 bên, phẫu
thuật viên có thể quan sát được trực diện chỗ
rách màng cứng để phục hồi ngay trong mổ.
Đây cũng chính là 1 hạn chế của đường mở trán‐
thái dương một bên(2).
Kết quả phẫu thuật
Chúng tôi đánh giá mức độ lấy hết u dựa
vào phân độ Simpson. Có 11/14 trường hợp
(78,6%) là Simpson 2. Chúng tôi để lại phần khối
u bám vào màng cứng phủ xoang sàng để tránh
gây rách màng cứng dẫn đến rò dịch não tủy.
Có 1 bệnh nhân có biến chứng viêm màng
não sau mổ. Bệnh nhân có xoang trán rất lớn
kèm theo viêm xoang trong thời gian phẫu
thuật. Bệnh nhân đã được điều trị khỏi bằng
kháng sinh liều cao. 1 bệnh nhân khác có biến
chứng rò dịch não tủy do rách màng cứng ở nền
sọ đã được điều trị bằng đặt dẫn lưu thắt lưng
trong vòng 5 ngày sau mổ. Không phát hiện biến
chứng phù não sau mổ nào trong cả 14 trường
hợp. Đây là ưu điểm nổi bật của đường mở sọ
trán‐thái dương so với đường mở trán 2 bên.
Kết quả sau mổ tốt (điểm Karnofsky 90‐100)
chiếm tỷ lệ cao: 13/14 bệnh nhân (92,9%). Các tác
giả khác cũng thông báo kết quả tương tự khi áp
dụng đường mở sọ 1 bên đối với u màng não
rãnh khứu(3,4).
KẾT LUẬN
Đường mở sọ trán‐thái dương một bên áp
dụng trong phẫu thuật u màng não rãnh khứu
có nhiều ưu điểm: Bảo tồn được hệ thống tĩnh
mạnh‐ xoang tĩnh mạch, kiểm soát được hệ
thống động mạch, thần kinh ở nền sọ, bảo tồn
được chức năng khứu giác của bệnh nhân. Kết
quả phẫu thuật tốt chiếm đa số.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Babu R., Barton A. (1995), “Resection of olfactory groove
meningiomas: Technical note revisited”, Surgical Neurology
44:567‐572.
2. De Aguiar P., Tahara A.(2009), “Olfactory groove meningiomas:
Approaches and complications”, Journal of Clinical
Neuroscience 16: 1168‐1173.
3. Tomasello F., Angileri F. (2011), “Giant olfactory groove
meningiomas: Extent of frontal lobe damage and longterm
outcome after pterional approach”, World Neurosurgery 76:
311‐317.
4. Tuna H., Bozkurt M. (2005), “Olfactory groove meningiomas”,
Journal of Clinical Neuroscience 12(6): 664‐668.
Ngày nhận bài báo: 20/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 2/11/2014
Ngày bài báo được đăng: 05/12/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_tri_phau_thuat_u_mang_nao_ranh_khuu_bang_duong_mo_so_tr.pdf