Điều trị phình động mạch chủ ngực bằng Stent phủ tại bệnh viện trường Đại học y Hà Nội: Nhân ba trường hợp
Ngoài tai biến tử vong, liệt tủy là tai biến trầm
trọng thứ hai có thể gặp phải. Tỉ lệ liệt tủy do tắc mạch
tủy vào khoảng 0 - 6% [9, 10]. Tai biến liệt tủy liên
quan đến bệnh lý động mạch, theo nghiên cứu của
nhóm Eurostar cho thấy, tỉ lệ liệt tủy ở nhóm BN phình
mạch là 4% trong khi tỉ lệ này ở nhóm BN bóc tách
thành mạch là 0,08% [9]. Ngoài ra chiều dài đoạn che
phủ của stent cũng liên quan đến liệt tủy, đặc biệt là khi
stent che phủ ĐMC xuống từ T9 đến L1 (là vùng xuất
phát thường gặp của động mạch tủy Adamkiewicz).
Ngược lại cũng có những báo cáo không thấy trường
hợp liệt tủy nào cả khi che phủ hoàn toàn ĐMC xuống
bởi stent phủ [10, 12, 14]. Các BN của chúng tôi stent
phủ thấp nhất đến bờ dưới thân đốt sống T12 cũng
không có tai biến liệt tủy. Cũng như tai biến tử vong, tỉ
lệ tai biến liệt tủy sau can thiệp luôn thấp hơn liệt tủy
sau phẫu thuật theo nghiên cứu đa trung tâm từ 5888
BN [2].
Rò stent (endoleak): rò stent là hiện tượng có
dòng chảy vào giữa stent và thành mạch. Tùy theo
nguyên nhân và hiện tượng này được chia làm 5 loại:
loại 1, dòng chảy qua vị trí tiếp xúc của stent với thành
mạch ở đầu gần hoặc đầu xa stent; loại 2, dòng chảy
trào ngược từ một nhánh bên của lòng mạch đã được
bịt bởi stent; loại 3, dòng chảy qua chỗ rách stent;
loại 4, dòng chảy qua các vi lỗ của stent; loại 5, dòng
chảy gây biến dạng stent tạo nên một phình mạch
mới. Trong các loại trên thì rò stent loại 1 và 3 coi như
thủ thuật thất bại và có chỉ định điều trị cấp cứu [1].
Nguyên nhân của rò có thể do không tương xứng kích
thước stent với lòng mạch khi chọn stent hoặc biến đổi
hình thái mạch máu sau đặt stent. Nhìn chung, biến
chứng này ít gặp ở stent ĐMC ngực hơn so với stent
ĐMC bụng dưới thận.
Ngoài ra, một số biến chứng liên quan đến đặt
stent được mô tả như suy thận do dùng nhiều thuốc
cản quang, rách nội mạc động mạch chậu, đùi do kích
thước dụng cụ đẩy stent, mất máu trong can thiệp
Các tai biến này có thể dự phòng và điều trị mà không
ảnh hưởng đến chức năng sống của BN.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 27 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị phình động mạch chủ ngực bằng Stent phủ tại bệnh viện trường Đại học y Hà Nội: Nhân ba trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012220
nghiÊn CỨU KhoA hỌC
SCientiFiC reSeArCh
SUMMARy
ĐIỀU TRỊ PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC
BẰNG STENT PHỦ TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI: NHÂN BA TRƯỜNG HỢP
thoracic endovascular aortic repair (teVAr) for the
descending thoracic aortic aneurysm at the hanoi
Medical University hospital:report three cases
Nguyễn Ngọc Cương*, Lê Tuấn Linh*, Bùi Văn Lệnh*,
Lê Văn Tú**,
Nguyễn Lân Hiếu**, Nguyễn Hữu Tú ***
*Khoa Chẩn đoán hình ảnh -
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
** Trung tâm Tim mạch can
thiệp - Bệnh viện Đại học Y
Hà Nội
*** Khoa Gây mê hồi sức -
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Thoracic aortic aneurysm is a life threatening condition that
needs to be treated urgently. Thoracic endovascular aortic repair
(TEVAR) for the descending thoracic aortic aneurysm was first
reported by Dake et al in 1994 [4]. The advent of TEVAR was
clinically relevant because descending thoracic disease repair had
long been associated with operative mortality rates. The favorable
results of TEVAR with reduction of operative mortality have led it
to be used worldwide. Up to now, TEVAR has been initially used
in Viet Nam. We report three cases with descending thoracic aorta
aneurysms that were successfully treated by endovascular stent
graft in HaNoi medical university hospital.
Keywords: Thoracic aneurysm, stent graft, TEVAR.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 221
nghiên CỨU KHoa HỌC
i. đẶt VẤn đỀ
Phình động mạch chủ (ĐMC) ngực là bệnh lý nguy
hiểm đến tính mạng. Triệu chứng thường do sự chèn ép
của khối phình vào các cơ quan trong ngực, sự phồng
căng của thành túi phình và vỡ phình mạch. Vỡ phình
mạch chủ ngực thường dẫn tới tử vong rất nhanh.
Phương pháp điều trị phình ĐMC ngực truyền thống
là phẫu thuật thay thế phình mạch bằng đoạn mạch nhân
tạo. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong phẫu thuật và gây
mê hồi sức nhưng đây vẫn là phương pháp điều trị khó
khăn với tỉ lệ tử vong liên quan đến phẫu thuật cao 20 –
30% theo một số nghiên cứu ở Mĩ [3, 15].
Điều trị phình ĐMC ngực qua đường nội mạch sử
dụng giá đỡ có màng bọc (stent phủ) được mô tả lần
đầu tiên bởi Dake và cộng sự năm 1994 [4]. Những
nghiên cứu sau đó đã chứng tỏ ưu điểm của phương
pháp điều trị nội mạch như giảm tỉ lệ tàn tật, tử vong so
với phẫu thuật [6, 11, 13]. Phương pháp này ngày càng
được áp dụng phổ biến ở các nước trên thế giới thay
thế phương pháp phẫu thuật và bắt đầu được thực hiện
ở Việt Nam trong những năm gần đây. Chúng tôi báo
cáo ba trường hợp phình ĐMC ngực được điều trị bằng
đặt stent phủ tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
Bệnh nhân 1
Bệnh nhân (BN) nam, 55 tuổi, tiền sử điều trị viêm
mạch 5 năm nay, vào viện vì đau ngực. Triệu chứng
bệnh biểu hiện từ trước ngày vào viện 1 tuần. Trên
phim chụp cắt lớp vi tính thấy có hình ảnh phình hình
túi ĐMC xuống. Túi phình kích thước dài 84 mm, rộng
65 mm có huyết khối bám thành, chèn ép vào các thành
phần trong trung thất như phế quản gốc trái, tĩnh mạch
chủ dưới, các tĩnh mạch phổi (hình 1). Ngoài ra có
một túi phình nhỏ dưới động mạch thận kích thước túi
phình 35 x 30 mm. Chẩn đoán giả phình ĐMC ngực và
ĐMC bụng dưới động mạch thận do viêm mạch. Trong
đó, túi phình ĐMC ngực có dấu hiệu dọa vỡ và chèn ép
các thành phần trung thất.
A B
hình 1. Túi phình ĐMC xuống chèn ép vào tĩnh mạch phổi (A) và các
thành phần khác của trung thất như phế quản, ĐMC xuống, tĩnh mạch chủ trên (B)
Chỉ định điều trị túi phình ĐMC ngực được đặt ra.
Đường kính lòng mạch phía trên và dưới chỗ phình ĐMC
ngực tương đối đồng đều 23,4 – 24,7 mm không xơ vữa
vôi hóa; cực dưới túi phình cách động mạch thân tạng
30 mm, chiều dài cổ túi phình 33,4 mm. Từ đặc điểm giải
phẫu túi phình trên, BN được chọn 1 stent phủ đường
kính 28 mm, dài 150 mm che phủ cổ túi phình từ vị trí D7
đến D12; đầu dưới stent ngay trên động mạch thân tạng.
Do có hẹp nhẹ ở gốc động mạch chậu chung phải nên
đường vào của stent đi từ động mạch đùi chung trái. Kết
quả chụp kiểm tra sau mở stent không còn dòng chảy
vào túi phình, không tắc động mạch thân tạng (hình 2).
BN ra viện sau 5 ngày và được khám lại sau 1 tháng.
Kết quả không còn triệu chứng đau tức ngực, chụp cắt
lớp kiểm tra lại không còn dòng chảy vào túi phình. Kích
thước túi phình giảm đáng kể (hình 3). Riêng túi phình
ĐMC bụng dưới động mạch thận không có triệu chứng
và kích thước nhỏ chưa có chỉ định điều trị.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012222
nghiên CỨU KHoa HỌC
A
B
hình 4. Kích thước đoạn phình mạch. A) đường kính chỗ phình lớn nhất.
B) khoảng cách cổ túi phình dự định che phủ bằng stent (landing zone).
Động mạch dưới đòn trái dự kiến phải gây tắc để có đủ chiều dài đầu gần stent.
A B C
hình 2. Phim chụp mạch chủ xuống trước và sau đặt Stent. A) hình ảnh thuốc cản quang vào
túi phình (mũi tên); B) Stent phủ qua cổ túi phình; C) chụp kiểm tra sau đặt stent không thấy túi
phình, động mạch thân tạng thông bình thường (mũi tên)
hình 3. Phim chụp
kiểm tra sau 1 tháng,
túi phình ĐMC xuống
được loại trừ hoàn
toàn. Không tắc động
mạch thân tạng.
Bệnh nhân 2
BN nam, 60 tuổi có tiền sử tăng huyết áp không
điều trị thường xuyên. BN đã được mổ phình ĐMC
bụng được 2 tháng. Phình ĐMC ngực được phát hiện
cùng thời điểm với túi phình ĐMC bụng. Trên phim
chụp cắt lớp vi tính thấy phình ĐMC xuống hình thoi,
kích thước chỗ phình to nhất 56 mm (hình 4), đường
kính đoạn gần 42 mm, đường kính đoạn xa 29 mm. Cổ
đoạn phình nằm cách gốc động mạch dưới đòn trái 6
mm. Toàn bộ chiều dài đoạn phình 238 mm. Tình trạng
ĐMC bụng sau mổ ổn định. BN được đặt 2 stent 46/42
x 160 mm và 42/38 mm x 160 mm từ trên xuống.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 223
nghiên CỨU KHoa HỌC
A
B
hình 5. Phim chụp mạch trước (A) và sau đặt stent (B). Có thể thấy động mạch dưới đòn trái cùng
thì với ĐMC nhưng đậm độ cản quang kém hơn do động mạch dưới đòn trái bị che phủ một phần.
Không còn dòng chảy vào phình mạch.
hình 6. Chụp cắt lớp vi tính
kiểm tra sau 1 tháng. Phim
tái tạo MIP theo hướng đứng
dọc. Không còn dòng chảy
vào túi phình, stent nở tốt
theo hình thái lòng mạch.
Bệnh nhân 3
Nam, 85 tuổi, tiền sử khỏe mạnh, đi khám bệnh vì
khàn tiếng. Triệu chứng xuất hiện trước ngày vào viện 1
tháng. Sau khi khám tai mũi họng loại trừ bệnh lý vòm,
nhưng có liệt dây thanh âm bên trái. BN được chụp cắt
lớp vi tính ngực phát hiện phình mạch. Phim chụp cắt
lớp vi tính cho thấy, phình ĐMC xuống hình túi ngay sau
gốc động mạch dưới đòn trái, túi phình lồi xuống mặt
dưới quai ĐMC vị trí đường đi của dây thần kinh thanh
quản quặt ngược bên trái. Đường kính chỗ phình lớn
nhất 55 mm, đường kính ĐMC ở cổ túi phình 31 mm,
đường kính ĐMC xuống 26 mm, khoảng cách từ động
mạch cảnh gốc trái đến cổ túi phình 17 mm. BN được
chỉ định đặt stent đường kính 36 mm, dài 160 mm.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012224
nghiên CỨU KHoa HỌC
hình 7. Phim chụp cắt lớp vi tính thì động mạch qua ĐMC ngực. A) phình hình túi quai ĐMC
sau gốc động mạch dưới đòn trái. B) thành mạch bệnh lý xơ vữa có ổ loét mảng xơ vữa.
A B
hình 8. Phim chụp mạch trước
và sau đặt stent. A) túi phình
mặt dưới cung ĐMC gây liệt
dây thần kinh thanh quản trái.
B) sau đặt stent không còn
dòng chảy vào túi phình, động
mạch dưới đòn trái còn dòng
chảy bình thường.
hình 9. Phim chụp cắt lớp
vi tính kiểm tra sau 2 tuần.
Không còn dòng chảy vào
túi phình, túi phình giảm
kích thước so với trước
điều trị. Stent nở tốt theo
hình thái cung ĐMC.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 225
nghiên CỨU KHoa HỌC
ii. Bàn LUận
Về chỉ định đặt stent ĐMC ngực: Điều trị bệnh lý
ĐMC ngực bằng stent phủ là một kĩ thuật mới được
áp dụng trên thế giới. Phương pháp này tỏ ra ưu thế
hơn phẫu thuật khi tỉ lệ tử vong liên quan đến can
thiệp nội mạch thấp hơn so với điều trị phẫu thuật [6,
7], nhất là trường hợp BN có các bệnh lý tim mạch,
đái đường kèm theo hoặc BN trong tình trạng cấp
cứu. Về mặt kĩ thuật, tỉ lệ thành công của đặt stent
đường nội mạch tới 98% trong khi tỉ lệ tử vong sớm
thấp hơn nhiều so với tỉ lệ tử vong của phẫu thuật
[2, 8]. Chỉ định điều trị của stent ĐMC giống với các
chỉ định phẫu thuật gồm: phình ĐMC với đường kính
đoạn phình ≥ 5,5 cm hoặc tăng kích thước ĐMC hơn
1 cm trong vòng 1 năm theo dõi; chấn thương ĐMC;
bóc tách thành ĐMC týp B Stanford; loét mảng xơ vữa
đường kính trên 2 cm [5]. Trong trường hợp bệnh lý
liên quan đến ĐMC lên (bóc tách thành ĐMC týp A
Stanford) thì kết hợp phẫu thuật tạo cầu nối và đặt
stent đường nội mạch nên được chỉ định nhằm hạn
chế một cuộc mổ lớn cho BN [5].
Tai biến có thể gặp trong và sau can thiệp: nguy
hiểm nhất của điều trị là tử vong sớm trong và sau can
thiệp. Nguyên nhân có thể do nhồi máu cơ tim, tắc
mạch não, suy hô hấp, vỡ mạch do stent không che
phủ hết đoạn phình hoặc bóc tách, di chuyển stent. Tỉ
lệ tai biến tăng cao ở nhóm BN trong tình trạng cấp như
dọa vỡ, bóc tách thành mạch cấp. Theo một số nghiên
cứu ở châu Âu, tỉ lệ tử vong của BN can thiệp có chuẩn
bị từ 0 - 4,9% trong khi tỉ lệ này ở những BN can thiệp
mạch cấp 9 - 18% [2, 9, 10]. Tuy nhiên tỉ lệ tử vong sớm
trong vòng 30 ngày của điều trị can thiệp nội mạch vẫn
thấp hơn điều trị phẫu thuật, kết luận này được báo
cáo từ một nghiên cứu trên 5888 BN ở châu Âu, Mĩ và
Canada năm 2010 [2].
Ngoài tai biến tử vong, liệt tủy là tai biến trầm
trọng thứ hai có thể gặp phải. Tỉ lệ liệt tủy do tắc mạch
tủy vào khoảng 0 - 6% [9, 10]. Tai biến liệt tủy liên
quan đến bệnh lý động mạch, theo nghiên cứu của
nhóm Eurostar cho thấy, tỉ lệ liệt tủy ở nhóm BN phình
mạch là 4% trong khi tỉ lệ này ở nhóm BN bóc tách
thành mạch là 0,08% [9]. Ngoài ra chiều dài đoạn che
phủ của stent cũng liên quan đến liệt tủy, đặc biệt là khi
stent che phủ ĐMC xuống từ T9 đến L1 (là vùng xuất
phát thường gặp của động mạch tủy Adamkiewicz).
Ngược lại cũng có những báo cáo không thấy trường
hợp liệt tủy nào cả khi che phủ hoàn toàn ĐMC xuống
bởi stent phủ [10, 12, 14]. Các BN của chúng tôi stent
phủ thấp nhất đến bờ dưới thân đốt sống T12 cũng
không có tai biến liệt tủy. Cũng như tai biến tử vong, tỉ
lệ tai biến liệt tủy sau can thiệp luôn thấp hơn liệt tủy
sau phẫu thuật theo nghiên cứu đa trung tâm từ 5888
BN [2].
Rò stent (endoleak): rò stent là hiện tượng có
dòng chảy vào giữa stent và thành mạch. Tùy theo
nguyên nhân và hiện tượng này được chia làm 5 loại:
loại 1, dòng chảy qua vị trí tiếp xúc của stent với thành
mạch ở đầu gần hoặc đầu xa stent; loại 2, dòng chảy
trào ngược từ một nhánh bên của lòng mạch đã được
bịt bởi stent; loại 3, dòng chảy qua chỗ rách stent;
loại 4, dòng chảy qua các vi lỗ của stent; loại 5, dòng
chảy gây biến dạng stent tạo nên một phình mạch
mới. Trong các loại trên thì rò stent loại 1 và 3 coi như
thủ thuật thất bại và có chỉ định điều trị cấp cứu [1].
Nguyên nhân của rò có thể do không tương xứng kích
thước stent với lòng mạch khi chọn stent hoặc biến đổi
hình thái mạch máu sau đặt stent. Nhìn chung, biến
chứng này ít gặp ở stent ĐMC ngực hơn so với stent
ĐMC bụng dưới thận.
Ngoài ra, một số biến chứng liên quan đến đặt
stent được mô tả như suy thận do dùng nhiều thuốc
cản quang, rách nội mạc động mạch chậu, đùi do kích
thước dụng cụ đẩy stent, mất máu trong can thiệp
Các tai biến này có thể dự phòng và điều trị mà không
ảnh hưởng đến chức năng sống của BN.
iii. KẾt LUận
Điều trị phình ĐMC ngực bằng can thiệp nội mạch
là một phương pháp có hiệu quả và an toàn. Nhược
điểm của phương pháp này là giá thành còn cao, song
cùng với sự phát triển về kinh tế, khoa học kĩ thuật,
phương pháp này nên là sự lựa chọn cho các BN bệnh
lý ĐMC ngực, nhất là trường hợp bệnh lý cấp, BN cao
tuổi mắc các bệnh lý nội khoa kèm theo.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012226
nghiên CỨU KHoa HỌC
1. Cao, P., et al. (2010), “Endoleak after
endovascular aortic repair: classfication, diagno sis
and management following endovascular thoracic and
abdominal aortic repair”. J Cardiovasc Surg (Torino).
51(1): p. 53-69.
2. Cheng, D., et al. (2010), “Endovascular aortic
repair versus open surgical repair for descending
thoracic aortic disease a systematic review and meta-
analysis of comparative studies”. J Am Coll Cardiol.
55(10): p. 986-1001.
3. Cowan, J.A., Jr., et al. (2003), “Surgical treatment
of intact thoracoabdominal aortic aneurysms in the
United States: hospital and surgeon volume-related
outcomes”. J Vasc Surg. 37(6): p. 1169-74.
4. Dake, M.D., et al. (1994), “Transluminal
placement of endovascular stent-grafts for the treatment
of descending thoracic aortic aneurysms”. N Engl J
Med. 331(26): p. 1729-34.
5. Garzon, G., et al. (2005), “Endovascular
stent-graft treatment of thoracic aortic disease”.
Radiographics. 25 Suppl 1: p. S229-44.
6. Goodney, P.P., et al. (2011), “Survival after open
versus endovascular thoracic aortic aneurysm repair
in an observational study of the Medicare population”.
Circulation. 124(24): p. 2661-9.
7. Hormann, M., et al. (2011), “Long-term
results of endovascular aortic repair for thoracic
pseudoaneurysms after previous surgical coarctation
repair”. Interact Cardiovasc Thorac Surg. 13(4): p.
401-4.
8. Kim, J.T., et al. (2011), “Thoracic EndoVascular
Stent Graft Repair for Aortic Aneurysm”. Korean J
Thorac Cardiovasc Surg. 44(2): p. 148-53.
9. Leurs, L.J., et al. (2004), “Endovascular
treatment of thoracic aortic diseases: combined
experience from the EUROSTAR and United Kingdom
Thoracic Endograft registries”. J Vasc Surg. 40(4): p.
670-9; discussion 679-80.
10. Matsagkas, M.I., et al. (2011), “Stenting of the
descending thoracic aorta: a six-year single-center
experience”. Interact Cardiovasc Thorac Surg. 12(5): p.
789-93.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÓM TẮT
Phình ĐMC ngực là tổn thương đe dọa cuộc sống cần điều trị cấp cứu. Dake và CS 1994 đã điều trị nội mạch
cho phình ĐMC xuống. Phương pháp được lâm sàng công nhận vì mổ có tỉ lệ tử vong. Với kết quả khả quan phương
pháp này đã được áp dụng rộng rãi vì giảm được tỉ lệ tử vong do mổ. Đến nay, phương pháp đã được áp dụng ở
Việt Nam. Chúng tôi báo cáo 3 trường hợp phình ĐMC xuống đã điều trị thành công bằng stent phủ ở Bệnh viện
Đại học Y Hà Nội.
NGƯỜI THẩM ĐỊNH: PGS.TS Phạm Minh Thông
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dieu_tri_phinh_dong_mach_chu_nguc_bang_stent_phu_tai_benh_vi.pdf