Điều trị sỏi niệu quản đoạn lưng và sỏi bể thận qua nội soi một vết mổ sau phúc mạc vùng hông lưng

Triển vọng của LESS sau phúc mạc Nội soi một vết mổ sau phúc mạc lấy sạn niệu quản-bể thận là bước khởi đầu để tiến tới thực hiện những phẫu thuật phúc tạp hơn như kinh nghiệm của chúng tôi đã chỉ ra trong phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tiêu chuẩn với 3 trocart(3). Micali(7) báo cáo 11 trường hợp nội soi sau phúc mạc một vết mổ mở niệu quản lấy sạn (3 bệnh nhân, với 1 bệnh nhân phải chuyển mổ mở), cắt chóp nang thận (4 bệnh nhân), sinh thiết thận (4 bệnh nhân). Cũng như chúng tôi, ông cho rằng dụng cụ phẫu thuật cong không thích hợp cho nội soi một vết mổ vùng sau phúc mạc. Ryu(8) thực hiện được những phẫu thuật lớn hơn. Trong 14 bệnh nhân nội soi một vết mổ sau phúc mạc dùng dụng cụ banh vết thương Alexis làm port đa kênh: 5 bệnh nhân cắt chóp nang thận, 2 bệnh nhân cắt tuyến thượng thận, 2 bệnh nhân cắt thận-niệu quản, 3 bệnh nhân cắt thận, 2 bệnh nhân mở niệu quản lấy sạn. Thời gian mổ và lượng máu mất trung bình trong cắt chóp nang thận là 56 phút (45-70) và 179 mL (22-398). Thời gian mổ và lượng máu mất trung bình trong phẫu thuật cắt bỏ và tạo hình là 156 phút (115-21) và 403 mL (35-1324). Thời gian nằm viện trung bình là 6,5 ngày (4-14), không có biến chứng trong mổ quan trọng. KẾT LUẬN Nội soi một vết mổ sau phúc mạc vùng hông lưng lấy sạn niệu quản và sạn bể thận bước đầu cho kết quả đáng khích lệ với biến chứng bằng không, việc chỉ có một trường hợp chuyển qua nội soi tiêu chuẩn cho thấy tính khả thi cao của kỹ thuật này. So với nội soi sau phúc mạc tiêu chuẩn, kỹ thuật này có kết quả tương đương nhưng có kết quả thẩm mỹ cao hơn vì chỉ có một vết rạch da.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 61 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị sỏi niệu quản đoạn lưng và sỏi bể thận qua nội soi một vết mổ sau phúc mạc vùng hông lưng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận – Niệu 117 ĐIỀU TRỊ SỎI NIỆU QUẢN ĐOẠN LƯNG VÀ SỎI BỂ THẬN QUA NỘI SOI MỘT VẾT MỔ SAU PHÚC MẠC VÙNG HÔNG LƯNG Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Đỗ Lệnh Hùng*, Nguyễn Triết* TÓM TẮT Đặt vấn đề và mục tiêu: Báo cáo và đánh giá tính khả thi, độ an toàn của phẫu thuật nội soi một vết mổ sau phúc mạc vùng hông lưng (Retroperitoneal LaparoEndoscopic Single-Site) mở niệu quản và mở bể thận lấy sạn lần đầu tiên thực hiện tại bệnh viện Bình Dân Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: Trình bày 10 trường hợp mổ mở bể thận, mở niệu quản vùng hông lưng lấy sạn qua nội soi một vết mổ sau phúc mạc ở vùng hông lưng thực hiện tại Khoa Niệu B bệnh viện Bình Dân từ 5/2014 đến 4/2015. Bệnh nhân nằm ở tư thế mổ thận cổ điển. Rạch da dài 1,5 cm ngay dưới xương sườn hay ngay đầu xương sườn 12 trên đường nách sau, cắt mở cân cơ lưng tối thiểu qua đường rạch da này (mini- lumbotomy). Dùng ngón tay và bong bóng bơm hơi bóc tách vùng sau phúc mạc, ngoài cân Gerota. Đặt trocart đa kênh chuyên dụng loại X-cone® (Storz) vào đường mở lưng nhỏ này. Bơm hơi CO2 sau phúc mạc, áp lưc 12 mmHg. Nội soi sau phúc mạc bằng ống soi 5 mm chuyên dụng. Dùng dụng cụ phẫu thuật thẳng xẻ cân Gerota, phẫu tích niệu quản lưng hoặc từ niệu quản lên bể thận chỗ có sạn. Mở niệu quản bằng móc điện, nạy sạn ra, đặt thông niệu quản lưu, khâu lại niệu quản bằng mũi khâu vắt. Rút port X-cones ra, gắp sạn ra ngoài, đặt ống dẫn lưu vùng mổ qua vết mở lưng, khâu vết mổ. Đánh giá kết quả phẫu thuật và dữ liệu được thu thập trong và sau cuộc mổ. Kết quả: Có 8 bệnh nhân nam và 2 bệnh nhân nữ. Mười bệnh nhân với 11 viên sạn với một bệnh nhân có hai viên sạn cùng bên. Tuổi trung bình: 42,9 (25-55). ASA trước mổ: I: 2/10, II: 8/10. Sạn niệu quản: 7/10 (Trái: 5/7, Phải:2/7), Sạn bể thận (khúc nối): 3/10 (Trái: 2/3, Phải: 1/3). Kích thước sạn trung bình: 19 mm (15-32). Trên phim UIV hoặc MSCT có tiêm cản quang: Thận ứ nước độ II: 4/10, Thận ứ nước độ III: 6/10, Chức năng thận tốt: 10/10. Thời gian mổ trung bình: 97,2 phút (70-150). Lượng máu mất trung bình: 23,8 mL (15-70). Đặt thông niệu quản lưu: 9/10, một trường hợp không đặt được thông niệu quản lưu vì nghẹt ở niệu quản sát bàng quang. Một trường hợp chuyển sang nội soi tiêu chuẩn với 3 trocart. Thời gian mang ống dẫn lưu: 3,77 ngày (2- 6). Thời gian nằm viện sau mổ: 4,22 ngày (3-6). Không có biến chứng sau mổ. Một trường hợp ống dẫn lưu ra dịch đến ngày hậu phẫu 6. Đau sau mổ ít: 7/9, đau sau mổ trung bình 2/9. Kết luận: Nội soi một vết mổ sau phúc mạc vùng hông lưng lấy sạn niệu quản và sạn bể thận bước đầu cho kết quả đáng khích lệ với biến chứng bằng không. Việc chỉ có một trường hợp chuyển qua nội soi tiêu chuẩn cho thấy tính khả thi cao của kỹ thuật này. So với nội soi sau phúc mạc tiêu chuẩn, kỹ thuật này có kết quả tương đương nhưng có kết quả thẩm mỹ cao hơn vì chỉ có một vết rạch da. Từ khóa: Nội soi ổ bụng một vết mổ, Nội soi sau phúc mạc, Mở niệu quản lấy sạn, Mở bể thận lấy sạn ABSTRACT RETROPERITONEAL LAPAROENDOSCOPIC SINGLE-SITE URETEROLITHOTOMY AND PYELOLITHOTOMY: ONE CENTRE INITIAL EXPERIENCE Nguyen Phuc Cam Hoang, Do Lenh Hung, Nguyen Triet * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 117 - 123 Objective: To report and to assess the feasibility, the safety of the Retroperitoneal Laparoendoscopic single- * Bệnh viện Bình Dân Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng ĐT: 0913719346 Email: npchoang@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Chuyên Đề Thận – Niệu 118 site ureterolithotomy and pyelolithotomy initially performed at Binh Dan hospital. Materials and methods: We report 10 cases of retroperitoneal laparoendoscopic single-site ureterolithotomy and pyelolithotomy performed at the Department of Urology of Binh Dan hospital fro May 2014 to April 2015. The patient was placed at the lateral nephrolithotomy position. Skin incision of 1.5 cm at the tip or right below the tip of the 12th rib in the posterior axillary line, and a minilumbotomy performed. The working space was created using digital and balloon dissection, outside the Gerota’s fascia. The multichannel port X-cone® (Storz) was inserted to this miniscule lumbotomy. Retroperitoneal insufflation of CO2 gaz at 12 mmHg. Retroperitoneal laparoscopy performed using a long 5 mm laparoscope. The standard (straight) instruments were used to incise the Gerota’s fascia and to dissect the proximal ureter up to the renal pelvis at the stone site. Incision of ureter using the electrical hook, stone leverage, placement of a ureteral stent, and ureteral closure using a running suture. Removal of port X-cone®, stone retrieval, placement of a drain through the minilumbotomy, and closure of the latter. Assess the operative outcomes and intraoperative and postoperative data collected. Results: There were 8 male and 2 female patients. Ten patients having 11 stones with one patient having 2 stones. Mean age: 42.9 (range 25-55). Preoperative ASA: ASA I: 2/10, ASA II: 8/10. Ureterolithotomy: 7/10 (Left side: 5/7, Right side:2/7), Pyelolithotomy 3/10 (Left side: 2/3, Right side: 1/3). Mean stone size: 19mm (range 15- 32). On preop. IVP/MSCT: Moderate hydronephrosis: 4/10, Severe hydronephrosis: 6/10, Good renal function: 10/10. Mean operative time: 97.2 minutes (range 70-150). Mean estimated blood loss: 23.8 mL (range 15-70). Ureteral stenting: 9/10 cases, in one case placement of ureteral stent was impossible due to mild distal ureteric stricture. One conversion to standard laparoscopy. Drain removal at 3.77 days postop. (Range 2-6). Postoperative hospital stay: 4.22 days (range 3-6). There were no postoperative complications. One case with urine leakage through the drain until day 6 postop. Mild postoperative pain: 7/9, moderate postoperative pain: 2/9. Conclusion: Retroperitoneal Laparoendoscopic Single-site ureterolithotomy and pyelolithotomy in our center had initial encouraging outcomes without any complications. The only one conversion to standard laparoscopy revealed the high feasibility of this technique. Compared to standard laparoscopy, this technique has similar outcomes but with better cosmetic outcomes due to the only one skin incision. Key words: Laparoendoscopic Single-Site Surgery - LESS, Retroperitoneal Laparoscopy, Ureterolithotomy, Pyelolithotomy ĐẶT VẤN ĐỀ Nội soi sau phúc mạc và nội soi ổ bụng một vết mổ có những lợi điểm rất rõ ràng. Bài báo cáo này đánh giá tính khả thi, độ an toàn của phẫu thuật nội soi một vết mổ sau phúc mạc vùng hông lưng (Retroperitoneal Laparo Endoscopic Single-Site Surgery) mở niệu quản và mở bể thận lấy sạn lần đầu tiên thực hiện tại bệnh viện Bình Dân trong thời gian vừa qua. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Bệnh nhân sạn niệu quản vùng lưng hay sạn bể thận (khúc nối) có kích thước sạn ≥ 15 mm, tối đa hai viên sạn cùng một bên, thận còn bài tiết trên phim UIV (Hình 1) hoặc MSCT có tiêm cản quang. (Hình 2) được áp dụng kỹ thuật này. Tiêu chuẩn loại trừ là những bệnh nhân đã phẫu thuật thận cùng bên hoặc những bệnh nhân có chống chỉ định phẫu thuật nội soi ổ bụng cổ điển. Hình 1. Sạn khúc nối bể thận-niệu quản trên UIV Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận – Niệu 119 Hình 2. Sạn niệu quản lưng trên MSCT Phương pháp nghiên cứu Dụng cụ phẫu thuật Port: chúng tôi dùng trocart đa kênh chuyên dụng loại X-cone® (Storz) (Hình 3). Loại port này có phần hình nón bằng hai mảnh ghép bằng kim loại bên dưới và phần nắp nhựa bên trên qua đó có các kênh thao tác cho dụng cụ phẫu tích. Hình 3. Port X-cone (Storz) Hình 4. Đặt port ở vùng hông lưng Hình 5. Port X-cone vùng hông lưng Hình 6. Ống soi 5,5 mm, extra long (Storz) Kỹ thuật đặt port (Hình 4,5) Bệnh nhân nằm nghiêng tư thế mổ thận cổ điển như trong nội soi sau phúc mạc cổ điển dùng 3 trocart. Rạch da dài 1,5 cm ngay dưới xương sườn hay ngay đầu xương sườn 12 trên đường nách sau, cắt mở cân cơ lưng tối thiểu qua đường rạch da này (mini-lumbotomy). Dùng ngón tay và bong bóng bơm hơi bóc tách vùng sau phúc mạc, ngoài cân Gerota. Đặt trocart đa kênh chuyên dụng loại X-cone® (Storz) vào đường mở lưng nhỏ này: đặt phần hai nửa hình nón bằng kim loại trước, đóng nắp nhựa lên trên sau. Bơm hơi CO2 sau phúc mạc, áp lưc 12 mmHg. Phẫu tích và lấy sạn (Hình 7,8) Nội soi sau phúc mạc vùng hông lưng, xẻ cân Gerota, phẫu tích niệu quản hay bể thận chỗ sạn nằm. Cắt mở niệu quản hay bể thận bằng móc điện, nạy sạn bằng dụng cụ (spatula), đặt thông niệu quản lưu bằng một thông oxy số 8. Khâu lại niệu quản bằng mũi khâu vắt dùng chỉ vicryl 4-0, với sợi chỉ đã được làm gút ở một đầu chỉ từ trước. Ở mũi khâu cuối sẽ làm gút bằng một kẹp hem-o-lok kẹp vào đầu chỉ. Lấy sạn ra ngoài qua trocart, rút trocart. Hút hay lau sạch vùng mổ trước khi đặt một ống dẫn lưu vào vùng mổ. Khâu lỗ trocart và cố định ống thông. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Chuyên Đề Thận – Niệu 120 A B Hình 7. Phẫu tích vùng sau phúc mạc Hình 8. Khâu đóng vết trocart KẾT QUẢ Từ tháng 5/2014 đến tháng 4/2015 có 10 bệnh nhân với 11 viên sạn (một bệnh nhân có 2 viên sạn cùng bên) được mổ nội soi hông lưng một vết mổ. Nam: 8 / 10 Nữ: 2 / 10. Tuổi trung bình: 42,9 (25-55). ASA I: 2 / 10 ASA II: 8 / 10. Bệnh lý sạn: Sạn niệu quản lưng: 7 / 10 (Trái: 5/7, Phải: 2/7). Sạn bể thận (khúc nối): 3 / 10 (Trái: 2/3, Phải: 1/3). Kích thước sạn trung bình: 19 mm (15 - 32). Trên UIV / MSCT: Thận ứ nước độ II: 4/10, Thận ứ nước độ III: 6/10, Chức năng thận tốt: 10/10. Thời gian mổ: 97,2 phút (70-150). Máu mất: 23,8 mL (15-70). Đặt thông niệu quản lưu: 9/10, một trường hợp không đặt được thông niệu quản lưu vì nghẹt ở niệu quản sát bàng quang. Chuyển sang nội soi tiêu chuẩn (3 trocart): 1 TH vì mỡ quanh thận nhiều, không tìm thấy niệu quản. Không có TH nào phải đặt thêm một trocart phụ. Rút ống dẫn lưu: 3,77 ngày (2 - 6). Nằm viện sau mổ: 4,22 ngày (3 - 6). Biến chứng sau mổ: Không. Một trường hợp ống dẫn lưu ra dịch đến ngày hậu phẫu 6. Đau sau mổ (trừ một TH chuyển sang nội soi tiêu chuẩn): Ít: 7 / 9; Trung bình: 2 / 9. BÀN LUẬN Tại sao phẫu thuật nội soi một vết mổ sau phúc mạc lấy sạn? Đối với sạn bể thận (khúc nối) và sạn niệu quản lớn, khảm chúng tôi thường nội soi sau phúc mạc với 3 trocart(1,4,6). Thời gian gần đây hơn, chúng tôi ứng dụng nội soi một vết mổ với trocart đa kênh chuyên dụng đặt ở rốn, nội soi trong phúc mạc mở niệu quản lấy sạn(5,10). Nội soi 3 trocart vùng sau phúc mạc có thể là quá nhiều trocart, còn nội soi một vết mổ ở rốn lấy sạn niệu quản có nhược điểm là mổ qua phúc mạc. Nếu nội Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận – Niệu 121 soi sau phúc mạc với một trocart sẽ khắc phục được những nhược điểm của hai kiểu nội soi trước. Đặc tính port X-cone® (Storz) Là một trocart đa kênh chuyên dụng Ưu điểm: có thể dùng lại nhiều lần nên giá thành thấp hẳn so với các loại port chuyên dụng trong nội soi một vết mổ khác, phần nắp nhựa có thể thay mới dễ dàng, các phụ liệu như nắp các kênh thao tác cũng thay dễ dàng, chi phí thấp. Nhược điểm: phần hình nón kim loạt cản trở thao tác bắt chéo dụng cụ, làm cho động tác này không có biên độ lớn được. Kinh nghiệm của chúng tôi với SILS Port™ (Covidien)(5,10) với thao tác tự do hơn cho thấy đây là nhược điểm chính của X-cone®. Các khó khăn trong thao tác kỹ thuật Việc tạo khoang sau phúc mạc cần tận dụng triệt để ngón tay bóc tách và bong bóng bóc tách vì không thể dùng ống soi đẩy vén tạo khoang như trong nội soi tiêu chuẩn với 3 trocart. Trong nội soi một vết mổ vùng sau phúc mạc, phải tận dụng việc bắt chéo dụng cụ (instrument crossing) để phẫu tích. Bằng thao tác này, chúng tôi có thể cắt xẻ cân Gerota, phẫu tích niệu quản lên đến bể thận không gặp nhiều khó khăn nên không cần dùng thêm trocart phụ. Vì dùng kỹ thuật bắt chéo dụng cụ khi phẫu tích nên chỉ dùng dụng cụ thẳng. Cắt mở niệu quản sẽ dùng móc điện, nạy sạn bằng spatula luồn qua một kênh thao tác của port X-cone® khá thuận tiện. Khâu niệu quản hay bể thận đều dùng mũi khâu vắt vừa thuận tiện vừa giúp rút ngắn thời gian mổ. Việc dùng ống soi 5 mm giúp dụng cụ phẫu tích có nhiều khoảng trống để thao tác. Nội soi một vết mổ (LESS) có thời gian mổ dài hơn nội soi tiêu chuẩn (LAP)? Bảng 1. Đối chiếu phẫu thuật LESS so với LAP theo kinh nghiệm của chúng tôi. Mở niệu quản / bể thận lấy sạn Kích thước sạn (mm) Máu mất (mL) Thời gian mổ (phút) Nằm viện (ngày) Ghi chú LESS sau phúc mạc (n=10) (loạt này) 19 23,8 97,2 4,22 Chuyển mổ nội soi tiêu chuẩn: 1 LESS trong phúc mạc (n=7) (5) 15,8 26,6 106,6 3 BC: chảy máu vết trocar rốn: 1 LAP (n=148) (6) 16,6 15,6 78,8 5,58 Chuyển mổ mở:1 Nhận thấy LESS sau phúc mạc có thời gian mổ ngắn hơn LESS trong phúc mạc và dài hơn nội soi sau phúc mạc tiêu chuẩn, với độ chênh lệch thời gian không nhiều. Tuy nhiên, đây mới là 10 trường hợp LESS sau phúc mạc đầu tiên của chúng tôi, khi chưa hoàn thành đường cong học tập. Trong LESS sau phúc mạc việc dùng sợi chỉ khâu có thắt nút một đầu, dùng mũi khâu vắt khâu niệu quản, dùng hem-o-lok gút nơ cuối là các kỹ thuật nhằm rút ngắn thời gian phẫu thuật. Bảng 2. Đối chiếu kết quả phẫu thuật LESS sau phúc mạc mở niệu quản lấy sạn với các tác giả Mở niệu quản / bể thận lấy sạn Số bệnh nhân Kích thước sạn (mm) Máu mất (mL) Thời gian mổ (phút) Nằm viện (ngày) Ghi chú Wen X.,2012 (11) 10 - 30,7 132,7 - Tugcu, 2013 (9) 23 ≥ 15 56,1 69,9 2,9 Không chuyển mổ mở hay nội soi tiêu chuẩn Khánh, 2013 (1) 38 - - 59,34 5,39 Rò nước tiểu: 3/38 Loạt này, 2015 10 19 23,8 97,2 4,22 Chuyển mổ nội soi tiêu chuẩn: 1 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Chuyên Đề Thận – Niệu 122 Kinh nghiệm của các tác giả trong nội soi sau phúc mạc lấy sạn niệu quản Tugcu(9) so sánh 42 trường hợp nội soi sau phúc mạc dùng 3 trocart với 23 trường hợp nội soi một vết mổ sau phúc mạc thấy không có khác biệt về: thời gian mổ: (74,1 vs 69,9 phút, P = 0,54), máu mất (54,9 vs 56,1 mL, P = 0,49), thời gian nằm viện (3,1 vs 2,9 days, P = 0,61). Bệnh nhân mổ 3 trocart có thời gian dùng thuốc giảm đau dài hơn (5,2 vs 2,4 days, P = 0,001). Bệnh nhân mổ một vết mổ có điểm đau qua thang điểm đau bằng thị giác thấp hơn ở các ngày hậu phẫu 1,2,3. Wen X.(11) so sánh 10 trường hợp nội soi sau phúc mạc một vết mổ với 15 trường hợp nội soi với 3 trocart: không có trường hợp nào phải chuyển kỹ thuật mổ ở cả hai nhóm, thời gian mổ theo thứ tự là 132,7±16,3 vs 128,1±20,1 phút (P=0,782), lượng máu mất ước tính: 30,7±5,9 vs 28,0±4,5mL (P=0,62), thời gian dùng thuốc giảm đau sau mổ: 2±0,8 vs 3,5±0,5 ngày (P=0,005). Kết quả thẩm mỹ ở nhóm LESS cao hơn theo đánh giá của điều dưỡng và theo chính bệnh nhân (8,5 vs 5,3; P=0,012 và 8,3 vs 5,6; P=0,025, theo thứ tự). Triển vọng của LESS sau phúc mạc Nội soi một vết mổ sau phúc mạc lấy sạn niệu quản-bể thận là bước khởi đầu để tiến tới thực hiện những phẫu thuật phúc tạp hơn như kinh nghiệm của chúng tôi đã chỉ ra trong phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tiêu chuẩn với 3 trocart(3). Micali(7) báo cáo 11 trường hợp nội soi sau phúc mạc một vết mổ mở niệu quản lấy sạn (3 bệnh nhân, với 1 bệnh nhân phải chuyển mổ mở), cắt chóp nang thận (4 bệnh nhân), sinh thiết thận (4 bệnh nhân). Cũng như chúng tôi, ông cho rằng dụng cụ phẫu thuật cong không thích hợp cho nội soi một vết mổ vùng sau phúc mạc. Ryu(8) thực hiện được những phẫu thuật lớn hơn. Trong 14 bệnh nhân nội soi một vết mổ sau phúc mạc dùng dụng cụ banh vết thương Alexis làm port đa kênh: 5 bệnh nhân cắt chóp nang thận, 2 bệnh nhân cắt tuyến thượng thận, 2 bệnh nhân cắt thận-niệu quản, 3 bệnh nhân cắt thận, 2 bệnh nhân mở niệu quản lấy sạn. Thời gian mổ và lượng máu mất trung bình trong cắt chóp nang thận là 56 phút (45-70) và 179 mL (22-398). Thời gian mổ và lượng máu mất trung bình trong phẫu thuật cắt bỏ và tạo hình là 156 phút (115-21) và 403 mL (35-1324). Thời gian nằm viện trung bình là 6,5 ngày (4-14), không có biến chứng trong mổ quan trọng. KẾT LUẬN Nội soi một vết mổ sau phúc mạc vùng hông lưng lấy sạn niệu quản và sạn bể thận bước đầu cho kết quả đáng khích lệ với biến chứng bằng không, việc chỉ có một trường hợp chuyển qua nội soi tiêu chuẩn cho thấy tính khả thi cao của kỹ thuật này. So với nội soi sau phúc mạc tiêu chuẩn, kỹ thuật này có kết quả tương đương nhưng có kết quả thẩm mỹ cao hơn vì chỉ có một vết rạch da. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Đình Khánh, Trần Ngọc Khánh, Ngô Thanh Liêm, Lê Lương Vình, Hoàng Văn Tùng(2013). Phẫu thuật nôi soi một cổng sau phúc mạc điều trị sỏi tiết niệu tại bệnh viện Trung ương Huế. Y học Việt Nam, tập 409, chuyên đề Tiết niệu-Thận học, HN KH lần thứ VII, Hội Tiết niệu-Thận học Việt nam, tr.37-43. 2. Micali S., Isgrò G., De Stefani S., Pini G., Sighinolfi M.C., Bianchi G (2011). Retroperitoneal laparoendoscopic single-site surgery: preliminary experience in kidney and ureteral indications. Eur Urol; 59(1):164-7. 3. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Nguyễn Văn Ân, Nguyễn Ngọc Tiến, Phạm Phú Phát, Nguyễn Tế Kha, Ngô Đại Hải, Vũ Lê Chuyên, Đào Quang Oánh, Nguyễn Tuấn Vinh, Ngô Thanh Mai, Phan Trường Bảo, Nguyễn Hoàng Đức, Trần Thượng Phong, Nguyễn Văn Học: Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc trong Niệu khoa(2006). Kinh nghiệm qua 276 trường hợp tại bệnh viện Bình Dân. Y học TP Hồ Chí Minh, Số đặc biệt HN KHKT bệnh viện Bình Dân, Phụ bản của Tập 10* (1), tr.57-67. 4. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Phạm Hữu Đoàn, Nguyễn Văn Học, Đỗ Anh Toàn, Chung Tuấn Khiêm(2007). Nội soi ngoài phúc mạc vùng chậu lấy sỏi niệu quản. Y học TP Hồ Chí Minh, Tập 11* Phụ bản của số 1*, tr.293-299. 5. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Chung Tuấn Khiêm, Phạm Phú Phát, Đỗ Vũ Phương, Vũ Lê Chuyên(2011). Nội soi ổ bụng một vết mổ mở niệu quản lấy sạn và tạo hình khúc nối bể thận-niệu quản: Kinh nghiệm ban đầu. Y học Thực hành, số 769+770, Hội nghị Tiết niệu thận học toàn quốc và tập huấn tiểu không tự chủ,tr.325-333. 6. Nguyễn Tế Kha, Trần Thượng Phong, Nguyễn Văn Ân, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Phạm Phú Phát, Ngô Đại Hải, Vũ Lê Chuyên(2005). Phẫu thuật nội soi ngoài phúc mạc trong bệnh lý sỏi niệu quản: kinh nghiệm điều trị 148 trường hợp tại Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận – Niệu 123 bệnh viện Bình Dân. Tạp chí Y học Việt Nam. Chuyên đề Niệu-Thận học, tập 313, tr.128-133. 7. Phan Trường Bảo, Vũ Lê Chuyên, Lê Sỹ Hùng, Nguyễn Văn Ân, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Nguyễn Tế Kha(2005). Bước đầu phẫu thuật nội soi lấy sỏi thận trên 26 bệnh nhân tại BV Bình Dân. Tạp chí Y học Việt Nam, tập 313, tr.96-99. 8. Ryu D.S., Park W.J., Oh T.H. (2009). Retroperitoneal laparoendoscopic single-site surgery in urology: initial experience. J EndoUrol; 23(11):1857-62. 9. Tugcu V., Simsek A., Kargi T., Polat H., Aras B., Tasci A.I. (2013). Retroperitoneal laparoendoscopic single- site ureterolithotomy versus conventional laparosopic ureterolithotomy. Urology; 81(3):567-72. 10. Vũ Lê Chuyên, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Phạm Phú Phát, Nguyễn Tiến Đệ, Đỗ Vũ Phương, Chung Tuấn Khiêm, Trần Ngọc Khắc Linh, Đỗ Lệnh Hùng (2011). Phẫu thuật nội soi một vết mổ trong Tiết niệu: Ứng dụng ban đầu tại bệnh viện Bình Dân. Y học TP. Hồ Chí Minh, Phụ bản của tập 15* Số 3*, tr.71-78. 11. Wen X., Liu X., Huang H., Wu J., Huang W., Cai S., Li X., Ye C., Zhu B., Cai Y., and Gao X. (2012). Retroperitoneal Laparoendoscopic Single-Site Ureterolithotomy: A Comparison with Conventional Laparoscopic Surgery. J EndoUrol; 26(4): 366–371. Ngày nhận bài báo: 10/05/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2015 Ngày bài báo được đăng: 15/07/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdieu_tri_soi_nieu_quan_doan_lung_va_soi_be_than_qua_noi_soi.pdf