KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Từ 10 mẫu nấm phân lập và làm thuần, qua quan
sát một số đặc điểm khuẩn lạc và bào tử, nấm gây
bệnh thối cuống trái cam sành cơ bản được xác
định là Colletotrichum sp. Trong 10 mẫu nấm này,
nòi nấm TB2 có độ độc cao nhất nên chọn để định
danh. Kết quả định danh nấm gây thối cuống trái
cam sành là Colletotrichum gloeosporioides. Trong
điều kiện in vitro, trong 5 loại thuốc được sử dụng
trong thí nghiệm thì thuốc Azoxystrobin + Fosetyl
Aluminium + Dimethomorph có khả năng ức chế
sự phát triển của sợi nấm tốt nhất, khác biệt ý nghĩa
so với nghiệm thức đối chứng. Kết quả đánh giá
hiệu quả in vivo của thuốc Azoxystrobin + Fosetyl
Aluminium + Dimethomorph đối với bệnh thối
cuống trên trái cam sành cho thấy quá trình phát
triển phát triển của sợi nấm ở 2 nghiệm thức được
xử lí thuốc chậm hơn hẳn so với nghiệm thức đối
chứng. Thuốc Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium +
Dimethomorph có khả năng ức chế sự phát triển gây
bệnh của nấm bệnh gây hư cuống trái cam sành.
4.2. Đề nghị
Hiệu quả phòng trừ bệnh thối cuống trái cam
sành bằng biện pháp phòng trừ sẽ được tiến hành
điều kiện ngoài đồng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Định danh và hiệu quả của một số thuốc hóa học đối với tác nhân gây thối cuống trái cam sành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
67
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Study on the antagonistic activity against several bacterial plant pathogens
of actinomycete strains isolated in Vietnam
Pham Thi Hue, Dinh Thi Ngoc Mai, Nguyen Thi Van,
Nguyen Hong Minh, Nguyen Kim Nu Thao
Abstract
A total of 500 actinomycete strains isolated in Vietnam and preserved at the Vietnam Type Culture Collection
was tested for antagonistic activity against three plant pathogenic bacteria. The result showed that 18 strains could
inhibit Xanthomonas oryzae pv. oryzae, 4 strains could inhibit Dickyea zeae and 7 strains could inhibit Pseudomonas
syringae. Among them, Streptomyces manipurensis VTCC 40895 and Streptomyces griseus VTCC 41167 were potent
against all three plant pathogenic bacteria and then utilized for further study. The antibacterial activity was highest
when VTCC 40895 strain was cultivated in SKS medium for 6 days while the maximum antibacterial activity of
VTCC 41724 strain was obtained in ISP4 medium after 6 days. Physiological, biochemical properties, cultivation
conditions of two Streptomyces strains were also identified in this study.
Keywords: Dickyea zeae, Pseudomonas syringae, Xanthomonas oryzae pv. oryzae, actinomycetes, antibacterial activity
Ngày nhận bài: 22/4/2020
Ngày phản biện: 7/5/2020
Người phản biện: TS. Đinh Thúy Hằng
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
1 Trường Đại học Cần Thơ
ĐỊNH DANH VÀ HIỆU QUẢ CỦA MỘT SỐ THUỐC HÓA HỌC
ĐỐI VỚI TÁC NHÂN GÂY THỐI CUỐNG TRÁI CAM SÀNH
Lê Thanh Toàn1, Trần Thành Đạt1
TÓM TẮT
Trong vài năm gần đây, bệnh thối cuống trên cây có múi nói chung, cam sành nói riêng xuất hiện và gây thiệt hại
nặng nề cho các hộ sản xuất. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 10 mẫu nấm phân lập, làm thuần từ vết bệnh thối
cuống trái cam sành thu tại 2 huyện Tam Bình và Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, mẫu nấm TB2 có độc tính cao nhất và
được định danh là Colletotrichum gloeosporioides, với tỉ lệ trùng hợp 100% dựa theo NCBI. Kết quả đánh giá hiệu
quả in vitro của các loại thuốc hóa học với nấm C. gloeosporioides ghi nhận nghiệm thức xử lí Azoxystrobin + Fosetyl
Aluminium + Dimethomorph cho hiệu quả ức chế nấm C. gloeosporioides cao hơn có ý nghĩa với nghiệm thức đối
chứng. Hiệu quả in vivo của Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium + Dimethomorph đối với bệnh thối cuống trái cam
cho thấy nghiệm thức có xử lí thuốc tại thời điểm 1 và 5 ngày trước khi lây bệnh đã ức chế sự phát triển của vết bệnh.
Từ khóa: Cam sành, thán thư, thuốc hóa học
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cam là một trong những loại trái cây phổ biến
trên thế giới, được trồng ở nhiều nơi và được tiêu thụ
như trái cây ăn tươi hoặc dùng làm nước ép. Trái cam
không chỉ ngon, dễ ăn mà còn mà còn chứa nhiều
chất xơ, vitamin C, thiamin, folate và chất chống oxi
hóa (Chung Thị Thanh Hồng, 2015). Ở ĐBSCL, cam
sành được trồng ở nhiều nơi nhưng nổi tiếng nhất là
trái cam sành Tam Bình (Vĩnh Long), hàng năm ước
tính cung cấp cho thị trường hàng chục ngàn tấn và
đem lại nguồn thu nhập lớn cho bà con nông dân
(Bùi Triệu Thương và ctv., 2018). Cam sành là một
trong những cây trồng chủ lực của tỉnh Vĩnh Long,
được trồng tập trung chủ yếu ở 2 huyện Tam Bình và
Trà Ôn. Trong quá trình canh tác, người nông dân
phải đối mặt nhiều loại sâu bệnh hại khác nhau, gây
thiệt hại không nhỏ về năng suất và chất lượng trái
khi thu hoạch. Hiện nay, một bệnh mới xuất hiện
khiến cho nông dân lo lắng. Đó là bệnh thối cuống
gây rụng trái cam sành. Khi trái cam gần thu hoạch
thì cuống bị thối sau đó trái bị rụng, người trồng
cam vô cùng lo lắng. Vì vậy, nghiên cứu đã được
thực hiện nhằm xác định tác nhân gây hại và tìm ra
loại thuốc hóa học có hiệu quả ức chế sự phát triển
nấm bệnh in vitro, sự phát triển vết bệnh in vivo.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Nguồn nấm Coletotrichum sp. được thu thập ở
hai huyện Tam Bình và Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long và
68
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
phân lập tại Bộ môn Bảo vệ thực vật, trường Đại
học Cần Thơ. Trái cam sành được sử dụng trong thí
nghiệm có kích thước đồng đều, vỏ trái còn xanh
và không có các triệu chứng bệnh được mua tại các
vườn cam tại huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Các
nghiệm thức thuốc hóa học được sử dụng bao gồm
Propineb (Antracol 70WP), Mancozeb (Manozeb
80WP), Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium +
Dimethomorph (Map Hero 340WP), Mancozeb +
Carbendazim (Saaf 75WB) và Thiophanate methyl
(TOP 70WP).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phân lập tác nhân gây thối cuống trái
cam sành
Mẫu bệnh được thu thập ở 15 vườn cam sành tại
huyện Tam Bình và Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Mẫu
bệnh được thu ngẫu nhiên theo đường zigzag trong
vườn. Mỗi mẫu thu 5 - 7 trái cam sành có triệu chứng
bệnh mới và điển hình, cho vào bao giấy và ghi nhãn
mẫu bệnh. Mẫu bệnh được phân lập và giám định
tác nhân bằng cách thực hiện đầy đủ bốn bước của
quy tắc Koch (Burgess et al., 2009).
2.2.2. Đánh giá tính độc của các nòi nấm đã
phân lập
Các nguồn nấm được nuôi cấy trên môi trường
PDA khoảng 7 ngày. Sau đó, 10 ml nước cất thanh
trùng được cho vào từng đĩa petri, dùng lame sạch
cạo nhẹ phần sợi nấm, lọc qua vải lược đã thanh
trùng, thu được huyền phù bào tử nấm. Mật số bào
tử nấm được đếm trên lam đếm hồng cầu và đưa về
mật số 106 bào tử/ml. Các trái cam sành đồng đều
về kích thước, màu sắc, không có vết bệnh hay vết
thương được đặt vào mỗi đĩa petri, dùng 1 bó 3 cây
kim ghim nhẹ, tạo vết thương trên 3 vị trí ở vỏ gần
với cuống trái. Một khoanh nấm với đường kính
5 mm được đặt vào từng vị trí đã tạo vết thương trên
vỏ trái. Các đĩa petri được đưa vào các bọc nilon
trong có 1 miếng bông gòn tẩm nước cất, đặt trong
phòng lây nhiễm bệnh để ủ tối 24 giờ với nhiệt độ
25oC, ẩm độ khoảng 95%. Sau đó, các đĩa petri có
đặt trái cam được để ở nhiệt độ phòng. Sự phát triển
và triệu chứng bệnh trên cuống được ghi nhận mỗi
ngày. Từ kết quả này, nòi nấm có tính độc cao nhất
được chọn để thực hiện các thí nghiệm tiếp theo.
2.2.3. Định danh tác nhân gây thối cuống trái cam
sành bằng sinh học phân tử
Nòi nấm có tính độc cao nhất được nuôi cấy
trong môi trường PDA, sau khoảng 7 ngày khi nấm
đã mọc đầy đĩa gởi định danh tại công ty Sinh Hóa
Phù Sa, phường Thường Thạnh, quận Cái Răng,
thành phố Cần Thơ. Kết quả trình tự gene được so
sánh với cơ sở dữ liệu NCBI.
2.2.4. Đánh giá hiệu quả in vitro của thuốc hóa học
đối với nấm gây thối cuống trái
Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn
ngẫu nhiên (HTNN) gồm 6 nghiệm thức là Propineb,
Mancozeb, Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium
+ Dimethomorph, Mancozeb + Carbendazim,
Thiophanate methyl và đối chứng nước cất, với
4 lần lặp lại. Nguồn nấm Colletotrichum mang độc
tính cao, đã được định danh, được nuôi cấy trong
đĩa petri khoảng 10 ngày trước khi tiến hành thí
nghiệm. Khuẩn ty nấm sẽ được đục thành các
khoanh có đường kính khoảng 5 mm khi thực hiện
thí nghiệm. Các huyền phù thuốc được chuẩn bị
với nồng độ theo khuyến cáo của từng loại thuốc.
Tiếp theo, 50 ml môi trường PDA được nấu tan. Sau
đó, môi trường trong chai sẽ được bơm vào các đĩa
petri bằng Dispenser với lượng 10 ml/đĩa petri. Sau
khi môi trường đặc lại, các khoanh khuẩn ty nấm
C. gloeosporioides và các khoanh giấy thấm đã tẩm
huyền phù thuốc được đặt vào đĩa petri. Các đĩa
petri được đặt ở nhiệt độ phòng. Bán kính vòng vô
khuẩn của nấm được đo vào các thời điểm 3, 5, 7
và 9 ngày sau đặt khoanh khuẩn ty (NSĐKT). Hiệu
quả của thuốc hóa học (HQUC) được tính theo
công thức HQUC = [(ĐKKLđc - ĐKKLi) / ĐKKLđc] *
100%, trong đó ĐKKLđc là đường kính khuẩn lạc của
nghiệm thức đối chứng nước cất, ĐKKLi là đường
kính khuẩn lạc của nghiệm thức thuốc hóa học. Thí
nghiệm được lặp lại 3 lần. Từ thí nghiệm trên, một
nghiệm thức xử lý thuốc hiệu quả nhất được chọn để
thực hiện thí nghiệm tiếp theo.
2.2.5. Đánh giá hiệu quả in vivo của thuốc hóa học
đối với bệnh thối cuống trái
Thí nghiệm được bố trí theo thể thức HTNN gồm
3 nghiệm thức bao gồm xử lý thuốc lên trái cam ở
5 ngày trước lây nhiễm nhân tạo, xử lý thuốc lên trái
cam ở 1 ngày trước lây nhiễm nhân tạo và đối chứng
không xử lý, 4 lần lặp lại, 1 trái cam/lặp lại.
Chuẩn bị nguồn nấm và lây nhiễm bệnh nhân
tạo tương tự thí nghiệm đánh giá tính độc. Thuốc
hóa học được sử dụng theo nồng độ khuyến cáo là
2 g/l. Các trái cam sành còn mang cuống, đồng đều
về kích thước, màu sắc được chọn và được rửa bằng
nước sạch, để khô tự nhiên, sau đó xử lý bằng cồn
70o trước khi thí nghiệm. Sau đó, dung dịch thuốc
đã chuẩn bị sẵn được phun lần lượt lên từng trái, sao
cho cả trái thấm đều, để khô tự nhiên trong 1 ngày,
69
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
sau đó trái sẽ để trong bọc nilon riêng có bổ sung
ẩm độ bằng bông gòn (5 ml nước cất/ bông gòn) và
ủ ở điều kiện nhiệt độ 250C. Sau khi xử lý thuốc,
việc lây nhiễm bệnh được thực hiện với các dụng cụ
đã được thanh trùng. Một bó 3 cây kim ghim nhẹ,
tạo vết thương trên 3 vị trí ở vỏ trái. Sau đó, một
khoanh nấm với đường kính 5 mm được đặt vào
từng vị trí đã tạo vết thương trên vỏ gần cuống trái.
Các đĩa petri được đặt trong phòng chủng bệnh để
ủ tối 24 giờ với nhiệt độ 25oC, ẩm độ 95 ± 3%. Sau
đó, các đĩa petri có đặt trái cam được để ở nhiệt độ
phòng. Ở nghiệm thức đối chứng, thuốc hóa học
được thay thế bằng nước cất thanh trùng. Sự phát
triển và triệu chứng bệnh trên cuống được ghi nhận
các ngày sau khi lây bệnh (NSLB). Thí nghiệm được
lặp lại hai lần.
2.2.6. Xử lý số liệu
Số liệu ở các thí nghiệm được xử lý bằng phần
mềm Excel và xử lý thống kê bằng phần mềm thống
kê SPSS 20 qua phép thử Duncan.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8 năm 2017
đến tháng 10 năm 2019 tại Bộ môn Bảo vệ thực vật,
Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả phân lập và thực hiện quy tắc Koch
đối với tác nhân gây bệnh thối cuống trái cam sành
Mười mẫu nấm (4 mẫu thu ở huyện Tam Bình,
Vĩnh Long và 6 mẫu thu ở huyện Trà Ôn, Vĩnh
Long) đã được phân lập và làm thuần từ 15 mẫu trái,
quan sát một số đặc điểm như bào tử, đĩa áp, và cơ
bản xác định được nấm gây thối cuống trái cam sành
là Colletotrichum sp.
3.2. Tính độc của các nòi nấm đã được phân lập
Trong số 10 nòi nấm, nòi nấm được kí hiệu là
TB2 có tốc độ phát triển nhanh so với tất cả các nòi
nấm còn lại, với đặc điểm sợi nấm sinh trưởng và
lan ra rất nhanh. Trái cam được lây nhiễm nòi nấm
TB2 có sợi nấm sinh trưởng nhanh về cuống trái làm
rụng cuống; chỉ sau 5 ngày, vỏ trái chuyển sang màu
vàng, mô mềm ra, sau đó vỏ chuyển sang màu nâu và
thối. Qua đó, xác định nòi nấm TB2 có tính độc cao
nhất và được chọn gởi định danh.
3.3. Kết quả định danh nấm gây bệnh thối cuống
trên cam sành
Kết quả định danh cho thấy nấm gây thối cuống
trái cam sành là Colletotrichum gloeosporioides, với
chỉ số trùng hợp là 100%. Kết quả tương tự nghiên
cứu trước đó của Nguyễn Thị Hoàng Nữ và cộng
tác viên (2018), xác định tác nhân gây thối cuống
trái cam soàn (Citrus sinensis L.) tại Đồng Tháp.
Kết quả này cũng phù hợp nghiên cứu tác nhân gây
thối cuống trái xoài và bơ của Galsurker và cộng tác
viên (2018).
3.4. Hiệu quả in vitro của thuốc hóa học đối với
nấm C. gloeosporioides
Bảng 1. Hiệu suất ức chế của thuốc hóa học
đối với nấm C. gloeosporioides
Nghiệm thức
Hiệu quả ức chế (%)
ở các ngày sau đặt khuẩn ty
3 5 7 9
Propineb 0,0 0,0 a 0,0 a 0,0 a
Mancozeb 0,0 0,6 a 4,0 a 0,0 a
Azoxystrobin +
Fosetyl Aluminium
+ Dimethomorph
10,3 17,7 b 17,2 b 10,8 c
Mancozeb +
Carbendazim 11,6 7,7 a 10,6 a 5,6 b
Thiophanate methyl 0,0 0,6 a 0,0 a 0,0 a
Mức ý nghĩa ns * * **
CV (%) 29,26 29,93 24,71 15,05
Ghi chú: *: khác biệt ở mức ý nghĩa 5%. **: khác biệt
ở mức ý nghĩa 1%.
Ở thời điểm 3 NSĐKT, HQUC của tất cả các
nghiệm thức không có khác biệt so với nghiệm thức
đối chứng. Tuy nhiên, ở thời điểm 5 NSĐKT có sự
khác biệt giữa nghiệm thức xử lí với Azoxystrobin
+ Fosetyl Aluminium + Dimethomorph (17,7%), có
sự khác biệt HQUC so với các nghiệm thức còn lại.
Các nghiệm thức khác không có sự khác biệt ý nghĩa
thống kê với nhau. Sau đó ở thời điểm 7 NSĐKT,
nghiệm thức xử lí với Azoxystrobin + Fosetyl
Aluminium + Dimethomorph vẫn duy trì ổn định
hiệu quả ức chế sự phát triển của nấm khi cho HQUC
lớn nhất là 17,2%, khác biệt có ý nghĩa các nghiệm
thức còn lại. Tương tự ở thời điểm 9 NSĐKT, nghiệm
thức xử lí với Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium +
Dimethomorph tiếp tục cho hiệu quả tốt nhất với
HSUC cho kết quả lớn nhất là 10,8%. Đồng thời,
nghiệm thức xử lí với Mancozeb + Carbendazim có
HQUC là 5,6% khác biệt ý nghĩa với nghiệm thức
còn lại. Và tại thời điểm này, HQUC của 3 nghiệm
thức Propineb, Mancozeb và Thiophanate methyl
là 0%. Như vậy, thuốc Azoxystrobin + Fosetyl
Aluminium + Dimethomorph có khả năng ức chế
dự phát triển của nấm cao và hiệu lực kéo dài qua các
thời điểm khảo sát. Nghiệm thức xử lí với Mancozeb
70
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
+ Carbendazim cho kết quả không ổn định qua các
thời điểm khảo sát. Và các nghiệm thức xử lí với
Propineb, Mancozeb, Thiophanate methyl cho kết
quả không khác biệt ý nghĩa thống kê với nghiệm
thức đối chứng (Bảng 1). Nghiệm thức Azoxystrobin
+ Fosetyl Aluminium + Dimethomorph được sử
dụng cho nghiên cứu tiếp theo trên trái cam.
3.5. Hiệu quả in vivo của thuốc hóa học đối với
bệnh thối cuống trên trái cam sành
Ở thời điểm 2 ngày sau khi lây bệnh (NSKLB),
giữa nghiệm thức đối chứng với 2 nghiệm thức xử lí
thuốc có sự khác biệt. Ở đối chứng, nấm phát triển
nhanh chóng tại vị trí đặt khoanh nấm, tại vùng
lân cận màu vỏ trái sậm lại (màu xanh đậm). Ngoài
ra, sợi nấm còn mọc ngược lên về phía cuống. Ở
2 nghiệm thức được xử lí với thuốc, sợi nấm chỉ phát
triển chậm trên khoanh nấm, ở vùng xung quanh
khu vực tạo vết thương không thấy sợi nấm phát
triển. Sau đó, thời điểm 3 NSKLB, ở nghiệm thức
đối chứng, sợi nấm phát triển nhanh chóng, mọc
lan từ vị trí đặt khoanh nấm đến vị trí tiếp giáp với
cuống rồi lan ra toàn bộ cuống trái. Ở 2 nghiệm
thức được xử lí thuốc, sợi nấm vẫn phát triển chậm,
tốc độ phát triển của nấm ở 2 nghiệm thức này gần
như bằng nhau, vùng xung quanh khu vực gây vết
thương màu sắc vỏ trái bắt đầu sậm lại. Ở thời điểm
5 NSKLB, sự phát triển của bệnh ở 3 nghiệm thức có
sự khác biệt rõ rệt. Ở nghiệm thức đối chứng, bệnh
phát triển rất nhanh, vỏ trái chuyển sang màu vàng
và mô trái mềm ra, tuy nhiên khu vục xung quanh
vị trí đặt khoanh nấm không chuyển màu, vẫn còn
màu xanh. Sợi nấm mọc lan ra khắp trên bề mặt trái
và phát triển rất mạnh ở cuống trái. Ở nghiệm thức
xử lí thuốc 5 NTKLB, vỏ trái bắt đầu chuyển sang
màu nhạt, sợi nấm phát triển chậm, chỉ xuất hiện ở
vị trí lây bệnh và ở cuống. Ở nghiệm thức xử lí thuốc
1 NTKLB, vỏ trái vẫn còn màu xanh không có nhiều
khác biệt so với những ngày trước đó. Ở thời điểm 6
NSKLB, cuống trái cam của nghiệm thức đối chứng
bị thối và rụng xuống. Sang ngày thứ 7, ở nghiệm
thức này, vỏ trái chuyển sang màu, ở vị trí lây bệnh
thối, màu nâu sẫm, dịch nhựa chảy ra. Ở 2 nghiệm
thức còn lại, nấm chỉ phát triển ở vị trí cuống, ở trên
vỏ trái không thấy sự hiện diện của sợi nấm (Hình 1).
Như vậy, thuốc Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium
+ Dimethomorph có khả năng ức chế sự tấn công
và phát triển của nấm Colletotrichum. Tuy nhiên, do
đây là bệnh mới xuất hiện gây hư cuống và rụng trái
cam sành, nên thang đánh giá cấp bệnh chưa được
nghiên cứu, dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá
cấp bệnh và tính toán hiệu quả giảm bệnh.
Hình 1. Hiệu quả in vivo của Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium + Dimethomorph
đối với bệnh thối cuống trái cam sành
Ghi chú: (A) phun thuốc 5 NTKLB, (B) phun thuốc 1 NTKLB, (C) nghiệm thức đối chứng ở thời điểm 3 NSKLB.
A B C
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Từ 10 mẫu nấm phân lập và làm thuần, qua quan
sát một số đặc điểm khuẩn lạc và bào tử, nấm gây
bệnh thối cuống trái cam sành cơ bản được xác
định là Colletotrichum sp. Trong 10 mẫu nấm này,
nòi nấm TB2 có độ độc cao nhất nên chọn để định
danh. Kết quả định danh nấm gây thối cuống trái
cam sành là Colletotrichum gloeosporioides. Trong
điều kiện in vitro, trong 5 loại thuốc được sử dụng
trong thí nghiệm thì thuốc Azoxystrobin + Fosetyl
Aluminium + Dimethomorph có khả năng ức chế
sự phát triển của sợi nấm tốt nhất, khác biệt ý nghĩa
so với nghiệm thức đối chứng. Kết quả đánh giá
hiệu quả in vivo của thuốc Azoxystrobin + Fosetyl
Aluminium + Dimethomorph đối với bệnh thối
cuống trên trái cam sành cho thấy quá trình phát
triển phát triển của sợi nấm ở 2 nghiệm thức được
xử lí thuốc chậm hơn hẳn so với nghiệm thức đối
chứng. Thuốc Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium +
Dimethomorph có khả năng ức chế sự phát triển gây
bệnh của nấm bệnh gây hư cuống trái cam sành.
71
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
4.2. Đề nghị
Hiệu quả phòng trừ bệnh thối cuống trái cam
sành bằng biện pháp phòng trừ sẽ được tiến hành
điều kiện ngoài đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chung Thị Thanh Hồng, 2015. Phân tích hiệu quả mô
hình sản xuất cam sành tại huyện Tam Bình tỉnh
Vĩnh Long. Luận văn cao học ngành Hệ thống Nông
nghiệp. Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông
Cửu Long. Trường Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Thị Hoàng Nữ, Mai Nguyễn Minh Trí, Đoàn
Thị Kiều Tiên, Văn Quốc Giang, Nguyễn Thị Thu
Nga, 2018. Xác định tác nhân gây thối cuống trái cam
soàn (Citrus sinensis L.) tại Đồng Tháp. Tạp chí Khoa
học - Trường Đại học Cần Thơ, 54 (4B): 100-107.
Bùi Triệu Thương, Trần Bá Linh, Nguyễn Minh
Phượng, Tất Anh Thư, Nguyễn Ngọc Thanh, 2018.
Đánh giá sự bạc màu đất vườn trồng cam sành dựa
trên hình thái, đặc tính lý, hóa đất tại huyện Tam
Bình tỉnh Vĩnh Long. Tạp chí Khoa học Công nghệ
Nông nghiệp Việt Nam, 10 (95): 106-113.
Burgess L.W., Knight T.M., Tesoriero L. và Phan Thúy
Hiền, 2009. Cẩm nang chẩn đoán bệnh cây ở Việt
Nam. Nhà xuất bản Trung tâm Nghiên cứu Nông
nghiệp Quốc tế Australia. 210 trang.
Galsurker O., Diskin S., Maurer D., Feygenberg O. and
Alkan N., 2018. Fruit stem-end rot. Horticulturae,
4 (50): 1-16.
Identification and efficacy of pesticides on pathogen causing stem-end rot
of king madarin fruits
Le Thanh Toan, Tran Thanh Dat
Abstract
In recent years, stem-end rot of citrus fruits in general, of king madarin fruits in particualar has occurred and
caused severe damage to farmers. The research results showed that among 10 fungal specimens isolated and purified
from stem-end rot lesions of king madarin fruits in two districts Tam Binh and Tra On, Vinh Long province, the
isolate of TB2 had the highest toxicity and was identified as Colletotrichum gloeosporioides, with coincidence index
of 100% based on NCBI. The in vitro efficacy of some pesticides to C. gloeosporioides indicated that the treatment of
Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium + Dimethomorph had high inhibition rate, compared to the control one. The
in vivo efficacy of Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium + Dimethomorph to stem-end rot lesions showed that use of
the pesticide at 1 and 5 days before pathogen inoculation limitted the lesion development.
Keywords: Anthracnose, madarin, pesticide
Ngày nhận bài: 06/5/2020
Ngày phản biện: 12/5/2020
Người phản biện: TS. Lê Quốc Điền
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CANH TÁC CAM SÀNH
TẠI TỈNH VĨNH LONG
Trần Thị Mỹ Hạnh1, Đặng Quốc Chương1,
Nguyễn Thị Cẩm Giang1, Lương Thị Duyên1
TÓM TẮT
Đánh giá thực trạng canh tác cam Sành tại tỉnh Vĩnh Long được thực hiện tại huyện Trà Ôn, Tam Bình, Vũng
Liêm và TP. Vĩnh Long thông qua điều tra 494 hộ trồng cam Sành từ tháng 7/2018 đến 6/2019. Kết quả cho thấy
nông dân sử dụng gốc ghép cam Mật để làm gốc ghép chiếm tỷ lệ cao nhất, 89,10% ở cam Sành ruộng (CSR) và
85,88% ở cam Sành vườn (CSV). Trung bình tổng số cây/ha của các ruộng trồng cam Sành là 4.234,9 cây/ha,
trong khi ở CSV được trồng với mật độ là 1.864 cây/ha. Khoảng cách hàng cách hàng từ 1 - 1,4 m chiếm tỉ lệ cao
78,24% ở CSR, đối với khoảng cách CSV thì hàng cách hàng là 2,25 m và cây cách cây là 1,92 m. Cả hai hình thức
canh tác CSR và CSV đều áp dụng biện pháp xử lý ra hoa nghịch vụ chiếm tỷ lệ rất cao 76,46% và 82,35%. Số lần sử
dụng phân vô cơ và hữu cơ ở kiểu canh tác CSR là 14,6 lần/năm và 1,5 lần/năm. Đối với CSV sử dụng phân vô cơ
là 12,5 lần/năm và phân hữu cơ là 2,2 lần/năm. Trung bình liều lượng phân NPK bón cho CSR là 5.818 kg/ha/năm
trong khi CSV bón 3.518 kg/ha/năm. Đối với CSR bệnh vàng là gân xanh (VLGX) và nhện đỏ là dịch hại phổ biến
nhất chiếm lần lượt 43,4% và 18,5%, trong khi CSV thì sâu vẽ bùa 18,3% và bệnh VLGX chiếm 41,9% là phổ biến
1 Viện Cây ăn quả miền Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dinh_danh_va_hieu_qua_cua_mot_so_thuoc_hoa_hoc_doi_voi_tac_n.pdf