Kinh tế tư nhân là một bộ phận không thể
tách rời của nền kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trên
thực tế, kinh tế tư nhân ngày càng thể hiện vị
trí, vai trò cũng như ảnh hưởng, đóng góp to
lớn. Có thể khẳng định, kinh tế tư nhân là
một trong những động lực chủ đạo để phát
triển nền kinh tế và đồng thời, kinh tế tư
nhân có phát triển thì mới góp phần giúp cho
kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với kinh
tế quốc tế. Vì vậy, nhằm khơi thông, thu hút
nguồn vốn đầu tư để tăng trưởng và phát
triển kinh tế thì việc quan tâm, hỗ trợ thành
phần kinh tế tư nhân là rất cần thiết. Trong
đó, việc mở rộng, đa dạng hóa các mô hình
chủ thể kinh doanh và định hướng các loại
hình doanh nghiệp phù hợp để thúc đẩy kinh
tế tư nhân là vấn đề rất quan trọng. Sau khi
nghiên cứu thực trạng môi trường kinh doanh
tại Việt Nam, hay đặc điểm của thành phần
kinh tế tư nhân cũng như điểm mạnh, điểm
yếu của từng mô hình chủ thể kinh doanh thì
có thể khẳng định, công ty hợp danh, công ty
cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên đều là các loại hình công ty
khá phù hợp trong nền kinh tế thị trường hội
nhập quốc tế tại Việt Nam hiện nay và hơn
nữa, các loại hình công ty này đều có thể
thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh tế
tư nhân. Tuy nhiên, để các loại hình công ty
này phát triển ổn định, bền vững và góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân thì cần
chú ý đến vấn đề định hướng kinh doanh các
loại hình công ty trên.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 449 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Định hướng các mô hình kinh doanh để phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
90
ĐỊNH HƯỚNG CÁC MÔ HÌNH KINH DOANH ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TƯ NHÂN GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
ORIENTATION OF BUSINESS MODELS FOR PRIVATE ECONOMIC DEVELOPMENT
IN THE PERIOD OF INTERNATIONAL INTERGRATION
Ngày nhận bài: 23/05/2018
Ngày chấp nhận đăng: 17/08/2018
Nguyễn Vinh Hưng
TÓM TẮT
Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của nền kinh tế Việt Nam. Thực tiễn
trong nhiều năm qua cho thấy, kinh tế tư nhân luôn mang lại hiệu quả và đóng góp trực tiếp đến
sự ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam. Để tạo điều kiện cho sự phát triển
của kinh tế tư nhân, khá nhiều mô hình kinh doanh đã được pháp luật quy định. Tuy nhiên, mỗi mô
hình kinh doanh đều có đặc thù riêng và để chúng có thể thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh
tế tư nhân trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng tại Việt Nam hiện nay thì cần thiết xem xét
đến vấn đề định hướng hoạt động cho các mô hình kinh doanh này.
Từ khóa: Kinh tế tư nhân, doanh nghiệp, kinh tế, hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường.
ABSTRACT
Private economy plays an important and integral part to the Vietnam economy. Over the past
years, the private economy has always shown effectiveness and directly contributed to the stability
and sustainable development of the Vietnam economy. To facilitate the development of private
economy, many business models are stipulated in the law of Vietnam. However, each business
models has its own unique features, therefore in order to promote the strong development of the
private economy over the course of international integration in Vietnam nowadays, it is necessary
to take into account the issues concerning operational orientation of such business models.
Keywords: Private economy, enterprise, economy, international integration, market economy.
1. Đặt vấn đề
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế
được tổ chức đơn giản, quy mô tồn tại, phạm
vi hoạt động khá nhỏ nên dễ dàng được triển
khai và phổ biến tại mọi địa bàn khác nhau.
Điều này càng phù hợp với một quốc gia vốn
dĩ có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu
đời như Việt Nam.
Hiện nay, hội nhập quốc tế đang là xu
hướng phát triển tất yếu của hầu hết các quốc
gia trên thế giới. Khi tham gia hội nhập sâu
rộng với quốc tế thì lĩnh vực kinh tế là một
trong các lĩnh vực đầu tiên chịu tác động và
ảnh hưởng mạnh mẽ. Nhằm tạo thuận lợi cho
sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân
trong giai đoạn hội nhập quốc tế, từ khá lâu,
Đảng và Nhà nước đã chủ trương và phát triển
đa dạng các mô hình kinh doanh để phục vụ
nhu cầu đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Mặc dù
vậy, từ thực tiễn kinh doanh cho thấy các mô
hình kinh doanh vẫn đang tồn tại khá nhiều
hạn chế, bất cập và chưa thật sự phù hợp với
đặc thù của thành phần kinh tế tư nhân. Bài
viết nghiên cứu về những hạn chế, bất cập của
các mô hình kinh doanh tại Việt Nam hiện
nay, từ đó, góp phần định hướng các mô hình
kinh doanh cho phù hợp để thúc đẩy sự phát
triển của thành phần kinh tế tư nhân trong giai
đoạn hội nhập quốc tế.
2. Thực trạng hoạt động của các mô hình
kinh doanh tại Việt Nam
2.1. Đặc trưng của kinh tế tư nhân tại Việt
Nam
Nguyễn Vinh Hưng, Khoa Luật – Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
91
Hiện nay, “hầu hết các nước trên thế giới
đều có nền kinh tế mở nền kinh tế thế giới
hiện đại ngày càng gắn kết chặt chẽ các quốc
gia với nhau” (Phạm Quang Vinh, 2011,
135). Mặt khác, việc “phát triển đa dạng các
thành phần kinh tế đang là nhiệm vụ rất quan
trọng của từng quốc gia trên thế giới. Bởi chỉ
có đa dạng các thành phần kinh tế mới có thể
tạo điều kiện tốt nhất để khơi thông, thu hút
đầu tư và nguồn vốn trong xã hội. Từ đó, góp
phần xây dựng, phát triển nền kinh tế và mở
rộng sự giao lưu hợp tác kinh tế với nước
ngoài” (Nguyễn Vinh Hưng, 2018, 72 ).
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, Việt Nam chỉ tồn tại hai thành phần
kinh tế chủ đạo: kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể. Phải kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI
(12/1986), kinh tế tư nhân mới được thừa
nhận. Khác với kinh tế nhà nước hay kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế
do tư nhân trực tiếp tham gia các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, thương mại. Trên thực
tế hiện nay, thành phần kinh tế tư nhân đang
phát triển rất mạnh mẽ và là một bộ phận
không thể thiếu của nền kinh tế thị trường tại
Việt Nam.
Theo thống kê trong năm 2017, “kinh tế
tư nhân đã đóng góp 42,9% tỷ trọng nền kinh
tế, tăng thêm 4% so với năm 2016. Đồng
thời, dự báo, năm 2020 đạt khoảng 50%, năm
2025 đạt 55% và đến năm 2030 chiếm 60-
65% tỷ trọng nền kinh tế” (Báo điện tử Dân
trí, 2018).
Nghiên cứu gần đây cho thấy: “theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, khu vực kinh tế
tư nhân hiện có khoảng 500 nghìn doanh
nghiệp, chiếm gần 90% số doanh nghiệp của
cả nước. Trong giai đoạn 2006 - 2015, so với
khu vực kinh tế nhà nước và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài (FDI), khu vực kinh tế tư
nhân đóng góp hơn 40% GDP cả nước, 30%
giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80%
tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch
vụ, 64% tổng lượng hàng hóa và 100% giá trị
sản lượng hàng hóa vận chuyển. Trong thời
gian tới, khu vực kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục
đóng góp khoảng 30% ngân sách và khoảng
40% GDP của cả nước. Đặc biệt, khu vực
kinh tế tư nhân thu hút khoảng 51% lực
lượng lao động cả nước và tạo khoảng 1,2
triệu việc làm cho người lao động mỗi năm,
góp phần không nhỏ tái cấu trúc nền kinh tế,
tăng thu nhập cho người dân” (Khánh
Nam, 2016). Nghiên cứu khác cho rằng,
“thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài luôn đạt tốc độ tăng
trưởng cao hơn thành phần kinh tế nhà nước;
đóng góp phần chủ yếu vào mức tăng trưởng
của nền kinh tế” (Phạm Văn Dũng, 2011, 5).
Có thể nhận thấy, “từ khi đất nước thực
hiện đường lối đổi mới toàn diện sau Đại hội
Đảng lần thứ VI (12/1986) và nhất là khi
Việt Nam mở cửa thị trường để tiến hành hội
nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới thì
thành phần kinh tế tư nhân ngày càng phát
triển mạnh mẽ” (Nguyễn Vinh Hưng, 2018,
72). Kinh tế tư nhân đã và đang có những
đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung của
nền kinh tế Việt Nam. Trên thực tế cho thấy,
quy mô, tỷ trọng của kinh tế tư nhân ngày
càng lớn mạnh và có vị trí, vai trò ngày càng
quan trọng trong tổng thể nền kinh tế Việt
Nam. Từ đó có thể đi đến khẳng định, trong
giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam hiện nay, kinh tế tư nhân vẫn đang là
thành phần kinh tế chủ đạo và trực tiếp mang
lại đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế.
Liên quan trực tiếp đến vấn đề phát triển
kinh tế tư nhân không thể không đề cập đến
yếu tố tâm lý kinh doanh và truyền thống
thương mại tại Việt Nam. Với đặc điểm và
truyền thống của Việt Nam vốn là một quốc
gia chuyên về sản xuất nông nghiệp. “Suốt
thời kỳ phong kiến, nền kinh tế Việt Nam
kéo dài trong tình trạng tự nhiên, tự cấp, tự
túc. Ở đó, nông nghiệp là nền tảng kinh tế,
công thương nghiệp phát triển phụ thuộc vào
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
92
nông nghiệp và là hoạt động kinh tế phụ trợ
cho nông nghiệp. Tầng lớp công thương
chuyên nghiệp còn quá ít so với dân cư cả
nước” (Nguyễn Trí Dĩnh và cộng sự, 2007,
285). Chính vì vậy, hiểu biết về kinh doanh
của người Việt xưa nay khá hạn hẹp vì vốn dĩ
chỉ quen với các hoạt động sản xuất nông
nghiệp manh mún, nhỏ lẻ. Điều này đã gây
tác động và ảnh hưởng không nhỏ đến yếu tố
tâm lý kinh doanh của các nhà đầu tư hiện
nay.
Đến khi Việt Nam phát triển thành phần
kinh tế tư nhân và mở cửa thị trường hội
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng thì các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, thương mại tại
Việt Nam mới thực sự phát triển. Thế nhưng
do chịu ảnh hưởng nặng nề của tâm lý kinh
doanh truyền thống, khi các nhà đầu tư của
Việt Nam tiến hành các hoạt động kinh
doanh, thương mại thì yếu tố quen biết, sự tin
cậy giữa các thành viên lại làm ảnh hưởng
đến khá nhiều quyết định của họ. Mặt khác,
với hiểu biết, kinh nghiệm làm kinh doanh
thương mại còn khá hạn chế nên một bộ phận
không nhỏ người Việt thường chỉ muốn kinh
doanh trong phạm vi vừa hoặc nhỏ và lấy
công làm lãi là chủ yếu. Những yếu tố này
góp phần làm cho kinh tế tư nhân tại Việt
Nam thường phát triển theo khuynh hướng tự
phát, manh mún, nhỏ lẻ hoặc không có sự tổ
chức, bài bản cụ thể.
Từ yếu tố tâm lý kinh doanh như vậy, nên
dẫn đến việc khá nhiều người thường hay
quyết định đầu tư, kinh doanh nhưng lại thiếu
sự cân nhắc, tính toán hoặc chọn lọc cẩn
thận. Khi phân tích truyền thống thương mại
của Việt Nam trong khá nhiều năm thì cần
phải nói đến thói quen kinh doanh theo kiểu
“bầy đàn”, “phong trào”, “chộp giật” hay
“thân quen” vốn dĩ đã bám sâu trong suy
nghĩ và ảnh hưởng tới sự quyết định của một
bộ phận không nhỏ người Việt Nam. Điều
này được minh chứng qua các thời kỳ bùng
nổ của thị trường vàng, chứng khoán, bất
động sản, tiền ảo hay kinh doanh các nghề
mới lạ nổi lên mạnh mẽ trong từng giai đoạn
ngắn tại Việt Nam. Trong các thời kỳ phát
triển “nóng” của các loại thị trường trên đã
tạo sức hút và lôi kéo khá đông đảo các tầng
lớp nhân dân hưởng ứng tham gia. Một bộ
phận không nhỏ người dân đã vô tình biến
mình thành những “người làm theo” để gia
nhập trào lưu “chụp giật” mà thường thiếu sự
hiểu biết cân nhắc và tính toán lâu dài. Vì
trên thực tế, nhiều người tham gia hoàn toàn
do từ sự tham lam và bị những người xung
quanh dụ dỗ, lôi kéo hoặc bị ảnh hưởng từ
yếu tố phong trào. Gần đây, nghiên cứu cho
biết “kinh doanh theo kiểu phong trào lại
đang diễn ra rất phổ biến” (Trường Đại học
Kinh tế quốc dân, 2011, 27). Đến khi các loại
thị trường trên suy thoái thì rất nhiều người
tham gia bị mất tài sản cũng chỉ vì sự nông
nổi, thiếu hiểu biết và từ lòng tham của chính
họ. Điều này là minh chứng cho thấy, tâm lý
kinh doanh của một bộ phận không nhỏ
người Việt hiện nay vẫn còn dễ dàng bị lôi
kéo, dụ dỗ từ những người xung quanh. Cũng
có thể nói, người Việt thường có xu hướng
“đầu tư theo tâm lý đám đông” (Báo Tiền
phong, 2017). Qua đó, sự tin tưởng và thân
quen đã ảnh hưởng không nhỏ đến các quyết
định kinh doanh của người Việt. Vì thế,
“nhiều khi người Việt kinh doanh khá mạo
hiểm nhưng lại luôn tin tưởng từ những
người cùng phường, cùng hội” (Nguyễn Vinh
Hưng, 2017, 74 - 76).
Còn đối với các doanh nghiệp kinh doanh
tại Việt Nam, có nhận xét cho rằng: “doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay đa phần là bầy
đàn, thấy người ta làm sao thì mình làm vậy,
không biết sáng tạo” (Alan Phan, 2013).
Nhận định trên có vẻ hơi khắt khe nhưng
cũng phải thừa nhận trong một chừng mực,
điều đó lại khá phù hợp với thực tế của các
doanh nghiệp đang kinh doanh hiện nay của
Việt Nam. Vì vậy, có thể nhận xét, yếu tố
tâm lý kinh doanh và truyền thống thương
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
93
mại đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định
lựa chọn các loại hình doanh nghiệp kinh
doanh của thành phần kinh tế tư nhân tại Việt
Nam.
2.2. Thực trạng các mô hình kinh doanh tại
Việt Nam hiện nay
Hiện nay, ngoài các loại hình doanh
nghiệp được quy định trong Luật Doanh
nghiệp năm 2014, tại Việt Nam hiện còn tồn
tại một số mô hình kinh doanh như:
+ Cá nhân kinh doanh hay còn được gọi là
thương nhân đơn lẻ (sole trader hay sole
proprietorship): xét về lịch sử, “đây là thành
phần kinh doanh cổ xưa nhất và cũng là chủ
thể kinh doanh đơn giản nhất” (Ngô Huy
Cương, 2013, 119). Bởi lẽ, đây là thành phần
kinh doanh chỉ do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm. Tại Việt Nam hiện nay, cá
nhân kinh doanh là thành phần kinh doanh
phổ biến và phạm vi hoạt động cũng khá đa
dạng. Loại hình chủ thể kinh doanh này tồn
tại ở khắp mọi nơi và trong khá nhiều lĩnh
vực ngành, nghề khác nhau.
+ Chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh
Hộ gia đình: có thể nói, Hộ gia đình tham gia
sản xuất, kinh doanh là một mô hình chủ thể
kinh doanh khá đặc thù của Việt Nam. Điều
này xuất phát từ nền tảng kinh tế Việt Nam
còn khó khăn, lạc hậu nên việc cả gia đình
cùng nhau làm sản xuất, kinh doanh thường
khá phổ biến tại nhiều vùng nông thôn, miền
núi. Khác với các mô hình doanh nghiệp, Hộ
gia đình là loại hình chủ thể kinh doanh
không được quy định trong luật Doanh
nghiệp mà được quy định trong Bộ luật Dân
sự. Theo đó, Điều 106 của Bộ luật Dân sự
năm 2005 định nghĩa Hộ gia đình như sau:
“Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản
chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động
kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể
khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh
vực này” (Quốc Hội, 2005). Tương tự mô
hình cá nhân kinh doanh thì Hộ gia đình cũng
phát triển rộng rãi ở các vùng nông thôn và
hoạt động trong khá nhiều lĩnh vực, ngành,
nghề kinh doanh khác nhau.
+ Loại hình chủ thể kinh doanh Tổ hợp
tác: khá giống với mô hình kinh doanh Hộ
gia đình, Tổ hợp tác cũng là mô hình chủ thể
sản xuất, kinh doanh tương đối đặc thù của
Việt Nam. Bởi đây cũng là mô hình sản xuất,
kinh doanh nhỏ, lẻ và thường phổ biến tại các
vùng nông thôn trong các lĩnh vực sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp. Mặc dù Tổ hợp tác
tiếp tục được Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định thế nhưng Bộ luật này lại không đưa ra
định nghĩa về Tổ hợp tác. Tuy nhiên, căn cứ
khoản 1, Điều 111 của Bộ luật Dân sự năm
2005 trước đây quy định về Tổ hợp tác như
sau: “Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở
hợp đồng hợp tác có chứng thực của Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá
nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức
để thực hiện những công việc nhất định, cùng
hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ
thể trong các quan hệ dân sự”. Trên thực tế,
mô hình Tổ hợp tác khá thích hợp khi sản
xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực, ngành
nghề không đòi hỏi phải có nhiều vốn cũng
như nhiều lao động tham gia.
Bên cạnh các mô hình kinh doanh trên thì
pháp luật của Việt Nam hiện nay quy định
chính thức các loại hình doanh nghiệp sau:
+ Doanh nghiệp tư nhân (private
enterprise): “đây là loại hình doanh nghiệp
dân doanh và do một chủ sở hữu duy nhất”
(Nguyễn Vinh Hưng, 2017). Ngay từ khi
Việt Nam bắt đầu xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luật
Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 đã được ban
hành. Thời kỳ mới xuất hiện, loại hình doanh
nghiệp tư nhân khá gần gũi với tầng lớp
thương nhân tại Việt Nam thời kỳ đầu đổi
mới. Tuy nhiên, cho đến nay, loại hình doanh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
94
nghiệp tư nhân ngày càng kém thu hút nhà
đầu tư lựa chọn bởi loại hình doanh nghiệp
này tồn tại khá nhiều hạn chế. Vì thế, một số
năm gần đây, nếu so với loại hình công ty
một chủ sở hữu khác điển hình như công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì khả
năng thu hút, cạnh tranh của doanh nghiệp tư
nhân thậm chí còn kém hơn.
Nguồn: (Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, 2018), Tình hình chung về đăng ký doanh
nghiệp tháng 01/2018.
+ Công ty cổ phần (joint stock company):
là loại hình công ty rất phổ biến trên thế giới
và ngay tại Việt Nam hiện nay. Công ty cổ
phần có khả năng thu hút nguồn vốn rộng rãi
và là công ty lý tưởng khi kinh doanh trong
phạm vi lớn hoặc thậm chí rất lớn. Theo quy
định tại khoản 3, Điều 110 của Luật Doanh
nghiệp năm 2014 thì công ty cổ phần là loại
hình công ty duy nhất tại Việt Nam có khả
năng phát hành cổ phần các loại trên thị
trường chứng khoán. Từ những lý do trên, có
thể thấy loại hình công ty cổ phần là công ty
có khả năng thu hút đầu tư mạnh mẽ và rất
phù hợp với các nhà đầu tư có dự định kinh
doanh lớn và luôn cần huy động nguồn vốn
rộng rãi. Vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế
giới đều quy định sự tồn tại của công ty cổ
phần và thường tạo nhiều chính sách hỗ trợ
cho sự phát triển của loại hình công ty này.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên (one member limited liability company)
là loại hình công ty một chủ sở hữu. Tuy
nhiên, khác với doanh nghiệp tư nhân, công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là loại
hình công ty thuộc hình thức của công ty đối
vốn. Vì thế, chủ sở hữu của công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên được hưởng
chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn về mặt tài
sản. Điều này có nghĩa, chủ sở hữu của công
ty này chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm
vi số vốn góp của họ tại công ty. So với chủ
doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm
bằng tất cả tài sản thì rõ ràng loại hình công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có sự
đảm bảo an toàn cho chủ sở hữu của nó. Vì
thế, loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên được đa số nhà đầu tư khi dự
định kinh doanh một mình lựa chọn. Đây là
xu hướng không chỉ tại Việt Nam mà đang
diễn ra tại một số quốc gia khác, “lịch sử
phát triển của các công ty thời gian gần đây
cho thấy công ty trách nhiệm hữu hạn một
người chiếm vị trí khá quan trọng ở các nước
châu Âu” (Bùi Ngọc Cường, 2010, 59).
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên là loại hình doanh nghiệp rất phổ
biến tại Việt Nam trong một số năm gần đây.
Về cơ bản, công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên có “cơ cấu tổ chức khá gọn
gàng vì chỉ tồn tại trong khoảng từ 2 thành
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
95
viên đến tối đa 50 thành viên. Mặt khác,
thành viên của công ty còn được hưởng chế
độ trách nhiệm hữu hạn về tài sản” (Nguyễn
Vinh Hưng, 2016, 40 - 42). Đây là lợi thế rất
lớn của công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên. Chính vì thế, công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có khá
nhiều thuận lợi để phát triển và thu hút mạnh
mẽ các nhà đầu tư tham gia. So với các yêu
cầu, đòi hỏi của thành phần kinh tế tư nhân
tại Việt Nam hiện nay thì loại hình công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên về
cơ bản có thể đáp ứng được.
+ Công ty hợp danh (general partnership)
là loại hình công ty có nhiều điểm khác biệt
so với tất cả các loại hình công ty còn lại. Về
bản chất, công ty hợp danh là công ty thuộc
loại hình của công ty đối nhân. Vì vậy, công
ty hợp danh đề cao các mối quan hệ hợp tác
và sự gắn bó mật thiết, chặt chẽ giữa các
thành viên với nhau. Nguyên tắc pháp định,
“các thành viên hợp danh của công ty hợp
danh phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên
đới trước mọi khoản nợ của công ty”
(Nguyễn Vinh Hưng, 2016, 22). Vì thế, các
thành viên hợp danh phải thực sự tin tưởng
đến mức sống chết có nhau. Cũng chính vì
vậy, vấn đề vốn góp trong công ty hợp danh
chỉ là yếu tố thứ yếu. Mặc dù công ty này có
khá nhiều điểm phù hợp với tâm lý kinh
doanh và truyền thống thương mại của giới
đầu tư tại Việt Nam thế nhưng trên thực tế,
hiện nay loại hình công ty hợp danh khá ít.
3. Định hướng các mô hình kinh doanh để
phát triển thành phần kinh tế tư nhân tại
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế ảnh hưởng và tác
động rất mạnh mẽ lên các thành phần kinh tế
của từng quốc gia. Bởi lẽ, các quan hệ kinh tế
trong thời kỳ hội nhập khá đa dạng, phong
phú nhưng cũng rất cạnh tranh. Điều này đòi
hỏi từng thành phần kinh tế phải không
ngừng nỗ lực để tồn tại và phát triển. Đối với
thành phần kinh tế tư nhân của Việt Nam,
điểm yếu của thành phần kinh tế này là
thường không có sự liên kết, nhỏ lẻ, rời rạc.
Đến khi phải cạnh tranh với các công ty hoặc
thậm chí với các tập đoàn kinh tế lớn của
nước ngoài thì thành phần kinh tế tư nhân
của Việt Nam sẽ rất khó khăn. Điều này đòi
hỏi hệ thống pháp luật về mô hình kinh
doanh của Việt Nam hiện nay phải tạo ra
hành lang pháp lý phù hợp để hỗ trợ cho sự
phát triển của các thành phần kinh tế tư nhân.
Thời gian gần đây, có nghiên cứu cho
rằng: “Qua nghiên cứu truyền thống thương
mại của người Việt Nam cho thấy, cơ sở để
một loại hình doanh nghiệp có thể phát triển
tốt tại Việt Nam thì loại hình doanh nghiệp
đó phải thỏa mãn các điều kiện như: (i) quy
mô của doanh nghiệp không quá lớn nhưng
lại có thể dễ dàng mở rộng quy mô trong dài
hạn; (ii) Giữa các thành viên của doanh
nghiệp phải luôn tồn tại sự tin tưởng lẫn
nhau; (iii) Doanh nghiệp phải đảm bảo sự an
toàn về mặt pháp lý trước pháp luật, tạo niềm
tin cho các khách hàng và cơ cấu tổ chức,
quản trị điều hành không quá phức tạp”
(Nguyễn Vinh Hưng, 2015, 33). Ngoài ra,
nghiên cứu khác cũng chỉ rõ: “doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm 95% tổng số doanh nghiệp
ở Việt Nam, được đánh giá là lực lượng năng
động, có đóng góp nhiều cho tăng trưởng
GDP” (Đỗ Thị Kim Tiên, 2013, 42). Hay
trong báo cáo của Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam (VCCI) thì: “trong số hơn
500.000 doanh nghiệp đang hoạt động, các
doanh nghiệp cỡ lớn chỉ chiếm khoảng 2%
và cũng ngần ấy phần trăm các doanh nghiệp
cỡ vừa. Còn lại 95 - 96% là các doanh nghiệp
nhỏ và siêu nhỏ. Riêng doanh nghiệp siêu
nhỏ (dưới 10 lao động) đã chiếm tới 66 -
67%. Nếu tính cả các hộ kinh doanh cá thể
đang hoạt động trong nền kinh tế thì tỷ lệ
doanh nghiệp siêu nhỏ có thể chiếm tới
99,9%” (Báo điện tử Dân trí, 2014). Đồng
thời, theo nghiên cứu của Viện nghiên cứu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
96
quản lý kinh tế Trung Ương: “Nhiều nghiên
cứu và thực tế đã chỉ ra rằng chính các doanh
nghiệp nhỏ và vừa là một động lực quan
trọng thúc đẩy phát triển và đổi mới kinh tế -
xã hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã thực
sự định nghĩa lại những thị trường hoàn toàn
mới, khởi đầu làn sóng sáng tạo - đổi mới
không chỉ cho quốc gia mà cả thế giới” (Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương,
2010).
Theo chúng tôi, các nhận định trên là phù
hợp với điều kiện và hoàn cảnh của nền kinh
tế tại Việt Nam hiện nay. Đồng thời, trong
một chừng mực nhất định thì các tiêu chí trên
cũng khá phù hợp để thúc đẩy thành phần
kinh tế tư nhân phát triển. Cũng từ đó, có thể
dự báo mô hình kinh doanh nhỏ, vừa và đề
cao sự tin cậy giữa các thành viên sẽ có thể
tồn tại và phát triển hiệu quả, mạnh mẽ tại
Việt Nam và rất phù hợp với thành phần kinh
tế tư nhân. Bên cạnh đó, nếu xét đến các yếu
tố như tâm lý kinh doanh, truyền thống
thương mại hay đặc điểm của thành phần
kinh tế tư nhân và đồng thời đối chiếu với
các mô hình kinh doanh hiện nay, có thể đưa
đến các nhận định:
+ Mô hình cá nhân kinh doanh có lợi thế
là việc thành lập đơn giản và đồng thời mọi
lợi nhuận thu được từ kết quả sản xuất, kinh
doanh sẽ chỉ thuộc về bản thân người chủ
kinh doanh. Hơn nữa, nguồn vốn để đầu tư
sản xuất, kinh doanh thường không lớn, nên
điều này tạo thuận lợi cho hầu hết các chủ thể
kinh doanh. Tuy nhiên, mô hình kinh doanh
này còn khá nhiều hạn chế như không có khả
năng thu hút nguồn vốn lớn để mở rộng
phạm vi sản xuất, kinh doanh. Hay do phải
kinh doanh một mình và tự chịu trách nhiệm
nên bản thân người chủ kinh doanh không
thể điều tiết, san sẻ rủi ro kinh doanh cho
người khác. Đồng thời, mô hình kinh doanh
này thường có khuynh hướng phát triển tự
phát nên thời gian tồn tại khá ngắn. Bên cạnh
đó, về phía pháp luật thì việc quản lý hoạt
động kinh doanh của các cá nhân kinh doanh
thường gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Bởi
trên thực tế, các chủ thể kinh doanh hoạt
động khá tùy tiện và thường thay đổi địa
điểm kinh doanh hay thay đổi lĩnh vực kinh
doanh mà rất ít khi thông báo cho các cơ
quan quản lý. Vì vậy, nếu để mô hình cá
nhân kinh doanh phát triển ổn định, bền
vững, hiệu quả lâu dài thì Nhà nước cần phải
tổ chức và quản lý chặt chẽ hơn mô hình kinh
doanh này. Như vậy, khi xem xét triển vọng
dài lâu thì mô hình cá nhân kinh doanh
không thực sự là mô hình kinh doanh phù
hợp để phát triển thành phần kinh tế tư nhân.
+ Về mô hình kinh doanh Tổ hợp tác và
Hộ gia đình thì có điểm chung đây đều là các
chủ thể kinh doanh với quy mô hoạt động
tương đối nhỏ, sản xuất giản đơn và sử dụng
ít lao động. Hai mô hình kinh doanh này chỉ
thực sự phù hợp ở các vùng nông thôn và
thường gặp khó khăn về vốn do khó cạnh
tranh với các loại hình doanh nghiệp, khó mở
rộng quy mô phát triển (Nguyễn Vinh Hưng,
2018, 74). Bởi, thông thường tại các vùng
này, các chủ thể kinh doanh hay có sự liên
kết hoặc tổ chức hợp tác trong phạm vi gia
đình, họ hàng, làng xóm với nhau để cùng
tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh
nhỏ lẻ. Tuy nhiên, để cạnh tranh với các loại
hình doanh nghiệp hay khi có nhu cầu mở
rộng quy mô phát triển thì các chủ thể kinh
doanh trên đều gặp phải rất nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, hiện nay, quy định tại Điều 101
của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cả Tổ hợp
tác và Hộ gia đình đều không có tư cách
pháp nhân trong các quan hệ dân sự (Quốc
Hội, 2015). Điều này càng gây khó khăn cho
các mô hình kinh doanh trên trong trường
hợp nếu phải tham gia vào các quan hệ dân
sự, thương mại yêu cầu chủ thể kinh doanh
bắt buộc phải có tư cách pháp nhân như: căn
cứ điểm a, mục 3.1.1 quy định về tư cách
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
97
pháp lý của tổ chức thiết kế tại Thông tư của
Bộ xây dựng số 01/BXD-CSXD ngày 15 - 4 -
1997: “tổ chức tư vấn, thiết kế thực hiện
công trình của dự án đầu tư phải có tư cách
pháp nhân”; hay khoản 1, Điều 15 của Nghị
định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8 - 7 - 1999 về
Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng: “Tổ
chức tư vấn đầu tư và xây dựng là các tổ
chức nghề nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế, có tư cách pháp nhân”; Hoặc khi muốn
tham gia vào quỹ thành viên của loại hình
quỹ đầu tư chứng khoán “bắt buộc tất cả các
thành viên góp vốn phải là pháp nhân. Vốn
của quỹ loại hình này, không phải do công
chúng đầu tư đóng góp mà do các thành viên
của quỹ, gồm những tổ chức có tư cách pháp
nhân đóng góp” (Phạm Thị Giang Thu, 2012,
272). Vì thế, để phát triển thành phần kinh tế
tư nhân thì cả hai chủ thể kinh doanh Tổ hợp
tác và Hộ gia đình đều chưa phải là các chủ
thể kinh doanh phù hợp.
+ Đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân
và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên thì điểm chung giữa chúng đều thuộc
loại hình công ty một chủ sở hữu duy nhất.
Điểm mạnh của các công ty một chủ sở hữu
là người chủ kinh doanh hoàn toàn có quyền
tự quyết định mọi vấn đề của công ty. Nói
cách khác, quyền lực của người chủ sở hữu
không bị chia sẻ cho bất cứ thành viên nào
khác. Đồng thời với đó là việc quản lý điều
hành công ty khá đơn giản, dễ dàng. Tuy
nhiên, khó khăn chung của cả hai loại hình
công ty này đó là đều bị giới hạn, bó hẹp
trong quy mô kinh doanh nhỏ lẻ. Đến giai
đoạn đòi hỏi nguồn vốn lớn thì các loại hình
công ty một thành viên này càng gặp phải
khó khăn. Hơn nữa, tâm lý chung của các
nhà đầu tư hiện nay thường mong muốn mở
rộng hợp tác, liên kết nhằm để san sẻ bớt rủi
ro kinh doanh hoặc tìm kiếm, chia sẻ thêm cơ
hội phát triển thì các loại hình công ty một
chủ sở hữu càng trở nên khó cạnh tranh với
các loại hình công ty có nhiều chủ sở hữu. Vì
thế, trên thực tiễn kinh doanh cho thấy, cả hai
loại hình công ty này hiện chỉ tồn tại trong
phạm vi kinh doanh nhỏ lẻ. Thế nên, khi xem
xét khả năng phát triển lâu dài thì cả hai loại
hình công ty này đều chưa thực sự là các lựa
chọn thích hợp để phát triển thành phần kinh
tư nhân trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
+ Về loại hình công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên thì có thể nhận
định, đây là một loại hình công ty có nhiều
điểm khá phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của
thành phần kinh tế tư nhân tại Việt Nam
trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, khi
xem xét từ yếu tố tâm lý kinh doanh của các
nhà đầu tư hiện nay cho thấy, các nhà đầu tư
của Việt Nam vẫn chưa thật sự thoát khỏi
thói quen kinh doanh theo kiểu thân thiết,
quen biết hay tin tưởng, phụ thuộc lẫn nhau.
Hơn nữa, đại đa số các chủ thể kinh tế tư
nhân vẫn còn giản đơn nên chưa thể đạt tới
quy mô, trình độ tổ chức và tính chuyên
nghiệp cao. Vì thế, mô hình của công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên khá phù
hợp với thành phần kinh tế tư nhân. Bởi công
ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
là loại hình công ty chỉ giới hạn trong phạm
vi từ 2 đến 50 thành viên nên vẫn là loại hình
công ty có cơ cấu tổ chức, quản trị điều hay
hay quy mô hoạt động chưa thật sự lớn. Hơn
nữa, khác với công ty cổ phần, thành viên
của công ty này thường vẫn duy trì mối quan
hệ thân thiết với nhau. Nói cách khác, “công
ty tồn tại dựa trên sự quen biết và tin tưởng
giữa các thành viên. Mối quan hệ cá nhân
giữa họ là nền tảng cho công ty trách nhiệm
hữu hạn” (Phạm Duy Nghĩa, 2004, 267). Tất
cả những điều này tạo ra những thuận lợi
nhất định cho công ty cũng như cho các
thành viên của công ty.
Tuy nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên còn tồn tại khá nhiều
hạn chế như việc chuyển nhượng phần vốn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
98
của các thành viên luôn bị pháp luật hạn chế
hay tính chất trách nhiệm hữu hạn về tài sản
đôi khi có thể làm giảm trách nhiệm của các
thành viên với khách hàng. Chính vì vậy, có
nhận định cho rằng: “đôi khi các công ty này
chỉ là tấm bình phong để một số thương nhân
sử dụng để hạn chế rủi ro. Vì thế, các chủ
ngân hàng và cả người dân thường, khi thỏa
thuận cho công ty trách nhiệm hữu hạn vay
mượn thường đòi hỏi sự bảo lãnh của thành
viên chính của công ty” (Francis Lemeunier,
1993, 247). Hay “khi làm ăn với công ty
trách nhiệm hữu hạn khách hàng có nhiều lý
do để cẩn trọng” (Phạm Duy Nghĩa, 2009,
71). Từ đó, chúng tôi cho rằng, để loại hình
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của
thành phần kinh tế tư nhân và có thể hạn chế
bớt các hậu quả bất lợi cho xã hội thì cần
xem xét đến vấn đề các ngành, nghề, lĩnh vực
kinh doanh của công ty này. Cụ thể, các
ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh có thể gây
hậu quả hay có khả năng nguy hại, ảnh
hưởng lớn cho xã hội như y tế (mở phòng
khám chữa bệnh tư, cửa hàng bán thuốc chữa
bệnh và các vật tư ngành y tế), dịch vụ pháp
lý (văn phòng, công ty luật hay dịch vụ công
chứng tư, dịch vụ thừa phát lại) thì không
nên cho phép các chủ thể kinh doanh được tổ
chức hoạt động theo mô hình của công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
hoặc ngay cả công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên. Vì đây đều là các ngành,
nghề, lĩnh vực kinh doanh có khả năng gây
tổn hại, ảnh hưởng rất lớn cho người sử dụng
các dịch vụ của chúng nên rất cần đòi hỏi các
chủ thể kinh doanh các dịch vụ kể trên phải
chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản. Có như
vậy, khi kinh doanh các dịch vụ trên, những
người chủ kinh doanh mới có thể tự nâng cao
ý thức cũng như tinh thần trách nhiệm tốt
hơn. Từ đó, đối với công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên thì nên khuyến
khích và tạo nhiều điều kiện để loại hình
công ty này phát triển tại Việt Nam nhưng
cần đặc biệt chú ý đến vấn đề cho phép kinh
doanh các ngành, nghề kể trên.
+ Đối với loại hình công ty cổ phần, có
thể khẳng định, đây là loại hình công ty rất
thích hợp trong nền kinh tế thị trường hiện
đại và khá phù hợp với thành phần kinh tế tư
nhân tại Việt Nam (Nguyễn Vinh Hưng,
2018, 74). Bởi như đã phân tích, công ty cổ
phần có khả năng thu hút đầu tư mạnh mẽ và
giới hạn rủi ro tài chính cho các cổ đông. Tuy
vậy, trên thực tế thì kinh nghiệm kinh doanh,
quản lý hay hiểu biết về pháp luật của đại bộ
phận không nhỏ người tham gia kinh doanh
hiện vẫn rất hạn chế. Điều này gây ra không
ít khó khăn cho các nhà đầu khi kinh doanh
theo mô hình của công ty cổ phần. Bởi công
ty cổ phần lại là loại hình công ty được tổ
chức và vận hành rất chặt chẽ và khoa học.
Vì thế, để kinh doanh loại hình công ty này
đòi hỏi phải có sự am hiểu các quy định pháp
luật tương đối tốt. Tuy nhiên, như đã trình
bày, việc am hiểu pháp luật của công ty cổ
phần thực sự không phải là điều dễ dàng,
thuận lợi đối với hầu hết nhà kinh doanh của
Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, liên quan đến
công ty cổ phần thì cần phải xem xét thêm
vấn đề “đạo đức kinh doanh của một bộ phận
người tham gia kinh doanh hiện nay rất yếu
kém” (Thu Thùy, 2013). Trong thời gian gần
đây, những vụ lừa đảo, hay kinh doanh thiếu
đạo đức, vi phạm pháp luật vẫn diễn ra và
ngày càng có khuynh hướng nhiều và tinh vi
hơn trước. Trong đó, điều đáng nói là phần
lớn những chủ thể kinh doanh này đang tồn
tại dưới hình thức của công ty cổ phần. Bởi
khi tham gia vào công ty cổ phần thì các cổ
đông được hưởng chế độ trách nhiệm hữu
hạn về tài sản. Cổ đông có thể giới hạn trước
khả năng thua lỗ và khoản lỗ không bao giờ
ảnh hưởng đến các nguồn tài sản khác của cổ
đông. Chính vì thế, không ít cổ đông lợi dụng
tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn để kinh
doanh chủ quan, thiếu tinh thần trách nhiệm
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
99
và đã gây ra các hậu quả nghiêm trọng cho
khách hàng.
Chúng tôi cho rằng, để loại hình công ty
cổ phần có thể phù hợp và thúc đẩy sự phát
triển của thành phần kinh tế tư nhân thì pháp
luật cần sửa đổi, bổ sung và xây dựng thêm
nhiều chế tài xử phạt mạnh mẽ, nghiêm khắc
đối với các hoạt động kinh doanh vi phạm
pháp luật của công ty cổ phần. Ngoài ra,
cũng giống với các lĩnh vực, ngành, nghề
kinh doanh của loại hình công ty trách nhiệm
hữu hạn thì đối với công ty cổ phần, pháp
luật cũng nên xem xét đến phạm vi các lĩnh
vực hoạt động kinh doanh của cả công ty
này. Trên thực tế, thời gian trước đây, Điều
17 và Điều 19 của Pháp lệnh Luật sư năm
2001 từng có quy định, khi kinh doanh các
dịch vụ pháp lý thì bắt buộc phải kinh doanh
dưới hình thức là các văn phòng luật hoặc
phải thành lập theo mô hình công ty luật hợp
danh và mô hình này được tổ chức gần như
theo mô hình công ty hợp danh trong Luật
Doanh nghiệp. Hoặc quy định hiện nay đối
với Văn phòng Thừa phát lại, nếu do một
Thừa phát lại thành lập thì được tổ chức và
hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư
nhân, còn nếu do hai Thừa phát lại trở lên
thành lập thì sẽ tổ chức và hoạt động theo mô
hình công ty hợp danh (Thủ tướng Chính
phủ, 2009, khoản 4, Điều 1 của Quyết định
số 224). Điều này chứng tỏ, pháp luật ngày
càng quan tâm hơn đến vấn đề định hướng
ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh theo đặc
thù của từng loại hình công ty. Như vậy,
càng cần thiết phải định hướng các ngành,
nghề, lĩnh vực kinh doanh của loại hình công
ty cổ phần.
Theo chúng tôi nên quy định các ngành,
nghề, lĩnh vực kinh doanh với quy mô lớn và
thường xuyên cần huy động nguồn vốn (ngân
hàng, xây dựng, chứng khoán, vui chơi giải
trí, hàng không, vận tải, hoặc lĩnh vực may
mặc với quy mô sản xuất kinh doanh rất
lớn) thì mới được phép thành lập với mô
hình của công ty cổ phần. Đây đều là những
ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh lớn và yêu
cầu mở rộng quy mô hoạt động diễn ra rất
nhanh chóng. Cổ phiếu của các ngành này
thường thu hút được đông đảo giới đầu tư
mua, bán nên đó còn là nguồn hàng hóa giá
trị trên thị trường chứng khoán. Nếu các
ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh trên tổ
chức theo hình thức của công ty cổ phần thì
mới thật sự hiệu quả và phát huy hết khả
năng của loại hình công ty này.
+ Về công ty hợp danh, khác với tất cả
các loại hình công ty khác, công ty hợp danh
là công ty duy nhất thuộc hình thức của loại
hình công ty đối nhân. Điểm mạnh của công
ty hợp danh chính là công ty này luôn đảm
bảo an toàn về mặt pháp lý rất cao cho các
khách hàng và chủ nợ. Nguyên tắc pháp định
các thành viên hợp danh của công ty hợp
danh phải liên đới và chịu trách nhiệm vô
hạn về mọi nghĩa vụ tài sản của công ty. Điều
đó có nghĩa, đến khi công ty hợp danh không
thể thanh toán nợ thì chủ nợ có thể yêu cầu
từng thành viên hợp danh phải thanh toán các
khoản nợ của công ty. Trong các trường hợp
này, tài sản của từng thành viên hợp danh có
thể khánh kiệt cùng với sự thua lỗ của công
ty hợp danh. Công ty hợp danh có thể gây ra
nhiều bất lợi cho thành viên của nó nhưng bù
lại, đây lại là sự yên tâm và bảo đảm rất cao
cho các khách hàng hay chủ nợ khi giao dịch
với công ty. Các ngân hàng hoặc các chủ nợ
thường dễ dàng cho công ty hợp danh vay
mượn hơn so với các loại hình công ty khác.
Bên cạnh đó, do đặc thù là công ty đối nhân
nên mối quan hệ thân thiết, quen biết và tin
tưởng giữa các thành viên luôn được coi
trọng. Đây cũng là các yếu tố then chốt,
quyết định dẫn tới sự thành lập và tồn tại của
công ty này. Quy mô của công ty hợp danh
thường không quá lớn nên đây lại là thuận lợi
đối với các nhà kinh doanh chỉ với dự định
kinh doanh với quy mô vừa hoặc nhỏ và lại
muốn duy trì mối quan hệ thân thiết giữa các
thành viên với nhau.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
100
Phù hợp với nhận định này, thời gian
trước cũng đã có ý kiến cho rằng: “Trong
điều kiện của nước ta hiện nay, việc pháp
luật ghi nhận loại hình công ty đối nhân cũng
là cần thiết, phù hợp với truyền thống của
người Việt Nam là quan hệ họ hàng bền chặt.
Với tư tưởng, “một giọt máu đào hơn ao
nước lã” những người họ hàng với nhau họ
tin tưởng vào nhau hơn. Đặc biệt là trong
điều kiện, có ít vốn, họ chỉ muốn liên kết lại
với nhau để kinh doanh chung, lấy công ty
làm lãi là chủ yếu, do đó rất thích hợp với
loại hình công ty đối nhân” (Nguyễn Thị Khế
và cộng sự, 1999, 195). Nghiên cứu trong
thời gian gần đây: “từ niềm tin, thói quen,
các thiết chế cho đến khả năng quản lý có
nhiều cơ sở để dự báo mô hình kinh doanh
chủ yếu của người Việt Nam trong một tương
lai gần vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, sức
mạnh của họ chủ yếu là niềm tin giữa những
người trong gia đình, dòng họ, bạn bè”
(Phạm Duy Nghĩa, 2004, 338). Điều này
càng khẳng định tầm quan trọng, vai trò của
các doanh nghiệp vừa hoặc nhỏ tại Việt Nam
và cũng như triển vọng phát triển của chúng
thời gian tới. Từ đó cho thấy công ty hợp
danh cũng là loại hình công ty khá phù hợp
để thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh
tế tư nhân tại Việt Nam trong giai đoạn hiện
tại và cả lâu dài.
Chúng tôi cho rằng, để công ty hợp danh
có thể phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của
thành phần kinh tế tư nhân hơn nữa thì cần
thiết nên quy định những ngành, nghề, lĩnh
vực kinh doanh với quy mô vừa hoặc nhỏ và
luôn đòi hỏi trách nhiệm rất cao về mặt pháp
lý thì phải bắt buộc đăng ký hoạt động dưới
mô hình của công ty hợp danh. Bởi như đã
phân tích, công ty này có sự đảm bảo an toàn
về mặt pháp lý rất cao. Khi kinh doanh trong
các lĩnh vực vốn đòi hỏi sự đảm bảo rất cao
về chất lượng và dịch vụ, những người chủ
kinh doanh sẽ luôn ý thức và tự nâng cao
trách nhiệm khi cung cấp các dịch vụ đó cho
khách hàng. Nhờ đó, khách hàng sử dụng
dịch vụ có thể yên tâm và được bảo vệ tốt
hơn. Có như vậy, chúng ta mới phát huy tốt
nhất các thế mạnh của loại hình công ty hợp
danh và góp phần thúc đẩy sự phát triển của
thành phần kinh tế tư nhân.
4. Kết luận
Kinh tế tư nhân là một bộ phận không thể
tách rời của nền kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trên
thực tế, kinh tế tư nhân ngày càng thể hiện vị
trí, vai trò cũng như ảnh hưởng, đóng góp to
lớn. Có thể khẳng định, kinh tế tư nhân là
một trong những động lực chủ đạo để phát
triển nền kinh tế và đồng thời, kinh tế tư
nhân có phát triển thì mới góp phần giúp cho
kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với kinh
tế quốc tế. Vì vậy, nhằm khơi thông, thu hút
nguồn vốn đầu tư để tăng trưởng và phát
triển kinh tế thì việc quan tâm, hỗ trợ thành
phần kinh tế tư nhân là rất cần thiết. Trong
đó, việc mở rộng, đa dạng hóa các mô hình
chủ thể kinh doanh và định hướng các loại
hình doanh nghiệp phù hợp để thúc đẩy kinh
tế tư nhân là vấn đề rất quan trọng. Sau khi
nghiên cứu thực trạng môi trường kinh doanh
tại Việt Nam, hay đặc điểm của thành phần
kinh tế tư nhân cũng như điểm mạnh, điểm
yếu của từng mô hình chủ thể kinh doanh thì
có thể khẳng định, công ty hợp danh, công ty
cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên đều là các loại hình công ty
khá phù hợp trong nền kinh tế thị trường hội
nhập quốc tế tại Việt Nam hiện nay và hơn
nữa, các loại hình công ty này đều có thể
thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh tế
tư nhân. Tuy nhiên, để các loại hình công ty
này phát triển ổn định, bền vững và góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân thì cần
chú ý đến vấn đề định hướng kinh doanh các
loại hình công ty trên. Thiết nghĩ, việc quy
định cụ thể các ngành, nghề, lĩnh vực kinh
doanh dưới hình thức công ty hợp danh, công
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
101
ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên đều không làm hạn chế
quyền tự do, sáng tạo trong kinh doanh. Bởi
chỉ với mục đích định hướng các ngành,
nghề, lĩnh vực kinh doanh đi theo đúng trật
tự, hoạt động an toàn, hiệu quả và để phù hợp
với thế mạnh của từng loại hình công ty và
còn nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển ổn
định, bền vững, lâu dài của thành phần kinh
tế tư nhân tại Việt Nam trong giai đoạn phát
triển kinh tế thị trường hội nhập quốc tế./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo điện tử Dân trí (2014). 99,9% doanh nghiệp Việt Nam là siêu nhỏ?!. Nguồn truy cập:
,
truy cập ngày 22/3/2018.
Báo điện tử Dân trí (2018). Tăng trưởng GDP năm 2017 đạt 6.81% nhờ kinh tế tư nhân. Nguồn
truy cập:
nhan-2017122906400637.htm , truy cập ngày 17/8/2018.
Báo điện tử Tiền phong (2017). “Chết” vì mua nhà đất theo tin đồn. Nguồn truy cập:
, truy cập
ngày 16/6/2018.
Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia (2018). Tình hình chung về đăng ký doanh
nghiệp tháng 01/2018. Nguồn truy cập:
https://dangkykinhdoanh.gov.vn/Default.aspx?tabid=91&ArticleID=3149&language=vi-
VN, truy cập: 17/8/2018.
Ngô Huy Cương (2013). Giáo trình Luật Thương mại phần chung và thương nhân. Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 119.
Bùi Ngọc Cường (2010). Giáo trình Luật Thương mại, tập 1. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam,
tr. 59.
Phạm Văn Dũng (2011). Các thành phần kinh tế nhận thức lý luận và thực tiễn Việt Nam. Tạp
chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27, tr. 5.
Nguyễn Trí Dĩnh và cộng sự (2007). Giáo trình lịch sử kinh tế. Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, tr. 285.
Nguyễn Thị Khế và cộng sự (1999). Luật kinh doanh. NXB Thống kê, tr. 195.
Nguyễn Vinh Hưng (2015). Cần xây dựng loại hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế Việt
Nam. Tạp chí Dân chủ pháp luật, 08/2015, tr. 33.
Nguyễn Vinh Hưng (2016). Các nguyên tắc của công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp năm
2014. Tạp chí Dân chủ pháp luật, 05/2016, tr. 22.
Nguyễn Vinh Hưng (2016). Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên trong môi
trường kinh doanh hiện nay. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16/2016, tr. 40 - 42.
Nguyễn Vinh Hưng (2017). Doanh nghiệp tư nhân và sự phù hợp với môi trường thương mại
tại Việt Nam. Tạp chí Nghề Luật, số 02, tr. 11 - 15.
Nguyễn Vinh Hưng (2017). Từ truyền thống thương mại đến việc định hướng loại hình doanh
nghiệp tham gia kinh doanh tại Việt Nam. Tạp chí Quản lý Kinh tế, số 83, tháng
7+8/2017, tr. 74 - 76.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
102
Nguyễn Vinh Hưng (2018). Phát triển loại hình doanh nghiệp phù hợp để thúc đẩy kinh tế tư
nhân tại Việt Nam, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 264, tháng 01/2018, tr. 72 - 75.
Francis Lemeunier (1993). Nguyên lý và thực hành Luật thương mại, Luật kinh doanh. Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 247.
Khánh Nam (2016). Tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế đất
nước. Nguồn truy cập từ địa chỉ: https://goo.gl/2Uhj2M, ngày truy cập 22/3/2018.
Phạm Duy Nghĩa (2004). Chuyên khảo Luật Kinh tế. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 338.
Phạm Duy Nghĩa (2009). Luật Doanh nghiệp: tình huống - phân tích - bình luận. Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 71.
Alan Phan (2013). Muốn khuyến khích đầu tư phải củng cố niềm tin. Nguồn:
https://goo.gl/fRdnqa, truy cập ngày 15/3/2018.
Phạm Thị Giang Thu (chủ biên 2012). Giáo trình Luật chứng khoán. Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, tr. 272.
Thu Thùy (2013). Khi lương tâm chỉ bằng những chai rượu giả. Nguồn truy cập:
,
truy cập ngày 24/3/2018.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2011). Giáo trình Quản trị kinh doanh. Nhà xuất bản Đại
học Kinh tế quốc dân, tr. 27.
Đỗ Thị Kim Tiên (2013), Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng doanh
nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ & pháp luật, số 09, tr. 42.
Thủ tướng Chính phủ (2009). Quyết định sô 224/QĐ-TTg ngày 19/2/2009 của Thủ tướng
Chính phủ về Phê duyệt đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố
Hồ Chí Minh”. Khoản 4, Điều 1.
Tổng cục Thống kê (2016). Động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam 5 năm 2011 -
2015. Nhà xuất bản Thống kê, tr. 165.
Phạm Quang Vinh (2011). Giáo trình Kinh tế học Vĩ mô. Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia
Hà Nội, tr. 135.
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương - Cổng thông tin kinh tế Việt Nam (2010). Phát
triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Nguồn truy cập:
vn/Cac-loai-hinh-doanh-nghiep/Phat-trien-Doanh-nghiep-nho-va-vua-o-Viet-Nam.html ,
truy cập: 23/3/2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dinh_huong_cac_mo_hinh_kinh_doanh_de_phat_trien_kinh_te_tu_n.pdf