Định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn trong 5 năm tới của Đảng và Nhà nước ta đề ra, nhằm đưa ra các giải pháp phân bổ vốn ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001- 2005

Sau khi dự toán NSNN đã được Quốc hội xem xét và phê duyệt, Bộ Tài chính sẽ phân bổ kinh phí ngân sách trung ương cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo dự toán, sau đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tiếp tục phân bổ kinh phí tới tận các đơn vị cơ sở. Đối với NSĐP Bộ Tài chính sẽ phân bổ cho UBND các cấp và từ UBND các cấp đến các đơn vị cơ sở. Nhưng thường thì UBND các cấp điều hành chấp hành Ngân sách địa phương trong tình thế bị động, Ở nhiều tỉnh, thành phố Ngân sách địa phương thu không đủ chi phải trông chờ vào sự trợ cấp của Ngân sách trung ương hoặc do nguồn thu NSNN trong những tháng đầu năm đạt thấp trong khi nhu cầu chi ở những tháng đầu năm lại nhiều, đặc biệt là tập chung đầu tư cho xây dựng cơ bản nhưng nguồn dự trữ tài chính chỉ có hạn, từ đó luôn đặt ngân sách địa phương trong tình trạng căng thẳng. Như vậy giải pháp ở đây là cải cách chế độ chi sao cho phù hợp, đảm bảo cân đối giữa thu và chi. Còn đối với những công trình XDCB vốn đầu tư lớn thì Ngân sách trung ương phải có trách nhiệm hỗ trợ một phần vốn cho Ngân sách địa phương.

doc70 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn trong 5 năm tới của Đảng và Nhà nước ta đề ra, nhằm đưa ra các giải pháp phân bổ vốn ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001- 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng thực 5% cao hơn tốc độ tăng dân số ( 2%) nên lương thực bình quân đầu người cũng tăng dần qua các năm: từ 372 kg năm 1995 lên 455 kg năm 2000. Trong lương thực, sản xuất lúa tăng nhanh và ổn định cả về diện tích và năng suất. Những năm gần đây diện tích lúa gieo trồng cũng có tăng lên nhưng mức độ tăn chậm đặc biệt là từ năm 1996 diện tích gieo trồng cả nước là 7003,8 nghìn ha tăng lên 7099,7 nghìn ha năm 1997. Từ năm 1997 trở lại đây diện tích gieo trồng lúa có tăng nhanh hơn cụ thể : diện tích canh tác năm 1998 là 7337,4 nghìn ha; năm 1999 là 7648,1 nghìn ha và đến năm 2000 ước tính là 7671,2 nghìn ha. Sở dĩ diện tích canh tác tăng lên là do khai hoang và do tăng vụ. Cơ cấu mùa vụ và cây trồng đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng diện tích lúa đông xuân, lúa hè thu, giảm diện tích lúa mùa có năng suất thấp, tạo điều kiện để thâm canh tăng năng suất lúa từng vụ và cả năm. Thành tựu mở rộng diện tích lúa rõ nét nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2000, diện tích lúa vùng này đạt 3,97 triệu ha, tăng 1,39 triệu ha, chủ yếu do khai hoang, tăng vụ ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu. Cùng với mở rộng diện tích, những năm qua sản xuất lúa ở nước ta còn đạt được tiến bộ về thâm canh tăng năng suất và nâng cao chất lượng lúa gạo. Trình độ thâm canh lúa của nông dân tăng lên cùng với sự tác động tích cực của khoa học-kỹ thuật, nhất là giống lúa mới đã tạo ra sự phát triển ổn định về năng suất từ 37,7 tạ / ha năm 1996 lên 38,8 tạ / ha năm 1997; 39,7 tạ / ha năm 1998; 41 tạ / ha năm 1999 và 42,6 tạ / ha năm 2000. Năng suất lúa tăng bình quân gần 1 tạ / ha một năm. Vì vậy, tăng năng suất lúa là yếu tố quan trọng làm tăng sản lượng lúa của nước ta từ 26.396,7 nghìn tấn năm 1996 lên 32,5 triệu tấn năm 2000 ( số liệu cụ thể qua các năm ở Bảng 1), bình quân mỗi năm tăng thêm 1,2 triệu tấn, năm sau cao hơn năm trước. Song song với những tiến bộ về tăng vụ, chuyển vụ và thâm canh lúa, trong những năm qua đã hình thành một số vùng lúa đặc sản phục vụ xuất khẩu ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Long An, Sóc Trăng, Cần Thơ, Tiền Giang, đều qui hoạch vùng lúa thâm canh cao, chất lượng tốt phục vụ yêu cầu xuất khẩu. Trung bình mỗi tỉnh có từ 10 đến 20 vạn ha lúa đặc sản, với nhiều chủng loại khác nhau nhưng có đặc điểm giống nhau là hạt gạo dài, thơm ngon, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Tỉnh An Giang đã xuất hiện mô hình liên doanh sản xuất lúa xuất khẩu gắn với thị trường tiêu thụ ở Nhật Bản, theo qui trình công nghệ của Nhật Bản. ở vùng đồng bằng Sông Hồng, nhiều địa phương đã khôi phục vùng lúa gạo đặc sản có chất lương cao chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước ( như tám thơm, lúa dự hương, nếp cái hoa vàng, các giống lúa mới có chất lượng cao). Vùng lúa áp dụng công nghệ Nhật Bản ở Hải Dương, Hưng Yên bước đầu phát huy tác dụng đối với thâm canh lúa vùng này. Sản lượng và chất lượng lúa tăng lên trong những năm qua đã ghốp phần tích cực bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong điều kiện thời tiết không thuận, đẩy lùi tình trạng thiếu đói giáp hạt ở các tỉnh miền Bắc, tăng lượng gạo xuất khẩu. Trong 3 năm từ 1996-1998 nước ta xuất khẩu 10,4 triệu tấn gạo, nhiều hơn lượng gạo xuất khẩu 5 năm trước đó 1 triệu tấn đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới sau Thái Lan. Kim ngạch xuất khẩu gạo năm 1998 đạt trên 1 tỷ USD, chiếm khoảng 11% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Chất lượng gạo tăng do cơ cấu gạo xuất khẩu, tỷ trọng gạo 25% tấm giảm xuống còn 30% hiện nay. Nếu từ năm 1995 về trước chênh lệch giá gạo cùng loại xuất khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan là 40-50 USD/ tấn, thì hiện nay chỉ còn 15-20 USD/ tấn. Cùng với lúa, sản xuất ngô phát triển khá ổn định ghóp phần bổ sung nguồn lương thực cho người và thức ăn cho gia súc. Năm 2000 diện tích ngô cả nước là hơn 70 vạn ha, năng suất 26,6 tạ/ ha và sản lượng 1,93 triệu tấn, là cây màu lương thực chủ yếu hiện nay và trong tương lai. Cùng với việc mở rộng diện tích, việc áp dụng tiến bộ công nghệ sinh học, đặc biệt là đưa các giống ngô lai năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất đại trà, đã tạo ra sự đột biến về năng suất và sản lượng ngô. Đã hình thành một số vùng ngô tập chung qui mô lớn, nhiều sản phẩm hàng hoá như vùng Đông Nam Bộ (30 vạn tấn), miền núi, trung du Bắc Bộ ( 50 vạn tấn). Ngô đã trở thành một mặt hàmg nông sản xuất khẩu với qui mô trên 100 ngàn tấn/ năm và có khả năng tăng trong những năm tới. Với kết quả đó, nước ta đã vượt được mục tiêu sản xuất lương thực của năm 2000 vào năm 1998 và năm 2000 còn vượt nhiều hơn 5,6 triệu tấn. Ngoài những kết quả đạt được của nông nghiệp trong sản xuất lương thực mà còn đạt được rất nhiều thành tựu khác trong trồng trọt, chăn nuôi…Đó là chăn nuôI phát triển nhanh và toàn diện. Năm 2000, đàn lợn đạt 20,2 triệu con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 1,4 triệu tấn, đàn bò sữa cũng tăng khá; Lâm nghiệp và thuỷ sản cũng tăng nhanh về sản lượng. Năm 2000, diện tích trồng rừng đạt 10,9 triệu ha, sản lượng thuỷ sản đạt hơn 2,1 triệu tấn. Tóm lại những kết quả đạt được trong sản xuất nông nghiệp giai đoạn 1996-2000 là những kết quả rất đáng khích lệ, nó là cơ sở cho những bước phát triển tiếp theo ở giai đoạn sau. III.2. Những thành tựu về phát triển kinh tế-xã hội nông thôn. Cùng với những thành tựu đạt được trong phát triển nông nghiệp kéo theo sự phát triển các lĩnh vực khác, các ngành khác ở nông thôn Cơ cấu kinh tế nông thôn đang chuyển dịch theo hướng tích cực. Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, cơ cấu kinh tế nông thôn cũng có những chuyển biến tích cực thể hiện ở Bảng 2 dưới đây: Biểu 7A: Cơ cấu GDP của cả nước thời kỳ1996-2000(*Nguồn Báo kinh tế Việt Nam 2000-2001_Thời báo kinh tế ) Đơn vị tính: % 1996 1997 1998 1999 2000 Công nghiệp 29,73 32,08 32,70 35,50 36,61 Nông nghiệp 27,70 25,77 25,98 25,43 24,30 Dịch vụ 42,51 42,15 42,32 40,67 39,09 Biểu 7B: Cơ cấu GDP của khu vực nông thôn thời kỳ 1996-2000(** Nguồn Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 1/2001 ) Đơn vị tính:% 1996 1997 1998 1999 2000 Công nghiệp 14,70 15,50 15,90 16,10 16,40 Nông nghiệp 71,50 70,80 70,30 70,20 70,10 Dịch vụ 13,80 13,70 13,80 13,70 13,50 Biểu trên cho thấy, trong cơ cấu GDP của toàn bộ nền kinh tế, nông nghiệp, tuy tăng về tuyệt đối, nhưng giảm về tỷ trọng vì tốc độ tăng công nghiệp và dịch vụ cao hơn nông nghiệp nhiều lần. Riêng hai năm 1999 và năm 2000 thì cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể, đó là tỷ trọng của ngành công nghiệp có tăng từ 32,7 năm 1998 lên 35,50 năm 1999 và 36,61 năm 2000. Trong khi đó các ngành nông nghiệp và dịch vụ lại có xu hướng giảm dần về tỷ trọng. Điều này cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta có nhiều biến động theo chiều hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và giảm tỷ trọng nông nghiệp và dịch vụ mà mục tiêu phát triển kinh tế nước ta là tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ và giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP. Cơ cấu GDP của khu vực nông thôn cũng vậy, cả công nghiệp và dịch vụ đều tăng mạnh, trong khi nông nghiệp giảm vào các năm từ 1996 đến năm 1998 nhưng hai năm 1999 và năm 2000 lại có sự thay đổi. Đó là tỷ trọng ngành công nghiệp tiếp tục tăng từ 15,90 năm 1998 lên 16,10 năm 1999 và 16,40 năm 2000 và tỷ trọng của các ngành nông nghiệp và dịch vụ cũng lại tiếp tục giảm. So với cơ cấu GDP của toàn nền kinh tế thì cơ cấu GDP của khu vực nông thôn có sự khác biệt rất lớn.Bởi trong khu vực nông thôn ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn thường trên 70% trong khi các ngành còn lại mỗi ngành chỉ có trên 10%, điều đó cũng đúng vì rằng khu vực nông thôn kinh tế phát triển chủ yếu là nông nghiệp. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn đã hình thành và phát triển trong các lĩnh vực chế biến, vận chuyển, phơi sấy, bảo quản nông, lâm thuỷ sản và sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp. ở những vùng sản xuất hàng hoá nông sản tập trung, quy mô lớn như lúa gạo ĐBSCL, cà phê ở Tây Nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ, thuỷ sản ở các vùng ven biển…đã và đang hình thành một số trung tâm công nghiệp chế biến nông thuỷ sản với quy mô vừa và nhỏ, được trang bị máy móc và thiết bị tương đối hiện đại, có khả năng đáp ứng các nhu cầu sơ chế, tinh chế sản phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Đến nay, ở vùng ĐBSCL trên 90% sản lượng lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu được say xát và đánh bóng tại các cơ sở sản xuất công nghiệp-dịch vụ tư nhân ở Sa Đéc, Cần Thơ, Long Xuyên… với tổng công suất 2000-3000 tấn/ ngày. Mô hình cụm, trung tâm công nghiệp phục vụ nông nghiệp đã có tác động tích cực tới sản xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực nông thôn. Tại các vùng ven đô, do tác động của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá nên cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển nhanh theo hướng công nghiệp và dịch vụ. Từ năm 1997, một số huyện ngoại thành TP HCM được chuyển sang quận nội thành, tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá được đẩy nhanh kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, phi nông nghiệp. ở các vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Trung du miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tuy có chậm hơn so với Nam Bộ nhưng cũng có những khởi sắc trên một số ngành và địa phương. Tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng, các nghề mới xuất hiện và phát triển, thu hút ngày càng nhiều lao động nông thôn, tạo ra sự phân công lao động mới ở những vùng đất hẹp, người đông. Hà Tây, Nam Định, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình là những tỉnh điển hình tại miền Bắc có chuyển biến tích cực trong chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn. Cơ cấu kinh tế trong nội bộ khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản thời kỳ 1996-2000 được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của ngành nông nghiệp và giảm dần tỷ trọng của ngành lâm nghiệp, thuỷ sản. Tuy nhiên trong thời gian tới nên đầu tư nhằm nâng cao dần tỷ trọng của ngành thuỷ sản bởi đây là ngành có giá trị xuất khẩu cao thu về nhiều ngoại tệ cho đất nước. Bảng 3 dưới đây cho thấy sự chuyển dịch rõ rệt trong cơ cấu của nội bộ ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: Biểu 8: Tỷ trọng nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành giai đoạn 1996-2000 (*) Nguồn số liệu thống kê nông-lâm nghiệp, thuỷ sản Việt Nam 1975-2000 _ NXB thống kê 2000 Tạp chí con số và sự kiện số1+2/2000 (giá so sánh năm 1994) Đơn vị tính: % 1996 1997 1998 1999 2000 Nông nghiệp 80,50 80,90 80,80 81,80 86,04 Lâm nghiệp 5,20 4,80 5,00 4,40 4,00 Thuỷ sản 14,30 14,30 14,20 13,80 9,96 Tổng 100 100 100 100 100 Trong nội bộ ngành nông nghiệp (nghĩa hẹp), cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi cũng có những thay đổi nhất định. Trong giai đoạn 1996-1998 tỷ lệ này là 80/20 do tốc độ tăng trưởng của chăn nuôi cao hơn trồng trọt. Đời sống nông dân được cải thiện. Nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển, thu nhập và đời sống của tuyệt đại đa số nông dân được cải thiện rõ rệt. Hầu hết có đủ lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng. Đồ dùng gia đình lâu bền được mua sắm nhiều, nhà ở được xây dựng khang trang. Bình quân thu nhập đầu người năm 1989 mới chỉ có 21.000 đồng, năm 1995 là 169.000 đồng, 1996 là 188.000 đồng, năm 1998 là 212.000 đồng và năm 1999 là 225.000 đồng. Năm 1999 thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng 19,7% so với năm 1996 hay tăng 6,2%/năm. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng 1,3%/năm. Mặc dù mức tăng hàng năm là không cao nhưng nó cũng ghóp phần giảm số hộ đói nghèo từng bước nâng cao đời sống nông dân. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở nông thôn từ 30% năm 1989 giảm xuống còn 15,96% năm 1999 tức là bình quân giảm nghèo được 2%/năm, nhiều vùng nông thôn không còn hộ đói. Tỷ lệ hộ giàu từ 3% năm 1989 tăng lên 10% vào năm 1999. Sở dĩ thu nhập bình quân của người nông dân thấp hơn nhiều so với các vùng thành thị là do cơ cấu thu nhập của dân cư nông thôn chủ yếu dựa vào nông nghiệp và lâm nghiệp (48,03%) và xu hướng này ít thay đổi so với các năm trước trong khi giá cả nông, lâm, thuỷ sản không ổn định, biến đông theo hướng bất lợi cho người nông dân, nhất là người trồng lúa nên dù những năm qua nông nghiệp có tăng trưởng nhưng thu nhập của người nông dân không tăng với tốc độ tương ứng. Sự giảm sút của giá nông sản mà giá của các mặt hàng công nghiệp tăng với tốc độ nhanh hơn làm doãng cánh kéo giá cả giữa hai nhóm mặt hàng này kéo theo sự giảm thu nhập thực tế của người nông dân. Tuy trong những năm gần đây Chính phủ đã sử dụng rất nhiều biện pháp ngăn chặn sự giảm sút giá cả của nông sản nhằm bảo vệ sản xuất cho người nông dân như biện pháp tăng mua lượng gạo tạm trữ của Nhà nước… Với những kết quả này Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao trong nỗ lực xoá đói, giảm nghèo và từng bước thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Cơ sở hạ tầng nông thôn có những bước tiến đáng kể. Trong những năm qua mặc dù nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn nhưng nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn được quan tâm đầu tư đáng kể. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tập trung chủ yếu vào việc xây dựng các công trình: hệ thống thuỷ lợi, mạng lưới giao thông nông thôn, điện nông thôn, trạm y tế,trường học, bưu chính viễn thông, phát thanh truyền hình,… * Nhận xét: Trong thời gian qua, những kết quả to lớn đạt được nêu trên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn đã cho thấy được vai trò của đầu tư vốn cho phát triển nông nghiệp nông thôn mà đứng đầu là đầu tư từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước. Tuy vậy, qua 4 năm thực hiện luật NSNN, việc quản lý và kiểm soát chi NSNN cho nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp nông thôn đã bộc lộ một số tồn tại cần khắc phục như sau: Quy mô và cơ cấu đầu tư từ NSNN cho nông nghiệp nông thôn trong tổng đầu tư của NSNN chưa hợp lý. Bởi vì trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước luôn xác định đầu tư cho nông nghiệp nông thôn là hướng đầu tư trọng điểm, coi đây là cơ sở để phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Nhưng thực tế thì việc chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn hàng năm đều nhỏ hơn rất nhiều so với nhu cầu cần phải chi. Mặt khác lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta lại khó khăn về mọi mặt, lĩnh vực nào cũng cần phải đầu tư và đầu tư nhiều. Tuy nguồn vốn đầu tư từ NSNN cho nông nghiệp nông thôn đã hạn hẹp nhưng tình trạng đầu tư không đúng mức, đúng chỗ của NSNN ở các địa phương vẫn liên tục diễn ra hàng năm làm tổn thất hàng tỷ đồng. Thực tế những tổn thất này chủ yếu ở NSNN do địa phương quản lý bởi một phần do năng lực cán bộ quản lý NSĐP dẫn đến tình trạng xét cấp Ngân sách tuỳ tiện, không đúng chế độ. Hơn nữa việc phân cấp quản lý NSNN không rõ ràng do tính bao hàm của Ngân sách cấp trên đối với Ngân sách cấp dưới thể hiện rõ nhất trong quá trình lập, duyệt, tổng hợp dự toán, phân bổ ngân sách; cấp trên vẫn can thiệp vào công việc của cấp dưới. Điều này vừa hạn chế tính chủ động sáng tạo của ngân sách cấp dưới vừa là nguyên nhân dẫn đến sự thoả hiệp , thương lượng trong quá trình lập dự toán và quan liêu trong quản lý NSNN. Thực tế những mục tiêu mà Chính phủ đề ra cho phát triển nông nghiệp nông thôn là những mục tiêu mà để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi phải có một thời gian dài và lượng vốn đầu tư rất lớn. Do đó nếu không có một cơ chế quản lý hợp lý sẽ dẫn đến thất thoát vốn đầu tư mà không đạt được các mục tiêu đó. ở phần trên cho ta thấy rất rõ vai trò của các nguồn tài chính ngoài NSNN đối với phát triển nông nghiệp nông thôn như nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, nguồn vốn đầu tư từ các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác… Nhưng hiện nay việc huy động các nguồn tài chính này gặp rất nhiều khó khăn. Đó là khó khăn trong cơ chế huy động vốn của Nhà nước, khó khăn trong quản lý thực hiện và một khó khăn nữa là thông thường các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp nông thôn nhất là đầu tư dưới hình thức FDI chỉ nhằm đầu tư vào những vùng có lợi nhuận cao mà Nhà nước lại mong muốn đầu tư vào những vùng còn khó khăn để phát triển vùng này, điều này là rất khó xảy ra. Đối với chính sách thuế và tín dụng của Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn cũng còn nhiều bất cập, cụ thể: vốn đầu tư ở khu vực nông thôn có độ rủi ro cao nhưng cơ chế bảo đảm an toàn cho đồng vốn là không có. Việc huy động vốn tại chỗ gặp nhiều khó khăn trong khi nhu cầu vay rất lớn. Hiện tại ngân hàng và các tổ chức tín dụng ở nông thôn chỉ mới đáp ứng được 50% nhu cầu vay vốn nên việc thiếu vốn sản xuất hoặc phải đi vay với lãi suất cao là thực tế. Nhưng việc mở rộng và tăng nhanh tỷ lệ đầu tư vẫn còn nhiều vướng mắc như lãi suất cho vayvà cấp bù lỗ của NSNN; chính sách thuế nông nghiệp ta thấy việc qui định mức thuế sử dụng đất nông nghiệp tuỳ thuộc từng hạng đất và các yếu tố khác như khí hậu, độ phì nhiêu của đất…rất phức tạp và khó xác định. Hơn nữa việc qui định thuế nhà đất được tính từ 1 đến 32 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp cũng chưa hợp lý, không phù hợp với việc Nhà nước qui định giá các loại đất. Tóm lại: Trong công tác quản lý tài chính nông nghiệp nói chung và quản lý chi NSNN nói riêng trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn có những tồn tại chưa phù hợp với yêu cầu quản lý. Vì thế để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội khu vực nông thôn trong kế hoạch 5 năm (2001-2005) cần phải có những phương hướng, biện pháp hợp lý thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp nông thôn. Phần III: Định hướng phân bổ vốn đầu tư từ NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001-2005. Mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (2001-2005). I.1. Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm và một số chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế-xã hội. Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm (2001-2005): Tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững; chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nâng cao rõ rệt chất lượng,sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế; xây dựng một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về phát huy nhân tố con người, giáo dục và đào tạo; phát triển khoa học và công nghệ; giải quyết các vấn đề bức xúc về việc làm, cơ bản xoá đói và giảm mạnh số hộ nghèo, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, ổn định và cải thiện hơn đời sống của nhân dân; tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo; giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Một số chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế-xã hội: - Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân: 7%/ năm - Tỷ lệ lạm phát dự kiến : 5-6%/ năm - Kim ngạch xuất khẩu : 12-14,5%/ năm - Giải quyết việc làm : 1,5-1,6 triệu người/ năm - Tổng chi NSNN trong 5 năm : 720-750 nghìn tỷ - Tỷ lệ huy động và NSNN trong 5 năm: 20-21% GDP I.2. Định hướng phát triển ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn: Chuyển đổi nhanh cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đưa nông nghiệp chiếm từ 75-76% giá trị toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp vào năm 2005 (trong đó, trồng trọt khoảng 54-57%, chăn nuôi khoảng 15-16%, dịch vụ nông nghiệp khoảng 2-3%). Coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế về khí hậu, đất đaivà lao động của từng vùng, từng địa phương. ứng dụng tốt khoa học, công nghệ vào sản xuất; gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến; gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ. Đến năm 2005 đưa sản lượng lương thực lên 37-38 triệu tấn; trồng mới 1,3 triệu ha rừng, nâng độ che phủ của rừng lên 38-39%; đưa sản lương thuỷ sản lên 2,4 triệu tấn, giá trị xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng trên 4%/ năm. Dự kiến đến năm 2005, cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP khoảng 20-21% với cơ cấu lao động thì chiếm 56-57% tổng số lao động có việc làm. Về cung-cầu lương thực: Tổng sản lượng lương thực 5 năm 2001-2005 dự kiến 170-175 triệu tấn (trong đó thóc 155-160 triệu tấn); lương thực hàng hoá khoảng 65-70 triệu tấn, trong đó sử dụng trong nước khoảng 25-30 triệu tấn, xuất khẩu 16-18 triệu tấn ( khoảng 33-36 triệu tấn thóc), đưa thêm vào dự trữ quốc gia. II. Nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn Để tiến hành phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn nhu cầu về vốn rất lớn. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII đã nêu rõ: ” phải tăng tỷ lệ vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn “. Số vốn trên đây chủ yếu tập trung đầu tư một số cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông nghiệp và phát triển sản xuất, trồng rừng và bảo vệ rừng. Biểu 9 ước tính nhu cầu về vốn đầu tư đến năm 2005(*) Nguồn Viện kinh tế quy hoạch- Bộ Thuỷ sản Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân- Bộ Kế hoạch và Đầu tư Viện Ké hoạch &Qui hoạch- Bộ NN&PTNT Đơn vị tính: nghìn tỷ Tổng nhu cầu Bình quân mỗi năm Nông nghiệp 150.000 30.000 Lâm nghiệp 15.000 3.000 Thuỷ sản 16.500 5.500 Riêng nhu cầu vốn chỉ tính cho các vùng chuyên canh nông,lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và cơ sở hạ tầng nông thôn chưa kể đến vốn đầu tư ngoài các vùng chuyên canh và vốn chi cho các hoạt động sự nghiệp khác. Như vậy, tổng nhu cầu vốn ước tính bình quân hàng năm vào khoảng 38.500 nghìn tỷ đồng còn nếu tính tất cả khác khoản phải chi khác nữa thì tổng nhu cầu vốn đầu tư vào khoảng 45.000 đến 50.000 tỷ đồng. Vấn đề đặt ra ở đây là để có lượng vốn cần thiết đó thì phải huy động từ những nguồn nào và khả năng đáp ứng của các nguồn đó là bao nhiêu. Thực tế là ở lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn việc thu hút các nhà đầu tư vào là rất khó, từ trước đến nay nguồn vốn ODA và FDI đầu tư vào nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ trọng không cao do hiệu quả đầu tư thấp, tỷ suất lợi nhuận thấp. Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì trong 5 năm tới nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam khoảng 13 tỷ USD ( Báo Đầu tư số 49/2001). Như vậy, bình quân mỗi năm đầu tư khoảng 2,6 tỷ USD, trong đó 8% nguồn vốn này sẽ đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn tức là 208 triệu USD ( tính theo tỷ giá hối đoái hiện hành thì bằng khoảng 3 nghìn tỷ đồng Việt Nam ). Nguồn vốn ODA thì đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn lại nhiều hơn, chủ yếu đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng. Theo tính toán sơ bộ, nguồn vốn ODA trong 5 năm tới đầu tư vào nước ta khoảng 10 Tỷ USD, bình quân mỗi năm sẽ là 2 tỷ USD. Dự tính nguồn vốn nay đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn chiếm khoảng 15% tức là khoảng 300 triệu USD mỗi năm ( tính theo tỷ giá hối đoái hiện hành thì bằng khoảng 4.200 tỷ đồng Việt Nam ). Cho nên đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ trọng lớn chỉ có nguồn vốn từ NSNN và nguồn vốn trong nước khác mà thôi. Do vậy trong thời gian tới ngoài các chính sách của Nhà nước khuyến khích đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp nông thôn thì Nhà nước vẫn xác định nguồn vốn đầu tư từ NSNN và nguồn vốn tín dụng và nguồn từ các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế cộng với nguồn vốn tự có của người dân địa phương là nguồn vốn chính cho phát triển nông nghiệp nông thôn, nhất là nguồn vốn Ngân sách Nhà nước. Trong phần trên ta đã nêu ra, dự kiến tổng chi NSNN trong 5 năm (2001-2005) là 720-750 nghìn tỷ đồng ( mỗi năm chi bình quân khoảng từ 144-150 nghìn tỷ đồng) với cơ cấu chi là khoảng 25-26% chi đầu tư phát triển; chi thường xuyên khoảng 57-58% phần còn lại là chi trả nợ. Dự tính rằng để tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Nhà nước phải tăng tỷ trọng đầu tư từ NSNN cho nông nghiệp lên khoảng 30% ( tức là vào khoảng từ 43,2-45 nghìn tỷ đồng) mỗi năm mới đáp ứng được nhu cầu. Nhưng trong thời gian tới mỗi năm Nhà nước dự kiến NSNN chi cho nông nghiệp nông thôn khoảng 26% tổng đầu tư mỗi năm tức là vào khoảng37 đến 39 nghìn tỷ đồng và phần còn lại sẽ huy động từ các thành phần kinh tế khác và vốn tự có cuả người dân. Nhà nước ta cũng dự báo rằng, trong 5 năm tới khả năng huy động từng nguồn vốn vào khoảng 780-840 nghìn tỷ đồng (theo giá năm 2000) tương đương 56-60 tỷ USD. Trong đó, đầu tư phát triển từ NSNN chiếm 19-20%, tăng 7%/ năm. Đầu tư bằng tín dụng Nhà nước chiếm 16-19%, tăng 6-9%/ năm, còn lại ở các khu vực khác kể cả nguồn huy động từ nước ngoài. Với tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội đó dự kiến phân bổ: 15% đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tăng 3,5%so với mức bình quân thời kỳ 1996-2000. Điều này chứng tỏ rằng Đảng và Nhà nước vẫn luôn coi trọng vào đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. Thực tế nhìn nhận rằng, khả năng đầu tư của Nhà nước không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn của nông nghiệp và nông thôn. Bởi NSNN vốn đã hạn hẹp lại phải phân bổ cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau của xã hội. Bên cạnh đó Nhà nước cũng phải giành một phần lớn NSNN để trả nợ cho nước ngoài ( khoảng 17-18% tổng chi Ngân sách Nhà nước trong 5 năm từ 2001-2005), điều đó có nghĩa là nước ta còn rất khó khăn về vốn cho đầu tư phát triển. Như vậy, chúng ta phải có một chính sách, một cơ chế phân bổ vốn hợp lý để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đề ra trong 5 năm tới. Một cách khác, chúng ta có thể hiểu rằng: “Ngân sách Nhà nước như một cái bánh lớn, vấn đề đặt ra là phải chia làm sao cho hợp lý chứ không phải chia đều cho các ngành, các lĩnh vực khác nhau ” III. Định hướng phân bổ vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn từ NSNN. III.1. Định hướng phân bổ vốn NSNN cho các lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là phải tạo ra một cơ cấu chi hợp lý trong tổng số chi NSNN cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tức là mặc dù vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn có tăng lên trong thời gian tới nhưng không thể đầu tư mỗi nơi một ít được, vì thế chi NSNN chỉ nên tập chung cho một số lĩnh vực quan trọng. Trong nông nghiệp NSNN nên tập trung chi cho công tác nghiên cứu khoa học tìm ra và đưa vào sản xuất các loại giống cây, giống con mới có năng suất cao, phẩm chất tốt; đẩy mạnh chi cho công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Trong nông thôn thì NSNN nên tập chung chi cho một số lĩnh vực sau: + Cơ sở hạ tầng: Nhà nước nên tiếp tục hỗ trợ vốn, kỹ thuật để xây dựng và phát triển hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn như tiếp tục chi cho việc xây dựng, duy tu và bảo dưỡng các công trình thuỷ lợi; về vấn đề giao thông nông thôn và điện nông thôn Nhà nước chỉ nên đóng vai trò là người đưa ra các chính sách, các chế độ huy động vốn, huy động sức dân chứ không nên đầu tư 100% cho công trình; hỗ trợ thêm với NSĐP để xây dựng thêm các công trình phúc lợi xã hội như : trường học, trạm xá, nhà văn hoá…Đối với cơ sở hạ tầng Nhà nước vẫn duy trì ở mức 50-60% tổng đầu tư của Nhà nước vào khu vực nông nghiệp nông thôn + Để phát triển kinh tế nông thôn và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông sang đa ngành Nhà nước nên dần dần đưa các xí nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ về khu vực nông thôn. Về giải pháp ta có thể học kinh nghiệm của một số nước như Trung Quốc, Đài Loan. Bước đầu Nhà nước nên đưa các xí nghiệp chế biến về địa phương, như thế vừa gần vùng nguyên liệu vừa góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn. Đồng thời đầu tư phát triển các nhà máy cơ khí chế tạo, hoá chất phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Ngoài ra Nhà nước cũng cần có những biện pháp để khuyến khích các loại hình thương mại và dịch vụ và các loại hình dịch vụ văn hoá phục vụ cho khu vực nông thôn nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho bà con nông dân. + Đối với lĩnh vực nông nghiệp thì để phát triển lĩnh vực này Nhà nước tiếp tục đầu tư vào cho công tác nghiên cứu khoa học tìm ra các loại giống cây, giống con mới thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng và nâng cao chất lượng nông sản. Bên cạnh đó Nhà nước cũng nên quan tâm đến công tác khuyến nông, khuyến lâm và khuyến ngư bởi đây cũng là tiền đề cho phát triển ngành nông nghiệp nước ta. III.2. Định hướng về phương thức sử dụng vốn NSNN Thông thường khi đầu tư vốn NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn thì Nhà nước chủ yếu đầu tư dưới ba hình thức sau: Thứ nhất là phân bổ vốn đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn. Trong những năm gần đây, đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn Nhà nước thường đầu tư dưới dạng các chương trình hay các dự án bởi các nguyên nhân sau: + Để phát triển toàn diện nông nghiệp nông thôn đòi hỏi đầu tư phát triển rất nhiều lĩnh vực khác nhau như về kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế…muốn vậy phải có sự kết hợp của nhiều ngành, nhiều vùng, nhiều lĩnh vực. Một số mục tiêu khác phản ánh những vấn đề kinh tế-xã hội bức xúc, nổi cộm ở nông thôn như nước sạch, vệ sinh môi trường…cần phải giải quyết trong một khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác do có các đặc đIểm đó, việc thực hiện một số mục tiêu này không thể giải quyết bằng các cơ chế giải pháp thông thường, mà phải bằng cơ chế giải pháp đặc thù. Do vậy các chương trình, dự án đã ra đời để đáp ứng yêu cầu này. + Việc đầu tư của Nhà nước để phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn bằng các chương trình thì Nhà nước rất dễ quản lý hoạt động của các chương trình đó. Cụ thể là quản lý về nhân sự, đối tượng thụ hưởng, quản lý về tiến độ thực hiện và đặc biệt là quản lý vốn sử dụng cho chương trình nhất là các chương trình sử dụng vốn NSNN vì thực tế vốn đầu tư cho các chương trình này có khối lượng rất lớn, chỉ có Nhà nước trực tiếp quản lý mới giảm bớt được thất thoát vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn Những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn cho thấy được vai trò của hình thức đầu tư dưới dạng các chương trình rất quan trọng bởi chúng đều mang lại hiệu quả rất cao. Trong thời gian tới, để đạt được mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn Nhà nước sẽ phải đầu tư nhiều và như vậy hình thức đầu tư này sẽ được vận dụng rất nhiều. Thứ hai là phân bổ vốn theo hình thức cấp phát vốn cho các vùng, các địa phương Đây là hình thức rất được phổ biến ở nước ta trong thời kỳ bao cấp bởi vì để thực hiện và đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội Nhà nước trực tiếp cấp phát vốn cho các đơn vị, các ngành, các địa phương. Nhưng trong những năm trở lại đây (từ sau Đại hội Đảng VI) khi nền kinh tế nước ta thực hiện theo cơ chế phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì hình thức cấp phát vốn này giảm dần do trong quá trình cấp phát trực tiếp có thất thoát vốn mà hiệu quả sử dụng lại không cao. Tuy nhiên trong một số trường hợp Nhà nước vẫn phải duy trì hình thức phân bổ vốn này đặc biệt là cấp phát vốn cho đầu tư phát triển ở khu vực nông thôn, khu vực vùng sâu, vùng xa. Thứ ba là phân bổ vốn theo hình thức cho vay tín dụng Cấp phát vốn NSNN cho người nông dân vay thông qua hình thức cho vay tín dụng bằng hệ thống các ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đến nay đã phát triển mạnh mẽ ở khắp các địa phương trên cả nước. Đây cũng là chủ trương của Nhà nước nhằm khuyến khích người nông dân mong muốn đầu tư phát triển kinh tế hộ gia đình nhưng không có vốn. Hình thức này đã mang lại hiệu quả rất cao vì khi chuyển nền sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá thì nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình cũng như các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn rất lớn, trong khi phần vốn tự có của họ bị hạn chế. Về phía Nhà nước việc phát triển hệ thống tín dụng sẽ đẩy nhanh vòng quay của tiền tệ trong nền kinh tế đồng thời giúp cho người nông dân tự làm giàu cho bản thân, cho xã hội góp phần ổn định kinh tế xã hội của đất nước. Các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả của phân bổ và sử dụng vốn NSNN cho nông nghiệp nông thôn. Thứ nhất : Tăng cường quản lý việc sử dụng NSNN trong quá trình phân bổ nhằm bảo đảm nguyên tắc chi tiết kiệm, hiệu quả. Tăng cường quản lý sử dụng NSNN là hết sức cần thiết, nó thể hiện trách nhiệm của Chính phủ cũng như các cơ quan quản lý tài chính Nhà nước trong việc giảm thiểu tình trạng thất thoát ngân sách trong quá trình đầu tư và kết quả đạt được của mỗi dự án, chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn. Quản lý chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn được thực hiện ngay từ khâu lập dự toán cấp phát ngân sách đến việc giám đốc, kiểm tra các khoản chi bởi có chặt chẽ như vậy mới bảo đảm hiệu quả đầu tư của NSNN.Đây được coi là một chu trình quản lý NSNN hoàn chỉnh. * Lập, xét duyệt, phê duyệt dự toán NSNN Để lập dự toán phù hợp trước hết phải căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương đó, ngoài ra cần căn cứ vào định hướng phát triển của Nhà nước trong từng thời kỳ để chi đúng, chi đủ nhằm khai thác hết tiềm năng của địa phương đó. Cho nên nó là bước quan trọng nhất vì nó quyết định có đầu tư hay không.Đối với Ngân sách địa phương, quá trình lập dự toán qui định cụ thể trình tự lập và trách nhiệm của từng đơn vị địa phương từ cấp xã. Hàng năm dự toán Ngân sách địa phương do HĐND tỉnh phê duyệt còn UBND tỉnh là cơ quan điều hành Ngân sách cấp mình. Tuy nhiên, trong thực tế, việc xây dựng dự toán NSNN thường không bảo đảm yêu cầu mà thường rất chậm, rất phức tạp qua nhiều khâu, nhiều lần trong cùng một cấp. Quyết định dự toán Ngân sách do Quốc hội phê chuẩn vì vậy quyết định phê duyệt dự toán phê duyệt của HĐND chỉ mang tính hình thức.Từ đó mà có tình trạng dự toán Ngân sách mà chất lượng không cao, tính khả thi thấp . Vì vậy, thực hiện qui trình Quốc hội quyết định dự toán Ngân sách trung ương và trợ cấp cho Ngân sách cấp dưới còn HĐND quyết định dự toán Ngân sách cấp mình. Tạo điều kiện cho các cấp chính quyền chủ động hơn nữa trong khâu lập dự toán * Tổ chức thực hiện chi NSNN Sau khi dự toán NSNN đã được Quốc hội xem xét và phê duyệt, Bộ Tài chính sẽ phân bổ kinh phí ngân sách trung ương cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo dự toán, sau đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tiếp tục phân bổ kinh phí tới tận các đơn vị cơ sở. Đối với NSĐP Bộ Tài chính sẽ phân bổ cho UBND các cấp và từ UBND các cấp đến các đơn vị cơ sở. Nhưng thường thì UBND các cấp điều hành chấp hành Ngân sách địa phương trong tình thế bị động, ở nhiều tỉnh, thành phố Ngân sách địa phương thu không đủ chi phải trông chờ vào sự trợ cấp của Ngân sách trung ương hoặc do nguồn thu NSNN trong những tháng đầu năm đạt thấp trong khi nhu cầu chi ở những tháng đầu năm lại nhiều, đặc biệt là tập chung đầu tư cho xây dựng cơ bản nhưng nguồn dự trữ tài chính chỉ có hạn, từ đó luôn đặt ngân sách địa phương trong tình trạng căng thẳng. Như vậy giải pháp ở đây là cải cách chế độ chi sao cho phù hợp, đảm bảo cân đối giữa thu và chi. Còn đối với những công trình XDCB vốn đầu tư lớn thì Ngân sách trung ương phải có trách nhiệm hỗ trợ một phần vốn cho Ngân sách địa phương. * Công tác thanh tra, kiểm tra Ngân sách Kết hợp với việc tổ chức chi NSNN là việc kiểm tra giám sát việc sử dụng kinh phí tại các phòng nông nghiệp huyện, xã, các cơ sở nông nghiệp. Quá trình kiểm tra cho thấy được nhưng hạn chế trong tổ chức chi Ngân sách ở cả địa phương và trung ương Có thể thực hiện kiểm tra thưỡng xuyên hoặc kiểm tra đột xuất. Kiểm tra thường xuyên: Sau khi cấp phát ngân sách và phân phối kinh phí cho các đơn vị sử dụng, các cơ quan tài chính như phòng tài chính, sở tài chính yêu cầu các đơn vị sử dụng kinh phí lập quyết toán chi tiết cụ thể từng nhu cầu chi, kết hợp với thời gian sử dụng kinh phí. Từ đó biết được tình hình và mức độ hoàn thành từng nhu cầu chi. Kiểm tra điểm, đột xuất: Khi có một vài đơn vị cơ sở thực hiện quản lý chưa tốt, có xảy ra thất thoát, lãng phí cơ quan tài chính phải tiến hành kiểm tra ngay, xử lý kịp thời để giảm bớt hậu quả gây ra. Hoặc kiểm tra đột xuất một đơn vị cơ sở nào đó về tình hình chi để thấy được tình hình thực tế nếu tốt cần phát huy và nếu quản lý còn chưa tốt phải đưa ra các biện pháp để giải quyết. Mặc dù vậy công tác kiểm tra, thanh tra cũng gặp không ít khó khăn. Do hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, riêng pháp luật về tài chính còn thiếu nhiều. Những công cụ pháp luật chưa có thì việc thanh tra, kiểm trachưa có cơ sở pháp lý để xem xét. Hệ thông định mức. Tiêu chuẩn chi tiêu của Ngân sách địa phương chưa hính thành đầy đủ và chưa phù hợp với tình hình thực tế. Trong thời gian tới để làm tốt công tác kiểm tra cần có những định chế pháp luật về tài chính làm cơ sở cho công tác kiểm tra, thanh tra Ngân sách Nhà nước * Công tác quyết toán ngân sách Quyết toán Ngân sách là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý ngân sách Nhà nước. Quá trình thực hiện như hiện tại xem như một quá trình khép kín, quản lý và phân tích đầy đủ tình hình thu chi của cả nước trong một năm. Nhưng thực chất còn mang nhiều tính hình thức trong quá trình thông qua quyết toán Ngân sách, đến nay gần như chưa có báo cáo quyết toán của cấp nào trình cấp có thẩm quyền phê chuẩn bị phản bác, hoặc ở một số địa phương quyết toán nhiều khoản chi không đúng với dự toán được phê duyệt , nhưng chưa có qui định ràng buộc về trách nhiệm trong điều hành ngân sách không đúng theo dự toán. Do vậy khâu quyết toán cần được tập trung cải tiến hoàn thiện các nội dung: Thực hiện chế độ kiểm soát trước, trong và sau khi chi ngân sách thông qua cơ chế phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan tài chính, kho bạc Nhà nước và cơ quan thụ hưởng NSNN. Cần điều chỉnh lại việc thực hiện cơ chế kiểm soát chi như hiện hành theo hướng tạo điều kiện cho đối tượng thụ hưởng NSNN được thuận lợi chủ động trong điều hành kinh phí. Tóm lại: Đây là các bước trong quản lý việc phân bổ vốn NSNN mang lại hiệu quả tối ưu nhất. Vì vậy, muốn quản lý tốt trước tiên phải tiến hành thật tốt từng bước trong chu trình. Hai là: Hoàn thiện qui trình sử dụng vốn đối với các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp nông thôn Trong phần trên ta đã nêu ra sự cần thiết phải đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn bằng các chương trình hay dự án. Mặc dù vậy không phải muốn đầu tư bằng một chương trình là có thể thực hiện được ngay mà phải theo một trình tự nhất định từ bước xác định chương trình cho đến bước đánh giá kết quả thực hiện chương trình. Sở dĩ phải làm như thế là để xem xét xem chương trình hay dự án Nhà nước định đầu tư có tính khả thi hay không tức là có khả năng thực hiện và mang lại kết quả như mong muốn hay không. Thứ hai là để Nhà nước giám sát được tiến độ thi công của chương trình cũng như thời gian chương trình thực hiện. Thứ ba là để quản lý nguồn tài chính thực hiện đầu tư cho chương trình. Cụ thể, qui trình gồm các bước sau - Xác định chương trình : Đó là quá trình tìm hiểu, xác định các vấn đề cấp bách, khó khăn trong đời sống của người nông dân ở một khu vực, một vùng dân cư nào đó, đòi hỏi nhà nước phải tiến hành đầu tư bằng một chương trình hay dự án nào đó. Điều này đảm bảo rằng đó là những chương trình có khả năng tốt nhất có thể được thực hiện phù hợp với các hoàn cảnh cụ thể. - Xây dựng chương trình: Đối với các chương trình, dự án lớn, thì quá trình xây dựng phải được tiến hành theo hai bước là ngiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi. Còn đối các chương trình, dự án nhỏ có thể bỏ qua nghiên cứu tiền khả thi và bắt tay vào nghiên cứu khả thi. - Thẩm định và quyết định đầu tư: Đây là giai đoạn đánh giá và lựa chọn những chương trình và dự án có nhất thiết phải đầu tư hay không đồng thời xác định ảnh hưởng của chương trình tới đời sống của dân cư trong vùng thực hiện chương trình hay dự án đó.Nếu thấy rằng thực sự nó mang lại hiệu quả nâng cao đời sống của nhân dân thì được chấp nhận và được Chính phủ phê duyệt. Khi được phê duyệt thì công việc tiếp theo là vạch ra kế hoạch tàI trợ, đó là khai thác các nguồn tài chính sao cho phù hợp và cần bao nhiêu nguồn vốn huy động từ NSNN. - Triển khai chương trình: đây là giai đoạn chiếm phần lớn thời gian trong vòng chu trình của chương trình. Giai đoạn này chủ yếu là thực hiện đầu tư. Việc thực hiện đầu tư đúng tiến độ, đảm bảo đúng chất lượng sẽ là tiền đề khai thác có hiệu quả chương trình nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội nông nghiệp nông thôn. - Đánh giá kết quả thực hiện chương trình và rút ra kinh nghiệm: Khi thời gian hoạt đông của chương trình kết thúc cần phải tiến hành đánh giá kết quả đạt được cụ thể là: chương trình có đạt được mục tiêu đề ra không?; Nó có thực sự góp phần vào phát triển kinh tế- xã hội của vùng và đời sống của người dân có được cải thiện không; Những bài học cần rút ra. Nhưng để thực hiện hoàn chỉnh một chương trình Nhà nước phải tập hợp một đội ngũ chuyên viên, cán bộ kỹ thuật có trình độ, có năng lực và có đạo đức trong công việc. Tuỳ theo từng giai đoạn khác nhau mà đòi hỏi về nhân lực, vật lực khác nhau. Ba là: Quản lý có hiệu quả các nguồn tài chính khác đầu tư cho nông nghiệp nông thôn nhằm giảm bớt gánh nặng cho NSNN. Các nguồn tài chính đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn có thể kể đến là: nguồn vốn huy động từ trong dân, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và trong nước. * Trước hết là nguồn huy động từ trong dân: Việc huy động sự đóng góp của nhân dân phải được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, công bằng trên cơ sở bàn bạc thống nhất ý kiến của đông đảo quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp. Trước khi huy động vốn phải xác định nhu cầu rõ ràng, nhu cầu đến đâu huy động đến đấy, không huy động tràn lan. Mức huy động phải công khai, phù hợp với thu nhập của dân. Nên phát triển các hình thức đóng góp bằng sức lao động, ngày công như thế vừa giải quyết được vấn đề lao động nhàn rỗi ở nông thôn vừa huy động được sức dân tham gia xây dựng nông thôn mới. Trong quản lý các khoản đóng góp của nhân dân, phải thực hiện quản lý chặt chẽ theo đúng qui định về quản lý tài chính Tránh thất thoát, lãng phí, tham ô, biển thủ của dân. Công khai các khoản đóng góp từ đó bảo đảm quyền làm chủ, quyền giám sát của dân với số tiền của mình. Chính phủ cần sớm ban hành các văn bản pháp lý làm cơ sở cho việc huy động sự đóng góp của dân, tạo ra được sự thống nhất trong việc huy động vốn từ dânn giữa các ngành, các địa phương, tránh việc tuỳ tiện ra mức huy động khác nhau, đồng thời thống nhất quản lý về các khoản huy động tạo được lòng tin cho nhân dân, góp phần huy động và phát huy hết các tiềm lực trong dân để phát triển kinh tế nông thôn. * Đối với các thành phần kinh tế trong nước đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, cần có những biện pháp để thu hút, khuyến khích, tạo ra được sự hấp dẫn để họ tăng đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Khuyến khích các thành phần kinh tế trong khu vực nông thôn như các hộ nông dân, các hợp tác xã, các doanh nghiệp nhỏ tích cực bỏ vốn đầu tư để sản xuất kinh doanh tại địa phương. Có thể kể đến một vài biện pháp sau: Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ, ưu đãi về thuế, giá thuê đất cho các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các hộ nông dân đầu tư phát triển các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Có thể cho phép chậm nộp tiền thuê đất, giảm thuế trong thời gian đầu cho các hợp tác xã mới thành lập hoặc các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động nhằm giảm bớt chi phí hoạt động ban đầu của họ. Tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa người sản xuất và người thu mua chế biến nông sản bằng cách tổ chức một mạng lưới thương nghiệp rộng khắp để có thể thu mua kịp thời bảo đảm giá cả các hàng hoá nông sản. Có thể hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức thu mua nông sản cho bà con nông dân trong thời vụ. * Về các khoản vay và viện trợ nước ngoài phải quan tâm đến vấn đề vay và trả nợ trong tương lai. Không thể cứ vay để phát triển kinh tế mà không quan tâm đến tương lai sẽ phải trả nợ như thế nào. Cho nên chỉ duy trì các khoản vay nợ trong một giới hạn cho phép. * Đối với các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoàI cần khuyến khích nhiều hơn nữa. Để huy động được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp nông thôn nước ta cần phải có cơ chế quản lý hành chính của Nhà nước đơn giản, tránh gây phiền toái cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó cũng cần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tạo ra một thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng rãi. Thứ tư: Hoàn thiện các chính sách tài chính của Nhà nước đối với nông nghiệp nông thôn. * Chính sách tín dụng đối với nông nghiệp nông thôn: - Xây dựng chính sách đầu tư tín dụng cho nông nghiệp vừa thích ứng với cơ chế thị trường vừa tuân thủ sự điều tiết quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tuân thủ nguyên tắc tín dụng trong sự kết hợp hài hoà với đầu tư phát triển theo qui hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, coi trọng hiệu quả kinh tế-xã hội về lâu dài, khắc phục tư tưởng chạy theo lợi ích cục bộ, kinh doanh đơn thuần trước mắt. Dựa vào tăng trưởng nguồn vốn tín dụng ngân hàng (đặc biệt là trung và dài hạn) để phát triển sản xuất nông nghiệp nuôi dưỡng nguồn thu cơ bản và lâu dài cho NSNN. Từng bước tiến hành mọi bao cấp qua con đường tín dụng, lấy tín dụng là phương thức đầu tư chủ yếu, phân biệt rạch ròi tài trợ chính sách xã hội với đầu tư tín dụng kinh doanh. - Phát huy vai trò đòn bẩy lãi suất tín dụng một cách hợp lý và linh hoạt, giảm nhẹ gánh nặng cho lãi suất nông nghiệp, nông dân. Để khuyến khích huy động nhiều vốn đầu tư phục vụ nông nghiệp nếu cần thì tính toán và nâng lãi suất tiền gửi VND. Nhanh chóng kiện toàn cơ chế tín dụng để với lãi suất thị trường mà đồng vốn vẫn dễ dàng đến được với người nông dân. Nhà nước cũng cần có chính sách ưu đãi hoạt động tín dụng dài hạn trong nông nghiệp, chuyển dần từ bù lỗ lãi suất sang trợ giá lâu dài một số mặt hàng nông sản chiến lược hoặc miễn, giảm, dãn thuế cho hệ thống các tổ chức tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn.Thậm chí có chính sách ưu đãi rõ ràng đối với bất kỳ chương trình đầu tư nào của mọi tổ chức tín dụng, doanh nghiệp trong, ngoài nước. - Kết hợp nguyên tắc tín dụng với các công cụ tài chính khác như nới lỏng thuế, bù lỗ lãi suất, trợ giá hàng nông sản… để giảm thiểu rủi ro, bảo toàn vốn tín dụng ngân hàng. Cải tiến đa dạng hoá phương thức cho vay nhằm rút ngắn quãng đường vận động của đồng vốn, giảm chi phí tín dụng, phòng ngừa tốt rủi ro bằng cách phát huy tín dụng đồng tài trợ theo dự án. - Thống nhất các loại hình tổ chức tín dụng nông dân theo một định chế thích hợp với điều kiện, địa bàn cụ thể: Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng cấp tín dụng dài hạn, Ngân hàng phục vụ người nghèo, Quĩ tín dụng nhân dân…Tập chung quản lý các nguồn vốn đầu tư, tránh phân tán, giẫm đạt, trồng chéo trong việc bố trí vốn đầu tư thông qua phát triển thị trường vốn nông thôn có sự tham gia cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh của mọi thành viên. * Chính sách thuế, phí, lệ phí đối với khu vực nông thôn: - Chính phủ nên nghiên cứu và xem xét các giải pháp để mở rộng mức miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với một số đối tượng và khu vực khó khăn trong một giai đoạn nhất định để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. - Hiện nay do thực hiện chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm; các ngành các cấp đang đặt ra nhiều khoản người nông dân phải đóng góp thậm chí đang là gánh nặng đối với nông dân. Vì vậy Nhà nước cần phải kiểm tra, rà soát lại các khoản thu này để thể chế hoá bằng qui định chính thức của Nhà nước và loại bỏ ngay một số khoản nộp không cần thiết. - Cần xem xét lại mức thu thuỷ lợi phí đồng thời chỉ thực hiện thu đủ trang trải cho bộ máy quản lý và sửa chữa thường xuyên. Không thu khấu hao cơ bản của các công trình đầu tư bằng nguồn vốn NSNN để bảo đảm đầu tư tốt nhất cho sản xuất nông nghiệp. - Thực hiện thu các khoản phí và lệ phí ở nông thôn theo đúng danh mục các loại phí, lệ phí được Nhà nước qui định và bỏ ngay một số khoản nộp không hợp lý như: Quĩ quốc phòng, Quĩ an ninh thôn xóm, Quĩ kinh tế mới … - Chấn chỉnh lại việc thực hiện giá bán điện ở nông thôn hiện nay, chấm dứt hiện tượng cung cấp đIện cho nông dân qua nhiều nấc trung gian ở xã. Tóm lại: Để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của cả nước Nhà nước cần có biện pháp thực hiện tốt các giải pháp nêu ra ở trên. Kết luận Giai đoạn 2001-2005 là giai đoạn có nhiều ý nghĩa nhất bởi đây là giai đoạn thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra với nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn trước mắt. Thuận lợi là nước ta vừa thực hiện thành công nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của kế hoạch 5 năm ( 1996-2000) và có rất nhiều kết quả đạt được. Đặc biệt là trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn, đời sống nhân dân đã được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Khó khăn là vì đây là giai đoạn đầu của một thiên niên kỷ mới, thế kỷ XXI có nhiều biến động về kinh tế, chính trị thế giới tác động vào nền kinh tế nước ta. Đó là xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế thế giới (từ năm 2003 hiệp định thương mại AFTA được kí giữa các nước ASEAN bắt đầu có hiệu lực thi hành mà theo đó xoá bỏ hàng rào thuế quan. Đối với nền kinh tế nước ta điều này gây ra không ít khó khăn bởi nền kinh tế nước ta còn chậm phát triển, sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước đối với hàng hoá các nước ASEAN còn kém). Vì vậy đòi hỏi chúng ta phải tập trung mạnh vào phát triển kinh tế mới có khả năng hội nhập. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta gần 80% dân số sống ở khu vực nông thôn cho nên tập trung phát triển đất nước chính là tập trung cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Về mặt chính trị, thì trong khu vực nông thôn nhất là vùng sâu, vùng xa là những nơi mà kẻ thù và bọn phản động từ bên ngoài kích động, gây bạo loạn, nhằm chia rẽ tinh thần đoàn kết dân tộc, âm mưu lật đổ chính quyền. Bởi vì đây là những nơi đời sống nông dân còn khó khăn, trình độ hiểu biết đường lối chính sách của Đảng thấp. Như vậy, vấn đề đặt ra trong giai đoạn tới là phải tích cực đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn nhất là vùng sâu, vùng xa để nâng cao đời sống nhân dân, tạo dựng niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, bảo đảm trật tự, an ninh xã hội đưa nước ta vững bước đi lên con đường CNXH hoà nhập vào sự phát triển chung của toàn thế giới trong thế kỷ mới ./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0175.doc
Tài liệu liên quan