Định hướng thúc đẩy hoạt động đầu tư của các tỉnh Duyên Hải miền Trung vào khu vực tam giác phát triển Campuchia, Lào, Việt Nam

Hai là, với vị trí địa lý của mình các tỉnh trong Vùng cần phát huy lợi thế và tầm quan trọng của biển trong phát triển kinh tế đối với khu vực TGPT. Có thể nói các tỉnh trong khu vực TGPT đều là tỉnh biên giới và miền núi của 3 nước, do đó tuy có nhiều thuận lợi của miền núi, nhưng lại không có điều kiện phát triển kinh tế dựa vào biển để tăng trưởng nhanh, nhất là khi kinh tế biển đang trở thành xu hướng chung ở nhiều nước hiện nay trên thế giới. Trong khi đó, các tỉnh trong Vùng có không gian biển rộng lớn, có khả năng phát triển các ngành kinh tế liên quan đến biển để thu được nhiều nguồn lợi lớn. Đó là thế mạnh của Vùng trong hợp tác kinh tế vùng, liên vùng theo hướng khai thác Hành lang kinh tế Đông - Tây; Núi - Biển. Vì vậy các tỉnh trong Vùng và các tỉnh khu vực TGPT cần hợp tác đầu tư phát triển những ngành, lĩnh vực phát huy được lợi thế của biển. Các tỉnh DHMT nói chung, Vùng nói riêng phải trở thành động lực phát triển kinh tế phía đông, miền biển cho các tỉnh khu vực TGPT, trong đó chú trọng vận tải hàng hải, các cảng biển nơi đây phải trở thành trung tâm vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu của khu vực TGPT; phát triển và xây dựng trung tâm thủy sản của Vùng gắn với hệ thống phân phối cung cấp cho khu vực TGPT; hình thành hệ thống khách sạn, nhà hàng, dịch vụ du lịch sinh thái, tham quan, nghỉ dưỡng gắn với biển để phục vụ cho du khách phía tây, miền núi nói chung, khu vực TGPT nói riêng qua đó tạo ra nguồn thu lớn cho mỗi bên và công ăn việc làm cho xã hội. Ba là, trong quá trình thúc đẩy đầu tư vào khu vực TGPT cần gắn kết với hoạt động thương mại, du lịch. Cùng hoạt động đầu tư, các tỉnh trong Vùng cần có chính sách thúc đẩy hoạt động thương mại với khu vực TGPT theo hướng: xây dựng chiến lược buôn bán với nhau về một số sản phẩm ổn định, có thế mạnh của mỗi tỉnh; xây dựng danh mục các loại hàng hóa có xuất xứ từ các tỉnh trong Vùng và khu vực TGPT được hưởng chính sách ưu đãi đặc biệt; sớm xóa bỏ bảo hộ và các hạn chế về hành chính còn lại đối với buôn bán giữa 3 nước khác nhau như quy định giá tối thiểu, các hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu, kiểm soát ngoại hối; trên cơ sở chiến lược hợp tác chung, các tỉnh chuẩn bị chương trình đẩy mạnh hoạt động thương mại trong khu vực TGPT thông qua cải tiến việc đảm bảo cơ sở hạ tầng thương mại, thành lập cơ quan chuyên nghiệp về thương mại. Đối với hoạt động du lịch, ngoài phát triển du lịch dựa vào biển - là thế mạnh của vùng DHMT cần lựa chọn lĩnh vực đột phá làm nền tảng cho hợp tác trên các lĩnh vực khác; mặt khác cần tăng cường liên kết giữa các tỉnh, khai thác các tuyến du lịch theo phương châm “Ba quốc gia - một điểm đến”; đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên du lịch có năng lực về chuyên môn, ngoại ngữ, am hiểu sâu về văn hóa 3 nước để phục vụ cho khách du lịch quốc tế theo phương châm nói trên.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 279 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Định hướng thúc đẩy hoạt động đầu tư của các tỉnh Duyên Hải miền Trung vào khu vực tam giác phát triển Campuchia, Lào, Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng 1. Sự cần thiết thúc đẩy hoạt động đầu tư của các tỉnh duyên hải miền Trung vào khu vực tam giác phát triển campuchia, Lào, Việt Nam Liên kết kinh tế, hợp tác đầu tư vùng là một hướng phát triển mới của nhiều địa phương, khu vực và nhiều nước trên thế giới. Đây cũng là vấn đề mà Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung thành một nội dung mới và ghi rõ “thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, đảm bảo phát triển hợp lý, hài hòa giữa các vùng, địa phương”; “phát triển các hình thức hợp tác kinh tế với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế”. Vì vậy, việc nghiên cứu và triển khai nội dung liên kết, hợp tác kinh tế vùng cả trong và ngoài nước là việc làm có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Nó góp phần làm sáng tỏ, củng cố cơ sở lý luận; đồng thời thúc đẩy kinh tế vùng trong thực tế phát triển nhanh và bền vững. Các tỉnh duyên hải miền Trung (DHMT) bao gồm: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận (sau đây gọi là Vùng) đã có nhận thức đầy đủ về vấn đề này và thực hiện liên kết kinh tế vùng trong nhiều năm qua. Các địa phương đã thống nhất về xây dựng các cơ chế, chính sách thực hiện liên kết phát triển chung của Vùng theo hướng nhanh và bền vững; đã tổ chức Hội thảo “Liên kết phát triển 7 tỉnh duyên hải miền Trung” để đánh giá hiện trạng phát triển, phân tích các thế mạnh, điểm yếu, thời cơ, thách thức của Vùng; đồng thời xúc tiến thành lập Tổ điều phối, Quỹ hoạt động, Nhóm tư vấn liên kết phát triển Vùng để khai thác tiềm năng và đưa ra định hướng đúng đắn cho liên kết Vùng có hiệu quả trong thời gian tới. Đặc biệt trong nội dung Cam kết liên kết phát triển kinh tế vùng đã xác định rõ mục tiêu: “Khai thác và phát huy các tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương và toàn vùng góp phần thúc đẩy tăng trưởng nhanh và ĐỊNH HƯỚNG THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC TỈNH DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG VÀO KHU VỰC TAM GIÁC PHÁT TRIỂN CAMPUCHIA, LÀO, VIỆT NAM ? NGUYễN ĐìNH HIỀN * TS., Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Quy Nhơn. phát triển bền vững Trong những năm trước mắt, ưu tiên tập trung vào một số lĩnh vực chủ yếu, có tính khả thi cao nhằm tạo không gian kinh tế thống nhất toàn Vùng để cùng phát triển, tăng sức cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”. Như vậy, để phát triển kinh tế Vùng gắn với xu hướng toàn cầu hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, các tỉnh DHMT không chỉ tăng cường thúc đẩy liên kết kinh tế nội vùng, mà còn mở rộng ra phạm vi quốc gia và quốc tế như các tỉnh Tây Nguyên, các nước trong khu vực, đặc biệt là đầu tư vào khu vực tam giác phát triển Campuchia, Lào, Việt Nam. Mặt khác đầu tư vào khu vực này sẽ có cơ hội tiếp cận để liên kết, hợp tác với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác đầu tư vào đây nhằm góp phần thúc đẩy Vùng tăng trưởng nhanh, phát triển toàn diện và bền vững 2. Tổng quan về khu tam giác phát triển campuchia, Lào, Việt Nam Tam giác phát triển khu vực biên giới 3 nước Campuchia, Lào, Việt Nam (sau đây gọi là khu vực TGPT) được thành lập từ năm 2004 đến nay đã được 10 năm, lúc đầu gồm 10 tỉnh, đến năm 2009 được Miền Trung - Tây Nguyên 37Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên mở rộng thành 13 tỉnh, trong đó Việt Nam có 5 tỉnh (Bình Phước, Đăk Nông, Đăk Lăk, Gia Lai, Kon Tum), Lào có 4 tỉnh (Attapeu, Champasak, Salavan, Sekong) và Campuchia có 4 tỉnh (Mondulkiri, Stung Treng, Nattanakiri, Kratie). Đây là vùng cao nguyên rộng lớn với diện tích 145.672 km2, dân số 6,6 triệu người chiếm 19,2% diện tích và 6,1% dân số cả 3 nước. Trong đó Việt Nam có 51.740 km2 và 4,9 triệu người, chiếm 35,5% diện tích và 75% dân số của khu vực; Lào có 46.746 km2 và 1,1 triệu người, chiếm 32% diện tích và 16,9% dân số của khu vực; Campuchia có 47.246 km2 và 0,47 triệu người, chiếm 32,4% diện tích và 7,1% dân số khu vực. Khu vực TGPT có tài nguyên phong phú, đa dạng chưa được khai thác và chế biến làm tăng giá trị, nơi đây còn có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái cho Vùng và 3 quốc gia. Về mặt kinh tế - xã hội, hiện nay (năm 2011 - 2012) 4 tỉnh của Campuchia đạt tốc độ tăng trưởng bình quân trên 9%/năm; 4 tỉnh của Lào tăng trưởng bình quân khoảng 11,4%, 5 tỉnh của Việt Nam đạt 10%/ năm. Tính chung cho cả khu vực TGPT của ba nước, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 10%/năm. Đây là tốc độ tăng trưởng cao so với tốc độ tăng trưởng của 3 nước nhưng do điểm xuất phát thấp và quy mô kinh tế còn nhỏ bé so với mỗi nước nên thu nhập bình quân đầu người (GDP/người) năm 2012 chung cả 3 nước là 980 USD. Trong đó 5 tỉnh của Việt Nam có GDP/người đạt 1.050 USD, bằng 74,5% so với bình quân chung cả nước; con số tương ứng cho 4 tỉnh của Lào là 902 USD và 82%; cho 4 tỉnh của Campuchia là 670 USD và 72%. Như vậy tỷ lệ GDP/người của khu vực TGPT so với 3 nước còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của khu vực. Nhận thức được vấn đề này, Chính phủ 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia đã có chủ trương đẩy mạnh đầu tư phát triển khu vực TGPT với mục tiêu chung là: thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững, từng bước rút ngắn khoảng cách phát triển khu vực TGPT với các vùng của mỗi nước trên cơ sở khơi dậy và phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh, các nguồn nội lực của từng tỉnh, tăng cường mối liên kết kinh tế trong nội bộ vùng và ngoài vùng; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường sinh thái; đóng góp thiết thực vào việc tăng cường hợp tác giữa 3 nước Campuchia, Lào, Việt Nam. Trên cơ sở đó, mục tiêu cụ thể là: tiếp tục phối hợp các kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng, cải tạo các trục giao thông quan trọng giữa các tỉnh trong TGPT nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, lĩnh vực: đầu tư, du lịch, thương mại, nông nghiệp, công nghiệp thủy điện, chế biến và khai khoáng hợp tác phát triển; hợp tác xúc tiến kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào khu vực TGPT và các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho các mục tiêu xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, phát triển kết cấu hạ tầng của khu vực TGPT; tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho dòng lưu chuyển qua biên giới của hàng hóa, con người và vốn đầu tư trong phạm vi TGPT thông qua xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù cho TGPT. 3. Tình hình hoạt động đầu tư vào khu vực TGPT campuchia, Lào, Việt Nam Khu vực TGPT là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng trong quan hệ hợp tác phát triển kinh tế giữa 3 nước Campuchia, Lào, Việt Nam - đây là khu vực đang được chính phủ 3 nước đặt nhiều quan tâm và có những hành động cụ thể để đẩy mạnh phát triển. Việc tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư vào khu vực TGPT không những góp phần thúc đẩy kinh tế ở từng địa phương, mà còn góp phần thắt chặt và nâng cao hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế giữa các thành viên của khu vực TGPT nói riêng và của toàn khu vực với các đối tác nước ngoài nói chung. Trong những năm qua, tình hình hợp tác đầu tư của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia tại khu vực TGPT đã đạt được những thành tựu quan trọng đáng ghi nhận và hứa hẹn cho một tương lai phát triển. 38 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Hiện Việt Nam có 342 dự án với số vốn 6,24 tỷ USD đầu tư vào Lào và Campuchia, trong đó Lào có 222 dự án với 3,6 tỷ USD; Campuchia có 120 dự án với 2,64 tỷ USD. Có thể nói, đây là con số khá cao so với tiềm năng, trình độ phát triển của Việt Nam, đồng thời qua đây cũng cho thấy sự đặc biệt quan tâm của Chính phủ Việt Nam đối với các đối tác quan trọng trong khu vực. Riêng tại khu vực TGPT, Việt Nam đầu tư vào 2 nước Lào và Campuchia 75 dự án với số vốn 3,09 tỷ USD, trong đó đầu tư vào Lào 50 dự án, với số vốn 1,65 triệu USD chiếm 66,6% số dự án và 53,4% tổng số vốn; đầu tư vào Campuchia 25 dự án với số vốn 1,44 tỷ USD chiếm 33,3% tổng số dự án và 46,6% tổng vốn. Số dự án đầu tư vào Lào gấp đôi của Campuchia nhưng số vốn thì gần tương đương. Như vậy quy mô vốn của các dự án đầu tư ở Lào nhỏ hơn ở Campuchia, điều này liên quan đến lĩnh vực đầu tư, chẳng hạn đầu tư vào nông nghiệp hay các dịch vụ thiết yếu thường có quy mô vốn nhỏ hơn so với các lĩnh vực khác. Về lĩnh vực đầu tư, các dự án đầu tư vào Lào và Campuchia ở khu vực TGPT có cơ cấu như sau: nông, lâm nghiệp (trồng cao su và cây lấy gỗ) có 25 dự án (chiếm 33,3%); khai khoáng có 10 dự án (chiếm 13,3%); công nghiệp chế biến, chế tạo có 7 dự án (chiếm 9,3%); còn lại là sản xuất, điện, xây dựng, tài chính ngân hàng, buôn bán lẻ, kinh doanh khách sạn (chiếm 44,1%). Có thể nói số lượng vốn và số dự án của Việt Nam đầu tư vào khu vực TGPT được phân bố cho cả 4 tỉnh của Lào và 4 tỉnh của Campuchia. Đối với Campuchia số vốn đầu tư bình quân cho một tỉnh là 360,5 triệu USD, trong đó tỉnh có số vốn đầu tư cao nhất là Stung Treng (860 triệu USD), thấp nhất là Mondulkiri (99 triệu USD), chênh nhau hơn 8 lần. Đối với Lào, số vốn đầu tư bình quân cho một tỉnh là 416,0 triệu USD, trong đó tỉnh có số vốn đầu tư cao nhất là Attapeu (922 triệu USD), thấp nhất là Salavan (4 triệu USD), chênh nhau quá lớn hơn 200 lần. Sở dĩ số lượng vốn, số dự án đầu tư vào các tỉnh của khu vực TGPT không đều là do trình độ phát triển kinh tế, Bảng 1. Đầu tư của Việt Nam vào Lào, campuchia ở khu vực TGPT STT Nước cả nước Khu vực TGPT Số dự án Vốn (tỷ USD) Số dự án Vốn (tỷ USD) 1 Lào 222 3,60 50 1,65 2 Campuchia 120 2,64 25 1,44 cộng 342 6,24 75 3,09 (Nguồn: Tài liệu Hội nghị xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch lần thứ 7 khu vực TGPT Campuchia - Lào - Việt Nam, tại Kon Tum, Việt Nam ngày 5.12.2012). Bảng 2. Đầu tư của Việt Nam vào các tỉnh của Lào, campuchia ở khu vực TGPT STT campuchia Lào Tỉnh Số vốn (triệu USD) Tỉnh Số vốn (triệu USD) 1 Stung Treng 860 Attapeu 922 2 Nattanakiri 327 Sekong 460 3 Kratie 156 Champasak 270 4 Mondulkiri 99 Salavan 4 cộng 1.442 cộng 1.656 (Nguồn: Tài liệu Hội nghị xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch lần thứ 7 khu vực TGPT Campuchia - Lào - Việt Nam, tại Kon Tum, Việt Nam ngày 5.12.2012) Sơ đồ 1. cơ cấu lĩnh vực đầu tư của Việt Nam vào Lào, campuchia ở khu vực TGPT Miền Trung - Tây Nguyên 39Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên điều kiện tự nhiên, tài nguyên, cơ sở hạ tầng giữa các tỉnh còn có nhiều khoảng cách nên khả năng thu hút đầu tư cũng khác nhau. Muốn tăng cường thu hút các dự án vào khu vực TGPT, nhất là các tỉnh hiện có số dự án đầu tư thấp thì phải đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, trong đó chú trọng phát triển toàn diện các mặt để tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư các dự án; đồng thời khuyến khích những dự án mang tính chiến lược, có vai trò động lực tạo ra sức mạnh thúc đẩy thu hút đầu tư sôi động cả vùng và lan tỏa ra toàn bộ khu vực TGPT. Bảng 3. Đầu tư của Lào, campuchia vào Việt Nam ở khu vực TGPT STT Nước Số dự án Vốn (Triệu USD) 1 Lào 5 77,2 2 Campuchia 2 18,2 3 Các nước khác 122 904,6 cộng 129 1.000,0 (Nguồn: Tài liệu Hội nghị xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch lần thứ 7 khu vực TGPT Campuchia - Lào - Việt Nam, tại Kon Tum, Việt Nam ngày 5.12.2012) Tại 5 tỉnh của Việt Nam thuộc khu vực TGPT, hiện có 129 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đến từ 19 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 1 tỷ USD. Trong đó, Lào có 5 dự án đầu tư với số vốn 77,2 triệu USD, Campuchia có 2 dự án với số vốn đầu tư 18,2 triệu USD. Tính chung cho cả Lào và Campuchia đã đầu tư 7 dự án (chiếm 5,4%) với số vốn 95,4 triệu USD (chiếm 9,54%). Điều này chứng tỏ do khả năng và trình độ phát triển kinh tế của Lào, Campuchia còn hạn chế nên năng lực đầu tư ra nước ngoài nói chung, đầu tư vào Việt Nam ở khu vực TGPT nói riêng còn thấp. Tuy nhiên tại khu vực 5 tỉnh này số dự án và số vốn đầu tư của nhiều nước khác chiếm tỷ lệ cao nhờ thấy được vị trí chiến lược quan trọng của vực TGPT ở hiện tại cũng như trong tương lai. Trong số các dự án của Việt Nam đầu tư vào khu vực TGPT nêu trên, số dự án của 9 tỉnh/thành DHMT chiếm tỷ lệ khoảng 20% và số vốn chiếm khoảng 22%. Mặc dù tỷ lệ này chưa cao nhưng so với các tỉnh/ thành trong cả nước thì đây là một con số đáng ghi nhận để đánh giá quan điểm, tầm nhìn và xu hướng đầu tư vào khu vực TGPT của các tỉnh trong Vùng. Có thể nói ưu điểm và thuận lợi nổi bật để đầu tư vào đây là do vị trí địa lý của các tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Khánh Hòa đều có đường biên giới chung với khu 40 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng vực TGPT. Chính yếu tố địa lý là một trong những điều kiện quan trọng để liên kết, hợp tác phát triển kinh tế vùng thuận lợi. Nhìn chung hầu hết các tỉnh trong Vùng đều có dự án đầu tư vào khu vực TGPT với các lĩnh vực chủ yếu như: nông, lâm nghiệp (trồng cao su, trồng cây lấy gỗ, chế biến nông sản); khai thác các loại khoáng sản; sản xuất điện, xây dựng, tài chính ngân hàng, buôn bán lẻ, kinh doanh khách sạn Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế trong quá trình đầu tư vào khu vực TGPT cần khắc phục như: các dự án đầu tư hầu như tập trung vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp, khai khoáng và dịch vụ thiết yếu với số vốn đầu tư thấp; tốc độ đầu tư chậm; chưa có chiến lược đầu tư phù hợp thể hiện mối quan hệ đầu tư 2 chiều và khai thác tốt tính đặc thù, tiềm năng, thế mạnh của Vùng. Đặc biệt hoạt động đầu tư chưa gắn với hoạt động thương mại, du lịch, chưa thể hiện lợi thế, tầm quan trọng của biển trong phát triển kinh tế đối với khu vực TGPT. Điều đó đòi hỏi các tỉnh DHMT cần phải nhanh chóng có những định hướng đúng đắn, phù hợp để đẩy mạnh hoạt động đầu tư vào khu vực TGPT. 4. Định hướng thúc đẩy hoạt động đầu tư của các tỉnh DHMT vào khu vực TGPT campuchia, Lào, Việt Nam trong thời gian tới Để có định hướng đúng cho hoạt động đầu tư của các tỉnh DHMT vào khu vực TGPT trong thời gian tới cần phải căn cứ vào số liệu dự báo về tình hình tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế; các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư của khu vực TGPT với tầm nhìn đến năm 2020. Về các lĩnh vực ưu tiên phát triển và hợp tác trong TGPT bao gồm: kết cấu hạ tầng, trong đó có mạng lưới giao thông, cấp điện, bưu chính viễn thông, thủy lợi và cấp nước; nông, lâm nghiệp; dịch vụ gồm: du lịch, thương mại và dịch vụ khác. Các lĩnh vực bổ trợ và ưu tiên tiếp theo gồm: công nghiệp; các lĩnh vực xã hội và khoa học - công nghệ bao gồm: giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, lao động, khoa học công nghệ và các lĩnh vực xã hội khác; bảo vệ môi trường và quản lý đất đai hiệu quả; an ninh - quốc phòng; thuận lợi hóa thương mại và đầu tư. Trên cơ sở thực tiễn hoạt động đầu tư trong thời gian qua, kết quả dự báo và định hướng thu hút đầu tư vào khu vực TGPT có thể đưa ra những định hướng để các tỉnh/thành trong Vùng đầu tư vào khu vực TGPT trong thời gian tới như sau: Một là, trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng, vị trí chiến lược của khu vực TGPT và thế mạnh của mình, các tỉnh trong vùng cần tiến hành xây dựng chiến lược, cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư vào khu vực TGPT, trong đó chú trọng đầu tư vào các tỉnh của Lào và Campuchia. Nội dung chiến lược phải đảm bảo sự phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả nhiều mặt; phải xác định được các lĩnh vực đầu tư phù hợp với hướng ưu tiên của khu vực, đặc biệt trước mắt cần tập trung hình thành các vùng nguyên liệu có quy mô lớn, bám theo các trục giao thông liên tỉnh hướng ra biển nhằm khuyến khích công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Chiến lược còn phải thấy được vai trò của đầu tư cơ sở hạ tầng đi trước một bước, bao gồm: hệ thống giao thông vận tải, nhất là đường bộ và hàng không; hệ thống chợ, đại lý tiêu thụ hàng hóa; hệ thống điện, Miền Trung - Tây Nguyên Bảng 4. Dự báo tình hình kinh tế của khu vực TGPT năm 2015, 2020 STT Tiêu chí Năm 2012 Năm 2015 Năm 2020 1 Tăng trưởng kinh tế (%) 10 12 14 2 Thu nhập bình quân (USD) 980 1.300 2.000 3 Cơ cấu kinh tế (%) 100 100 100 3.1 Nông lâm ngư nghiệp (%) 48,4 41,7 33,6 3.2 Công nghiệp xây dựng (%) 22,2 26,7 32,2 3.3 Dịch vụ (%) 29,4 31,6 34,2 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội khu vực TGPT Campuchia - Lào - Việt Nam đến năm 2020 và số liệu của tác giả ) 41Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên nước, thông tin liên lạc, dịch vụ tài chính, bệnh viện, cơ cở dạy nghề Trong đó phải thấy được tầm quan trọng của Khu kinh tế cửa khẩu Bờ Y (Kon Tum) trong hợp tác kinh tế vùng, liên vùng và đóng vai trò động lực cho sự phát triển của Vùng. Khu kinh tế cửa khẩu Bờ Y có diện tích 70.438 ha là trung tâm trong khu vực TGPT 3 nước Campuchia, Lào, Việt Nam, trong tương lai sẽ phát triển thành đô thị loại II vùng biên giới gắn kết với Hành lang kinh tế Đông - Tây của khu vực. Bên cạnh đó các tỉnh trong Vùng cần phối hợp ban hành các cơ chế, chính sách để tạo ra sự hợp tác đồng bộ trong khuyến khích đầu tư, trước mắt cần phối hợp với các nước Lào, Campuchia ban hành các quy định ưu đãi về thuế, thuê đất, thuận lợi hóa thủ tục hải quan, vận chuyển người và hàng hóa qua biên giới Đồng thời có cơ chế, chính sách thu hút các dự án của Lào, Campuchia và các tỉnh trong khu vực TGPT đầu tư vào Vùng. Hai là, với vị trí địa lý của mình các tỉnh trong Vùng cần phát huy lợi thế và tầm quan trọng của biển trong phát triển kinh tế đối với khu vực TGPT. Có thể nói các tỉnh trong khu vực TGPT đều là tỉnh biên giới và miền núi của 3 nước, do đó tuy có nhiều thuận lợi của miền núi, nhưng lại không có điều kiện phát triển kinh tế dựa vào biển để tăng trưởng nhanh, nhất là khi kinh tế biển đang trở thành xu hướng chung ở nhiều nước hiện nay trên thế giới. Trong khi đó, các tỉnh trong Vùng có không gian biển rộng lớn, có khả năng phát triển các ngành kinh tế liên quan đến biển để thu được nhiều nguồn lợi lớn. Đó là thế mạnh của Vùng trong hợp tác kinh tế vùng, liên vùng theo hướng khai thác Hành lang kinh tế Đông - Tây; Núi - Biển. Vì vậy các tỉnh trong Vùng và các tỉnh khu vực TGPT cần hợp tác đầu tư phát triển những ngành, lĩnh vực phát huy được lợi thế của biển. Các tỉnh DHMT nói chung, Vùng nói riêng phải trở thành động lực phát triển kinh tế phía đông, miền biển cho các tỉnh khu vực TGPT, trong đó chú trọng vận tải hàng hải, các cảng biển nơi đây phải trở thành trung tâm vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu của khu vực TGPT; phát triển và xây dựng trung tâm thủy sản của Vùng gắn với hệ thống phân phối cung cấp cho khu vực TGPT; hình thành hệ thống khách sạn, nhà hàng, dịch vụ du lịch sinh thái, tham quan, nghỉ dưỡng gắn với biển để phục vụ cho du khách phía tây, miền núi nói chung, khu vực TGPT nói riêng qua đó tạo ra nguồn thu lớn cho mỗi bên và công ăn việc làm cho xã hội. Ba là, trong quá trình thúc đẩy đầu tư vào khu vực TGPT cần gắn kết với hoạt động thương mại, du lịch. Cùng hoạt động đầu tư, các tỉnh trong Vùng cần có chính sách thúc đẩy hoạt động thương mại với khu vực TGPT theo hướng: xây dựng chiến lược buôn bán với nhau về một số sản phẩm ổn định, có thế mạnh của mỗi tỉnh; xây dựng danh mục các loại hàng hóa có xuất xứ từ các tỉnh trong Vùng và khu vực TGPT được hưởng chính sách ưu đãi đặc biệt; sớm xóa bỏ bảo hộ và các hạn chế về hành chính còn lại đối với buôn bán giữa 3 nước khác nhau như quy định giá tối thiểu, các hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu, kiểm soát ngoại hối; trên cơ sở chiến lược hợp tác chung, các tỉnh chuẩn bị chương trình đẩy mạnh hoạt động thương mại trong khu vực TGPT thông qua cải tiến việc đảm bảo cơ sở hạ tầng thương mại, thành lập cơ quan chuyên nghiệp về thương mại. Đối với hoạt động du lịch, ngoài phát triển du lịch dựa vào biển - là thế mạnh của vùng DHMT cần lựa chọn lĩnh vực đột phá làm nền tảng cho hợp tác trên các lĩnh vực khác; mặt khác cần tăng cường liên kết giữa các tỉnh, khai thác các tuyến du lịch theo phương châm “Ba quốc gia - một điểm đến”; đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên du lịch có năng lực về chuyên môn, ngoại ngữ, am hiểu sâu về văn hóa 3 nước để phục vụ cho khách du lịch quốc tế theo phương châm nói trên. N.Đ.H. TÀI LIỆU THaM KHẢo 1. Báo cáo tổng hợp rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội khu vực TGPT Campuchia, Lào, Việt Nam đến năm 2020. 2. Trang thông tin điện tử Khu vực TGPT Campuchia, Lào, Việt Nam. 3. Tài liệu Hội nghị xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch lần thứ 7 khu vực TGPT Campuchia, Lào, Việt Nam, tại Kon Tum, Vệt Nam, ngày 5.12.2012.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdinh_huong_thuc_day_hoat_dong_dau_tu_cua_cac_tinh_duyen_hai.pdf