KẾT QUẢ
Kết quả thẩm mĩ dựa trên tiêu chí sự phát
triển hài hòa của hình dạng đầu, đặc biệt lưu
tâm đến vùng trán ‐ ổ mắt, giảm tật lồi mắt, khả
năng điều chỉnh tật di lệch hai nhãn cầu. Trong
đó, kết quả thẩm mĩ ban đầu chấp nhận được
trong tất cả các trường hợp. Đặc biệt chúng tội
nhận thấy tật đầu hình thuyền cho kết quả thẩm
mĩ tốt nhất với chỉ số vòng đầu (Cephalic Index)
cải thiện rõ rệt về bình thường (CI: 70 – 80%) sau
3 – 6 tháng trong cả 5 trường hợp.
BÀN LUẬN
Dị tật sọ mặt tương đối phổ biến ở Việt Nam.
Việc phát hiện bệnh sớm tương đối dễ dàng do
các biến dạng nặng vùng đầu mặt ngay sau sinh
hoặc vài tháng đầu sau sinh. Trong nghiên cứu
chúng tôi có trên 30% trường hợp nhập viện trễ
sau 6 tháng tuổi. Đa phần những trường hợp
nhập viện trễ khi mà sự biến dạng trở nên rất
nghiêm trọng và lan rộng nhiều vị trí phải cần
những phẫu thuật tạo hình phức tạp hơn, mất
máu nhiều hơn, nguy cơ cuộc mổ cao hơn cũng
như tỉ lệ tái phát cao hơn. Điều này cho thấy việc
chẩn đoán và phẫu thuật dị tật sọ mặt vẫn còn là
một lãnh vực khá mới ở khu vực TP Hồ Chí
Minh và các tỉnh lân cận.
Tất cả những phẫu thuật sọ mặt đều mất
máu nhiều và cần phải truyền máu trong, sau
mổ. Do đó, việc có chiến lược trong mỗi thì
phẫu thuật như rạch da, bóc tách màng xương,
cắt tạo hình xương sọ cần cẩn thận và cầm
máu thật kĩ, hạn chế tối đa mất máu. Cần phải
đánh giá đầy đủ hình ảnh CT scan trước mổ
cũng như chuẩn bị đầy đủ máu truyền trước
và sau phẫu thuật. Lượng máu truyền trung
bình trong một ca mổ của chúng tôi khoảng
500 – 750 ml hồng cầu lắng.Các bước tiến hành
phẫu thuật cần được lập ra trước. Việc quyết
định qui mô mở sọ và tạo hình một phần hay
toàn bộ hộp sọ rất quan trong và cần phác thảo
trước khi quyết định rạch da.
Chúng tôi nhận thấy việc phẫu thuật sớm (từ
3 tháng – 9 tháng tuổi) có nhiều lợi ích hơn như
xương sọ còn mềm, mỏng dễ uốn nắn hơn, tình
trạng biến dạng thứ phát chưa nhiều nên việc
chỉnh hình đơn giản hơn và kết quả thẩm mĩ tốt
hơn. Những trường hợp phẫu thuật sau 12
tháng tuổi rất khó khăn, thường cần phải tạo
hình lại toàn bộ hộp sọ, phẫu thuật kéo dài, mất
nhiều máu hơn và nguy cơ cuộc mổ cao hơn
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 475 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Dính khớp sọ đơn thuần ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  100 
DÍNH KHỚP SỌ ĐƠN THUẦN Ở TRẺ EM 
Đặng Đỗ Thanh Cần *,** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Phẫu thuật dính khớp sọ đơn thuần ở trẻ vẫn còn là những thử thách ở Việt Nam. Gồm nhiều 
khiếm khuyết khác nhau, phức tạp liên quan đến nhiều chuyên khoa như ngoại thần kinh, tai – mũi – họng, mắt 
và thẩm mĩ. Những dị tật này luôn gây những biến dạng nặng, tiến triển ở đầu và mặt trẻ.Những dị tật này để 
lại nhiều hậu quả về mặt thẩm mĩ, tâm lí và có thể ảnh hưởng chức năng thần kinh.Vì vậy, phẫu thuật tạo hình 
sọ mặt luôn luôn cần thiết.Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá một số dị tật mà chúng tôi gặp phải và phân 
tích các dấu hiệu lâm sàng, kết quả cũng như là biến chứng phẫu thuật. 
Đối tượng, phương pháp: Chúng tôi thu thập và trình bày những ca phẫu thuật dị tật ở sọ ‐ mặt đầu tiên 
tại khoa chúng tôi từ tháng 06 năm 2010 đến tháng 06 năm 2014. Tất cả các dữ kiện về lâm sàng , hình ảnh học, 
kết quả phẫu thuật được phân tích với phần mềm SPSS phiên bản 19.0. 
Kết quả: Có 15 BN dính khớp sọ đơn thuần. Trong các ca dính khớp sọ có 5 ca sọ dẹt phía trước, 4 ca sọ tam 
giác, 5 ca sọ hình thuyền, 1 ca dính khớp lambda. Kết quả thẩm mĩ ban đầu chấp nhận được tất cả các ca. Có 3 ca 
bị biến chứng rách màng cứng trong mổ, nhưng không có dò dịch não tủy, 1 ca bị máu tụ dưới màng cứng mạn 
tính, không có nhiểm khuẩn cũng như di chứng và tử vong.  
Kết luận: Phẫu thuật tạo hình sọ mặt rất phức tạp và thử thách. Mọi thứ cần được chỉnh sửa trước khi trẻ 
đi học để phòng ngừa sang chấn tâm lí cho trẻ có thể gặp phải. Việc phối hợp nhiều chuyên khoa Ngoại thần kinh 
nhi, Tai – mũi – họng, thẩm mĩ sẽ cho kết quả phẫu thuật tốt hơn. 
Từ khoá: dính khớp sọ đơn thuần, dị tật sọ mặt. 
ABSTRACT 
ISOLATED CRANIOSYNOSTOSIS IN CHILDREN 
Dang Do Thanh Can * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 100 – 104 
Objective: The surgery of isolated, non‐syndromic craniosynostosis is still challenges in Vietnam. A group 
of malformation  is related to neurosurgical, ENT, opthalmological and plastic surgery. They usually cause the 
severely progressive deformities on the child’s head and face. And too many consequences are related to cosmetic, 
psychology and maybe include neurological function. So, the craniofacial reconstruction is always neccessary. The 
purpose of this study to evaluate some kinds of non‐syndromic craniosynostosis and  to analyse all  the clinical 
symptoms, the results of surgery and complications also.  
Methods: We collected and presented the cases of craniofacial surgery in our department from June 2010 to 
June 2014. We surveyed all consecutive profiles with preoperative clinical signs, images and post‐op results with 
statistic software SPSS version 19.0. 
Results: There are 15 patients  suffered  from non‐syndromic craniosynostosis. We operated on 5 anterior 
plagiocephaly, 4 trigonocephaly, 5 scaphocephaly, 1 posterior plagiocephaly. The preliminary cosmetic results was 
archived acceptably. The complications consisted with  intraoperative  laceration of dura but no CSF  leakage  (3 
pts), chronic subdural hematoma (1 pt), no infection and no morbidity or mortality.  
Conclusions: The craniofacial reconstruction for isolated craniosynostosis is rather complex and challenge. 
Everything will be  repair before  the  age of  schooling  to prevent  the psychological  stress. The good  team with 
* Khoa Ngoại Thần Kinh, Đại học Y Dược TP HCM  ** Bệnh viện Nhi Đồng 2 
Tác giả liên lạc: ThS.Đặng Đỗ Thanh Cần  ĐT: 0919168345  Email: drthanhcan@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não  101
pediatric neurological, ENT and cosmetic surgeons should co‐ordinate to get the better results.  
Key words: Craniofacial deformities, craniofacial surgery, non‐syndromic craniosynostosis. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Dị  tật dính khớp  sọ  ở  trẻ  em  là những bất 
thường bẩm sinh của hộp sọ. Nguyên nhân là do 
có hiện  tượng dính  các  đường khớp  xương  sọ 
trong thời kì phôi thai. Một số báo cáo cho thấy 
khoảng 5% dính khớp sọ đơn thuần có liên quan 
đến một số đột biến gen như FGFR 1, FGFR 2, 
FGFR 3, TWIST1,  IGF1R, RUNX 2(5) Hậu quả 
gây  kích  thích  nguyên  bào  sợi  hoạt  động  quá 
mức và gây dính  sớm  các  đường khớp xương. 
Đôi  khi  có  nhiều  bất  thường  vùng  hàm  trên, 
hàm dưới, thậm chí vùng hầu, họng, hệ TKTW. 
Các dị tật này có thể đơn thuần ở vùng đầu mặt 
gọi  là dính khớp  sọ đơn  thuần nhưng  cũng  có 
thể kèm theo các dị tật khác của hệ cơ – xương – 
khớp mà  đã  được mô  tả  thành  rất  nhiều  hội 
chứng dính khớp  sọ khác nhau  (có  trên 50 hội 
chứng dị tật sọ mặt).  
Dị tật dính khớp sọ sớm (craniosynostosis), 
trước  kia  gọi  là  tật  hẹp  sọ  (craniostenosis) 
không được chính xác. Tần suất  trong dân số 
6/10.000 trẻ(4,8,5). Bình thường các khớp sọ sẽ cài 
vào nhau vào lúc 2 – 4 tuổi và chỉ dính thật sự 
sau  20  tuổi.  Có  hai  cơ  chế  chính  hoặc  là  do 
bệnh  lí  của  xương  sọ  (dính  khớp  sọ  nguyên 
phát hay dính khớp sọ thật sự) hoặc là do bệnh 
lí  của  não  bộ  không phát  triển  được  nên  các 
khớp sọ bị đóng sớm  (dính khớp sọ  thứ phát 
gây  tật đầu nhỏ). Trong dính khớp sọ  thật sự 
thì  dạng  dính  khớp  sọ  đơn  thuần  phổ  biến 
nhất với  tỉ  lệ 85%. Trong khi hội  chứng dính 
khớp sọ chỉ 15% trường hợp(4). 
Dính  khớp  sọ  đơn  thuần  có  thể  dính một 
khớp  hay  nhiều  đường  khớp.  Trong  đó,  dính 
khớp dọc giữa chiếm > 50% trường hợp, tần suất 
2 – 2,3/10000 trẻ, tỉ lệ nam/nữ khoảng 2,5/1. Xếp 
thứ  hai  là  dính  khớp  vành một  hoặc  hai  bên 
chiếm 20 – 30%,  tần suất 0,8 – 1/10000  trẻ,  tỉ  lệ 
nam/nữ khoảng 1/ 2,3. Dính khớp trán gặp trong 
14% trường hợp, tần suất 1/10000 – 15000 trẻ, tỉ 
lệ nam/nữ vào khoảng 3,3/1. Hiếm nhất  là dính 
khớp lambda, chỉ chiếm khoảng 3% (4,10,7,6,2). 
Theo những quan sát của Virchow cho thấy 
xương  sọ  sẽ  phát  triển  theo  hướng  vuông  góc 
với đường khớp sọ. Từ đó ông đưa ra giả thuyết 
khi có một khớp sọ nào bị dính  làm cho xương 
sọ hai bên không phát triển được thì các đường 
khớp  sọ  đối bên  sẽ phát  triển bù  trừ quá mức 
làm  cho  hộp  sọ  có  khuynh  hướng  phát  triển 
song song với đường khớp bị dính. Kết quả đầu 
trẻ sẽ không đều mà bị méo hoặc kéo dài  theo 
một  hướng  nào  đó.  Giả  thuyết  này  giải  thích 
được một số trường hợp tuy nhiên không thể lí 
giải được tại sao phần sàn sọ cũng bị phát triển 
không đều(1,4,8). 
Dính  khớp  dọc  giữa,  phần  nối  giữa  hai 
xương  đính,  làm  cho  đầu  trẻ dài  ra  theo  chiều 
trước sau, thu hẹp chiều ngang nên gọi là tật đầu 
dài  (Dolichocephaly).  Sự phát  triển bù  trừ  quá 
mức hai khớp vành và khớp lambda làm ụ trán 
và ụ chẩm nhô rất cao nên khi nhìn nghiêng đầu 
giống  như  chiếc  thuyền  gọi  là  tật  đầu  hình 
thuyền  (Scaphocephaly). Tình  trạng dính  khớp 
dọc giữa  có  thể dính một phần nữa  trước hay 
nữa sau nhưng cũng có  thể dính  toàn bộ khớp 
dọc giữa tạo ra một gờ xương rất dày và nhô cao 
dọc theo đường khớp dọc giữa(4,9). 
Khi dính vành một bên, còn gọi là khớp trán 
đính một  bên  là phần  nối  giữa  xương  trán  và 
xương đính sẽ gây tật đầu bị dẹt về bên đó còn ụ 
trán bên kia nhô  cao do phát  triển bù  trừ quá 
mức  gọi  là  tật  đầu  dẹt  phía  trước  (Anterior 
plagiocephaly).  Trường  hợp  dính  cả  hai  khớp 
trán đính thì cả hai xương trán đều không phát 
triển được, đầu nhìn có vẻ bị dẹt phía trước và 
ngắn  chiều  trước  sau  nên  gọi  tật  đầu  ngắn 
(Brachycephaly). 
Một  số  các  dính  khớp  sọ  ít  gặp  hơn  như 
khớp metopic (nối giữa hai xương  trán) gây tật 
đầu hình tam giác (Trigonocephaly), dính khớp 
lambda  gây  tật  đầu  dẹt  ở  phía  sau  (Posterior 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  102 
plagiocephaly)  Các  khớp  này  có  thể  dính  ở 
một hay nhiều đường khớp. Biểu hiện của bệnh 
là sự biến dạng rõ rệt của hộp sọ trẻ theo nhiều 
hình  thái  đặc  biệt:  đầu  hình  thuyền,  đầu  hình 
tam giác, đầu bị méo, đầu dẹt, đầu nhỏ Nếu 
nhìn hoặc sờ sẽ  thấy có một gờ xương nhô cao 
dọc  theo đường khớp. Khi  ấn vào hai xương ở 
hai bên đường khớp sẽ không di chuyển được. 
Hai cung mày của bé phát triển không đều, một 
bên bị dẹt và thấp hơn bên đối diện làm cho mắt 
bị lồi ra trước. Đôi khi xương mũi hơi bị đẩy lệch 
sang một bên(3,6). Hai xương trán phát triển quá 
mức,  tạo  thành  hai  ụ  trán  nhô  ra  phía  trước. 
Chụp CT scan đa lát cắt tạo hình hộp sọ 3 chiều 
là xét nghiệm chẩn đoán giá trị nhất. 
Có  nhiều  loại  phẫu  thuật  khác  nhau  được 
mô tả. Trước thập niên 1975, Matson mô tả phẫu 
thuật  rất đơn giản chỉ  là cắt bỏ đường khớp bị 
dính  (suturectomy). Tuy nhiên, kết quả  rất hạn 
chế  do  không  nắn  chỉnh  được  biến  dạng  thứ 
phát khác và  tỉ  lệ  tái phát  cao. Từ những năm 
1998,  các  báo  cáo  của  Jeminez  và  Barone  tiến 
hành  cắt  bỏ  khớp  sọ  qua  nội  soi  (endoscopic 
strip craniectomy) cho những trẻ nhỏ < 3 tháng 
tuổi và sau đó cho mang mủ bảo hiểm trong 12 
tháng, để xương sọ tự nắn chỉnh theo thời gian(6). 
Ngày  nay  phẫu  thuật  này  được  cải  biên  khá 
nhiều và  cho kết quả khả quan  ở  trẻ nhỏ. Tuy 
nhiên  cũng  có nhiều  tranh  luận do phẫu  thuật 
không  thể điều chỉnh được những biến dạng ở 
vùng  sàn  sọ,  không  hiệu  quả  ở  trẻ  lớn,  việc 
mang mủ  bảo  hiểm  kéo  dài  ở  trẻ  nhỏ  không 
được ưa thích vì không sinh lí(8). 
Phẫu  thuật  tạo  hình  sọ  mặt  (craniofacial 
reconstruction)  được  phát  triển  bởi  Renier  và 
Marchac  (1982)  và  ngày  càng  được hoàn  thiện 
bởi nhiều tác giả khác là chọn lựa phổ biến nhất 
hiện nay(6). Trong nghiên cứu này chúng  tôi sử 
dụng phương pháp tạo hình sọ mặt. Nguyên tắc 
chung là chúng tôi sẽ cắt bỏ khớp sọ bị dính, cắt 
các mảnh  xương  sọ  theo  hình  nan  hoa  để  dễ 
dàng nắn  chỉnh và mở  rộng vùng xương  sọ bị 
hẹp do dính. Mở rộng vùng trán ‐ ổ mắt. Hộp sọ 
sẽ được tạo hình lại theo vị trí mới. Lựa chọn lứa 
tuổi phẫu thuật tuỳ theo mỗi tác giả. Tuy nhiên, 
đa số các tác giả chọn từ 3 đến 9 tháng tuổi. Sau 
12  tháng  tuổi phẫu  thuật  thường  rất khó khăn 
do xương sọ rất dày, việc nắn chỉnh rất khó, các 
biến dạng  thứ phát  trầm  trọng  là  lan  rộng nên 
thường phải  tạo hình  toàn bộ hộp  sọ  rất phức 
tạp và nguy cơ cuộc mổ cao(8). 
Hình 1: Các kiểu dính khớp sọ đơn thuần. Hàng trên: 
Hộp sọ bình thường. Hàng dưới (từ trái sang phải): 
dính khớp dọc giữa, dính khớp vành một bên, dính 
khớp vành hai bên, dính khớp trán, dính khớp lambda 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Chúng  tôi nghiên  cứu hồi  cứu 15 hồ  sơ đã 
được phẫu thuật dị tật sọ mặt tại bệnh viện Nhi 
Đồng 2 từ tháng 06/2012 đến tháng 06/2014. Các 
dữ kiện  lâm sàng, cận  lâm sàng được  thống kê 
trên phần mềm SPSS 19.0 
KẾT QUẢ 
Giới tính 
Chúng  tôi  có  10  nam  (66,6%)  và  5  nữ 
(33,4%). Cho thấy bệnh có khuynh hướng biểu 
hiện ở bé trai 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não  103
Tuổi 
Phân bố từ 1 tháng đến 36 tháng tuổi, trung 
bình là 11,6 tháng tuổi.  
Phân loại 
Bảng 1: Phân loại các dính khớp sọ đơn thuần 
Phân loại Số ca Tỉ lệ % 
Dính khớp dọc giữa 5 33,3 
Dính khớp vành một bên 5 33,3 
Dính khớp trán 4 26,7 
Dính khớp lambda 1 6,7 
Tổng 15 100 
Các loại phẫu thuật tạo hình 
Bảng 2: Các loại phẫu thuật tạo hình 
Loại phẫu thuật Số ca Tỉ lệ (%) 
Tạo hình trán - ổ mắt 09 60 
Tạo hình ½ trước hộp sọ 09 60 
Tạo hình ⅔ trước hộp sọ 03 20 
Tạo hình toàn bộ hộp sọ 03 20 
Biến chứng 
Có 3 ca  (20%) bị  rách màng cứng  trong  lúc 
bóc  tách  xương  sọ  tại  vị  trí  các  đường  khớp, 
màng cứng dược khâu lại và không ca nào bị dò 
dịch não tủy sau mổ. Một ca bị tụ dịch não tủy 
vùng trán hai bên (6,7%) được xử trí băng ép sau 
5  ngày  thì  hấp  thu  hoàn  toàn. Có một  trường 
hợp (6,7%) sau phẫu thuật 4 tháng và phát hiện 
bị máu  tụ  dưới màng  cứng mạn  tính  hai  bên 
được mổ dẫn lưu máu tụ. 
KẾT QUẢ 
Kết quả  thẩm mĩ dựa  trên  tiêu  chí  sự phát 
triển  hài  hòa  của  hình dạng  đầu,  đặc  biệt  lưu 
tâm đến vùng trán ‐ ổ mắt, giảm tật lồi mắt, khả 
năng điều chỉnh tật di lệch hai nhãn cầu. Trong 
đó, kết quả  thẩm mĩ ban  đầu  chấp nhận  được 
trong  tất cả các  trường hợp. Đặc biệt chúng  tội 
nhận thấy tật đầu hình thuyền cho kết quả thẩm 
mĩ tốt nhất với chỉ số vòng đầu (Cephalic Index) 
cải thiện rõ rệt về bình thường (CI: 70 – 80%) sau 
3 – 6 tháng trong cả 5 trường hợp. 
BÀN LUẬN 
Dị tật sọ mặt tương đối phổ biến ở Việt Nam. 
Việc phát hiện bệnh sớm tương đối dễ dàng do 
các biến dạng nặng vùng đầu mặt ngay sau sinh 
hoặc vài tháng đầu sau sinh. Trong nghiên cứu 
chúng tôi có trên 30% trường hợp nhập viện trễ 
sau  6  tháng  tuổi.  Đa  phần  những  trường  hợp 
nhập viện  trễ khi mà  sự biến dạng  trở nên  rất 
nghiêm  trọng và  lan  rộng nhiều vị  trí phải cần 
những phẫu  thuật  tạo hình phức  tạp hơn, mất 
máu nhiều hơn, nguy cơ cuộc mổ cao hơn cũng 
như tỉ lệ tái phát cao hơn. Điều này cho thấy việc 
chẩn đoán và phẫu thuật dị tật sọ mặt vẫn còn là 
một  lãnh  vực  khá mới  ở  khu  vực  TP Hồ Chí 
Minh và các tỉnh lân cận. 
Tất  cả những phẫu  thuật  sọ mặt  đều mất 
máu nhiều và cần phải truyền máu trong, sau 
mổ. Do  đó,  việc  có  chiến  lược  trong mỗi  thì 
phẫu thuật như rạch da, bóc tách màng xương, 
cắt  tạo  hình  xương  sọ  cần  cẩn  thận  và  cầm 
máu thật kĩ, hạn chế tối đa mất máu. Cần phải 
đánh giá  đầy  đủ hình  ảnh CT  scan  trước mổ 
cũng như  chuẩn bị  đầy  đủ máu  truyền  trước 
và  sau  phẫu  thuật.  Lượng máu  truyền  trung 
bình  trong một  ca mổ  của  chúng  tôi  khoảng 
500 – 750 ml hồng cầu lắng.Các bước tiến hành 
phẫu  thuật cần  được  lập  ra  trước. Việc quyết 
định qui mô mở sọ và tạo hình một phần hay 
toàn bộ hộp sọ rất quan trong và cần phác thảo 
trước khi quyết định rạch da. 
Chúng tôi nhận thấy việc phẫu thuật sớm (từ 
3 tháng – 9 tháng tuổi) có nhiều lợi ích hơn như 
xương sọ còn mềm, mỏng dễ uốn nắn hơn, tình 
trạng  biến dạng  thứ phát  chưa nhiều nên  việc 
chỉnh hình đơn giản hơn và kết quả thẩm mĩ tốt 
hơn.  Những  trường  hợp  phẫu  thuật  sau  12 
tháng  tuổi  rất  khó  khăn,  thường  cần  phải  tạo 
hình lại toàn bộ hộp sọ, phẫu thuật kéo dài, mất 
nhiều máu hơn và nguy cơ cuộc mổ cao hơn. 
KẾT LUẬN 
Dị tật sọ mặt và phẫu thuật dị tật sọ mặt vẫn 
còn  là  thử  thách  và  cần  sự  phối  hợp  nhiều 
chuyên khoa liên quan. Việc phát hiện và xử trí 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  104 
sớm thường đơn giản hơn. Phẫu thuật trước độ 
tuổi  nhà  trẻ  giúp  trẻ  tránh  được  những  sang 
chấn tâm lí nặng nề và giúp trẻ hòa nhập tốt vào 
cộng đồng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ciurea  AV  (2011),  Actual  concepts  in  scaphocephaly  (an 
experience of 98 cases). Journal of Medicine and Life. 4: 424‐431 
2. Jimenez  DF,  Barone  CM  (1998),  Endoscopic  craniectomy  for 
early  surgical  correction  of  sagittal  craniosynostosis.  J 
Neurosurgery. 22: 1225‐1229. 
3. Kalra R, Walker M (2012), Posterior plagiocephaly, Childs Nerv 
Syst 28. 1389‐1393 
4. Karbbani  H  (2004),  Craniosynostosis.  American  Family 
Physician: volume 69, number 12. 2863‐2870 
5. Lattanzi W, Di Rocco C  (2012), Genetic basis of  single  suture 
synostoses:  genes,  chromosomes  and  clinical  implications, 
Childs Nerv Syst 28. 1301‐1310 
6. Marchac  JL, Renier D  (1987), Treatment of craniosynostosis  in 
infancy. Clin Plast Surg. 14: 61‐72 
7. Massimi  L,  Concezio  Di  Rocco  (2012),  Isolated  sagittal 
craniosynostosis:  definition,  classification  and  surgical 
indications, Childs Nerv Syst 28. 1413‐1422 
8. Mehta VA  (2010),  The  evolution  of  surgical management  for 
craniosynostosis. Neurosurg Focus 29. 1‐7. 
9. Smyth MD  (2006),  The  “clamshell”  craniotomy  technique  in 
treating sagittal craniosynostosis in older children, J Neurosurg 
(4 Suppl Pediatrics) 105. 245‐251 
10. van der Meulen J (2012), Metopic synostosis, Childs Nerv Syst 
28. 1359‐1367. 
Ngày nhận bài báo:       2/10/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   27/10/2014 
Ngày bài báo được đăng:    5/12/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
dinh_khop_so_don_thuan_o_tre_em.pdf