Định loài sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini nhiễm trên người bằng kỹ thuật PCR trên hệ gen ty thể tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị

KẾT LUẬN Tỷ lệ, cường độ nhiễm SLGN tại các điểm nghiên cứu Tại xã Thanh và xã Xy có bệnh SLGN lưu hành, tỷ lệ nhiễm chung 11,39%, trong đó tỷ lệ nhiễm tại xã Thanh là 11,59%, tại xã Xy là 11,18%. Cường độ nhiễm SLGN tại xã Thanh là 33,38 trứng/gam phân, tại xã Xy là 29,52 trứng/gam phân. Loài SLGN tại các điểm nghiên cứu Loài SLGN tại các điểm nghiên cứu thu thập trên người qua định loại bằng hình thái học và giám định sinh học phân tử là loài O. viverrini. KIẾN NGHỊ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao kiến thức phòng chống bệnh SLGN cộng đồng tại xã Thanh và Xy. Vận động người dân từ bỏ tập quán ăn gỏi cá, nâng cao tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh; Nghiên cứu này chưa giải trình tự đề xác định sự tương đồng về loài O. viverrini tại hai điểm này nên sẽ là một hạn chế trong phân tích sâu về mặt gen học, đồng thời điểm này sẽ là định hướng nghiên cứu tiếp theo để đánh giá cũng như so sánh tương đồng trong ngân hàng gen.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 152 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Định loài sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini nhiễm trên người bằng kỹ thuật PCR trên hệ gen ty thể tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 540 ĐỊNH LOÀI SÁN LÁ GAN NHỎ OPISTHORCHIS VIVERRINI  NHIỄM TRÊN NGƯỜI BẰNG KỸ THUẬT PCR TRÊN HỆ GEN TY THỂ   TẠI HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ  Nguyễn Văn Chương*, Bùi Văn Tuấn*, Huỳnh Hồng Quang*  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Sán lá gan nhỏ là vấn đề y tế công cộng quan trọng tại các vùng Đông Á và Đông Âu, bệnh  gây ra bởi loài Opisthorchis viverrini, Opisthorchis felineus, Clonorchis sinensis và loài Opisthorchis lobatus mới.  Hiện tại, có hơn 600 triệu người có nguy cơ nhiễm các sán lá này trên phạm vi toàn cầu. Hầu hết bệnh nhân  nhiễm sán không có triệu chứng, chỉ có 5‐10% số ca nhiễm nặng biểu hiện các triệu chứng không đặc hiệu. Tuy  nhiên, nhiễm nặng và kéo dài có thể dẫn đến một loạt bệnh gan mật (viêm đường mật, viêm túi mật, vàng da do  tắc mật), đặc biệt trên cả mô hình thực nghiệm và dịch tễ học cho bằng chứng nhiễm các sán này là một trong các  nguyên nhân dẫn đến ung thư biểu mô đường mật.   Phương pháp nghiên cứu: Với thiết kế cắt ngang mô tả. Sử dụng kỹ thuật giám định loài PCR trên gen ty  thể xác định và phân biệt loài Clonorchis sinensis và Opisthorchis viverrini.   Kết quả: Kỹ thuật PCR đã xác định loài sán nhiễm trên người là loàiOpisthorchis viverrini.  Kết  luận: Việc xác định đặc hiệu là rất cần thiết để hiểu biết về tính đa dạng loài sán lá gan nhỏ tại Việt  Nam cũng như xây dựng bản đồ phân bố trong khu vực Mê Kông, đề ra các biện pháp phòng chống thích hợp.  Từ khóa: Opisthorchis viverrini, Opisthorchis felineus, Clonorchis sinensis  ABSTRACT  IDENTIFICATION OF Opisthorchis viverrini BY A MITOCHONDRIAL‐BASED MULTIPLEX PCR   IN HUONG HOA DISTRICT, QUANG TRI PROVINCE  Nguyen Van Chuong, Bui Van Tuan, Huynh Hong Quang  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 540 – 545  Backgrounds:  Liver  fluke  infection  caused  by Opisthorchis  viverrini, Opisthorchis  felineus, Clonorchis  sinensis,  and  new Opisthorchis  lobatus  is  a major  public  health  problem  in East Asia  and Eastern Europe.  Currently,  more  than  600  million  people  are  at  risk  of  infection  with  these  trematodes. Most  people  with  opisthorchiasis  or  clonorchiasis have no  symptoms,  only 5‐10%  of  infected people with heavy  load have non‐ specific  symptoms. Nonetheless,  heavy,  long‐standing  infection  is  associated with  a  number  of  hepatobiliary  diseases (cholangitis, obstructive jaundice, cholecystitis), especially, both experimental and epidemiologic evidence  strongly implicates these fluke infection in the aetiology of one of the liver cancer subtypes as cholangiocarcinoma.   Methods:  A  cross  sectional  study  was  conducted. A mitochondrial‐based multiplex  PCR was  used  to  identify and discriminate of Clonorchis sinensis and Opisthorchis viverrini species.   Result: Themultiplex PCR technique in identification of adults fluke from infected patients was Opisthorchis  viverrini.   Conclusion: Specific  identification  is necessary  for understanding of  the  liver  fluke diversity  in Vietnam,  mapping of its distribution in Mekong region, and propose proper control measures.  Key words: Opisthorchis viverrini, Opisthorchis felineus, Clonorchis sinensis  * Viện Sốt rét KST‐CT Quy Nhơn g  Tác giả liên lạc: TS. Huỳnh Hồng Quang     ĐT: 0905103496  Email: huynhquangimpe@yahoo.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  541 ĐẶT VẤN ĐỀ  Bệnh  sán  lá  gan  nhỏ  (SLGN)  là một  trong  những bệnh ký sinh  trùng  lây  truyền qua  thức  ăn  quan  trọng,  với  3  loài  chính  Opisthorchis  viverrini  (O.viverrini),  Clonorchis  sinensis  (C.  sinensis) và Opisthorchis  felineus (O.  felineus), gây  ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người,  đặc biệt dẫn đến ung  thư biểu mô đường mật.  SLGN  hiện  là  mối  nguy  cơ  và  đe  dọa  đến  khoảng 600  triệu người  trên phạm vi  toàn cầu,  đặc biệt tại khu vực Đông Á và Đông Âu(3). Loài  O.  viverrinilưu  hành  chủ  yếu  ở  các  quốc  gia  Đông Nam Á, gồm Thái Lan, Lào, Việt Nam và  Campuchia; C. sinensis thường gặp ở vùng nông  thôn  tại Hàn Quốc  và  Trung Quốc(6).  Tại Việt  Nam, bệnh SLGL nhỏ  lưu hành  ít nhất 25  tỉnh,  thành, trong đó 15 tỉnh phía bắc và 10 tỉnh miền  Trung‐Tây Nguyên(7,8) với  tỷ  lệ nhiễm  từ 0,2  ‐  37%. Hầu hết người bệnh SLGN không có triệu  chứng, chỉ có 5‐10% số ca nhiễm nặng xuất hiện  các triệu chứng không đặc hiệu như đau hạ sườn  phải, khó  tiêu và suy nhược. Tuy nhiên, nhiễm  trùng nặng và kéo dài có  liên quan đến một số  loại bệnh gan mật, gồm có viêm đường mật, tắc  mật vàng da, gan lớn, xơ gan viêm túi mật và sỏi  túi mật,  thậm  chí gây ung  thư biểu mô  đường  mật hoặc ung thư đường mật(2,7).   Người bị mắc bệnh SLGN là do ăn phải một  số  loài cá nước ngọt có chứa ấu trùng sán chưa  được nấu chín, hoặc ăn sống dạng gỏi cá. Vốn dĩ  thói quen của một số vùng ven biển miền Trung,  thích  ăn  các  món  cá  nước  ngọt  dưới  dạng  “shasimi” (ăn với mù tạt hoặc dạng gỏi) hoặc xử  lý  chưa  chín  (tái) như một yếu  tố nguy  cơ  cao  nhiễm mầm  bệnh  SLGN. Huyện Hướng Hóa,  tỉnh Quảng Trị với 6 xã vùng  rìa giáp với biên  giới Lào qua sông Sepon với đa dạng nhiều loài  cá nước ngọt  có  thể  là nguồn  thực phẩm hàng  ngày cho người dân hai bên sông, cùng với tập  quán ăn gỏi cá nước ngọt nên khả năng có  lưu  hành bệnh SLGN  là  rất  lớn(6). Với ý  tưởng xác  định loài SLGN lưu hành cũng như đề xuất biện  pháp  phòng  chống  thích  hợp,  đề  tài  này  tiến  hành nhằm mục tiêu xác định loài SLGN ký sinh  ở  người  và  ở  các  vật  chủ  trung  gian  tại  điểm  nghiên cứu bằng ký thuật phân tử.   ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Địa điểm và thời gian  Xã  Thanh  và  Xy,  huyện Hướng Hóa,  tỉnh  Quảng Trị (xã giáp với biên giới Lào);  Từ tháng 4/2013 đến tháng 6/2013.  Đối tượng nghiên cứu  Người dân trong 2 xã được chọn, chọn từ 5  tuổi trở lên;  Mẫu SLGN thu thập được trên người và trên  vật chủ trung gian cá.  Phương pháp nghiên cứu  Thiết kế nghiên cứu.  Theo phương pháp nghiên cứu ngang mô tả.  Cỡ mẫu nghiên cứu  tỷ  lệ nhiễm SLG nhỏ,  theo  công thức:        p.(1 ‐ p)  n = Z2(1‐ /2)             d2  Trong đó:  n : Cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được;  p: Tỷ  lệ nhiễm SLGN  từ một điều  tra  thăm  dò trước (pilot survey) = 13,5%     d: Sai số tuyệt đối, chọn 0,04.  Z(1 ‐ /2): Hệ số tin cậy = 1,96 (với  = 0,05, độ  tin cậy CI = 95% )  Vậy  cỡ mẫu  sẽ  là: n  ≈  280,3  cho mỗi  điểm  nghiên cứu.  Cộng thêm những người mất mẫu + 10% số  ca, vậy cỡ mẫu cuối cùng  là 300 cho mỗi điểm.  Tính trung bình mỗi hộ 4 người, chọn 75 hộ cho  mỗi điểm.  Nội dung nghiên cứu  Nghiên cứu tỷ lệ, cường độ nhiễm sán lá gan  bằng kỹ thuật Kato‐katz;  Thu  thập  sán  trưởng  thành  trên  người  và  định loại bằng hình thái học và giám định PCR;  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 542 Kỹ thuật nghiên cứu  Xét nghiệm phân Kato‐Katz: Các mẫu phân  thu thập được;  Kỹ thuật định loại SLGN bằng hình thái học  (phân loại Nguyễn Thị Lê, 1995);  Kỹ  thuật  giám  định  loài  SLGN  bằng  PCR:  ADN  tổng số của  từng con sán riêng biệt được  tách  chiết  bằng  QIAamp  DNA  Extraction  kit  (QIAGEN  Inc, USA). Mồi  được  sử dụng  trong  phản ứng này  là các cặp mồi đặc hiệu được sử  dụng  để  chẩn  đoán  phân  biệt  O.  viverrini  với  C.sinensis (Le và cs, 2006), cho sản phẩm PCR xác  định O.viverrini có độ dài là 1357 bp và C.sinensis  là 612 bp;  Phân tích và xử lý số liệu  Nhập số  liệu vào phần mềm Epidata và xử  lý trên chương trình Stata.  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  Thực trạng SLGN tại các điểm nghiên cứu  Bảng 1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm SLGN chung ở 2  xã qua xét nghiệm phân  Địa điểm Số XN Số ca phát hiện trứng sán Số trứng trên 1 gam phân Thanh 302 35 (11,59%) 33,38 Xy 304 34 (11,18%) 29,52 Cộng 606 69 (11,39%) 31,4 Nhận xét: Tỷ lệ nhiễm sán tại 2 xã là 11,39%,  trong  đó  tại  xã  Thanh  là  11,59%  và  xã  Xy  là  11,18%.  Cường  độ  nhiễm  sán  tại  xã  Thanh  là  33,38  trứng/gam  phân,  tại  xã  Xy  là  29,52  trứng/gam phân.  Kết quả điều  tra  loài SLGN  ở người và  ở  vật chủ trung gian  Bảng 2. Kết quả XN đãi phân thu thập SLGN  trưởng thành  Địa điểm Số ca XN phân Số ca có sán (+) Lượng sán thu được Xã Thanh 5 2 44 Xã Xy 6 1 19 Cộng 11 3 63 Nhận xét: Trong số 35 ca (xã Thanh) và 34 ca  (xã Xy) nhiễm SLGN, chỉ chọn 5 ca  (xã Thanh)  và 6 ca (xã Xy) đưa đi đãi phân để xác định hình  thái học và phân học phân tử định loài SLGN. Số  ca  được  cho  uống  thuốc  và  đãi  phân  tìm  sán  trưởng thành là 11 ca, song chỉ có 3 ca thu thập  được sán  trưởng  thành,  tổng số sán  lá gan nhỏ  thu thập được là 63 con.  Định loài bằng hình thái học  Hình 1. Hình thể SLGN trưởng thành  Nhận xét: Xác định hình  thái 6 mẫu sán cho  thấy  cơ  thể  sán  mảnh,  màu  hồng  nhạt  khi  nhuộm  Carmine,  giác miệng  ở  đầu  nhỏ,  giác  bụng  tròn  nằm  ở  1/3  phía  dưới,  tử  cung  gấp  khúc nhiều lần, chứa đầy trứng, đặc biệt là tinh  hoàn phân nhánh hình thùy nằm ở phía cuối cơ  thể. Dựa vào khóa phân loại, căn cứ hình thái và  kích  thước  của  sán,  loài  sán  ở xã Thanh và Xy  thuộc  loài Opisthorchis viverrini  (Cobbold, 1875),  giống  Opisthorchis  (Looss,  1907),  họ  Opisthorchidae  (Braun,  1901),  bộ  Opisthorchiida  (La Rue, 1957).  Giám định SLGN bằng kỹ thuật PCR  Hình  2. Kết  quả  điện  di  sản  phẩm  PCR  của mẫu  SLGN sử dụng cặp mồi OvF‐OvR Giếng 1: Chứng   (‐) Giếng 2: Chứng (+) O. viverrini, 1357bp Giếng 3‐ 8: Mẫu SLGN  thu nhận  tại  điểm. Giếng  9: Thang  chuẩn DNA (1kb DNA ladder).  1kb  1,5kb O.  viverrini  ~1357bp   1  2  3  4  5  6  7   8   Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  543 Phản  ứng  PCR  thực  hiện  bằng  mồi  đặc  hiệu C. sinensis (CsF‐CsR) với các mẫu sán, kết  quả cho thấy không có sản phẩm PCR nào thu  được  từ các mẫu sán này, ngoại  trừ một vạch  DNA của C. sinensis đã được giám định bằng  phân tử dùng làm chứng (+) (612 bp, giếng 3).  Từ kết quả giám  định này  cho  thấy mẫu  sán  thu nhận tại xã Thanh và xã Xy không phải là  C. sinensis.  BÀN LUẬN  Bệnh  SLGN  gây  ảnh  hưởng  nghiêm  trọng  đến  sức  khỏe  con  người,  song  các  hoạt  động  phòng chống hiệu quả vẫn chưa được triển khai  bao  phủ.  Bệnh  SLGN  lưu  hành  ở  những  tỉnh/  thành  có  tập  quán,  thói  quen  ăn  gỏi  cá  nước  ngọt,  điều  kiện  vệ  sinh  môi  trường  kém.  Xã  Thanh  và  xã  Xy,  là  2  xã  thuộc  huyện Hướng  Hóa,  tỉnh  Quảng  Trị  giáp  với  Lào  qua  sông  Sepon, người dân ở đây chủ yếu là dân tộc Vân  Kiều và một số ít người Kinh hoặc Paco vào đây  buôn bán hoặc  là cán bộ  tăng cường và bộ đội  biên phòng. Việc quản  lý phân nói  riêng và vệ  sinh môi trường nói chung còn “khoảng trống”  (tỷ lệ hộ có hố xí chỉ khoảng 50%, nhưng đa số là  hố xí đào chưa hợp vệ sinh). Tập quán ăn gỏi cá  ở đây đã có từ lâu và người dân xem món ăn gỏi  cá là món “khoái khẩu”.  Tỷ lệ và cường độ nhiễm SLGN tại hai xã  nghiên cứu  Để xác định tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm  SLGN, xét nghiệm phân kỹ thuật Kato‐Katz cho  302 người  tại xã Thanh và 304 đối  tượng  tại xã  Xy. Số liệu về tỷ lệ nhiễm SLGN chung tại 2 xã là  11,39%, trong đó tại xã Thanh là 11,59% và xã Xy  là  11,18%,  không  có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống kê. So với kết quả nghiên cứu của Nguyễn  Văn Chương năm 1992 tại Phú Yên (36,97%) và  năm 2002 tại Bình Định (20,17%) thì kết quả này  thấp hơn, điều này tùy thuộc vào tỷ lệ ăn gỏi cá  của người dân, hoặc điều kiện vệ sinh, Nhưng  so với nghiên cứu của Bùi Văn Tuấn và cộng sự  năm 2007 tại xã Đăk Môn, huyện Đăk Glei, tỉnh  Kon Tum(4,1) với tỷ lệ nhiễm SLGN là 10,45% thì  kết quả này có cao hơn.   Theo kết quả của bảng 3.5, cường độ nhiễm  SLGN  tại  xã  Thanh  là  33,38  trứng  trên  1  gam  phân, tại xã Xy  là 29,52 trứng trên 1 gam phân.  Cường  độ  nhiễm  trung  bình  của  2  xã  là  31,4  trứng/ gam phân. Khi  so  sánh với kết quả  của  Nguyễn Văn Chương và Đỗ Thái Hòa, cho thấy  cường độ nhiễm trung bình trong nghiên cứu tại  xã Thanh và xã Xy thấp hơn so với ở Mỹ Chánh,  Bình Định  (228  trứng/gam), An Mỹ  (225  trứng/  gam) và Nga An (229,5 trứng/ gam). Điều này có  lẽ  do  tần  suất  ăn  gỏi  cá  các  đối  tượng  trong  nghiên cứu này  thấp hơn  tần suất  tại các điểm  nghiên cứu tác giả trên.  Xác định loài SLGN tại xã Thanh và xã Xy  Loài SLGN trên người  Trong  số 69  trường hợp nhiễm SLGN xác  định qua chuẩn vàng soi trứng trong phân đều  được điều trị thuốc đặc hiệu, song để phục vụ  có định loại sán, số ca được cho uống thuốc và  đãi phân tìm SLGN trưởng thành là 11 ca, tuy  nhiên  chỉ  có  3/11  ca  đó  thu  thập  được  sán  trưởng  thành, với  tổng  số  sán  thu  được  là 63  con. Thực hiện khâu định  loại bằng hình  thái  học và phân tích sinh học phân tử, trong số 63  mẫu  sán  đại diện  từ  3  cá  thể,  chọn  ra  6 mẫu  (mỗi cá  thể 2 mẫu) dùng  trong định  loại hình  thái và 6 mẫu  (mỗi cá  thể 2 mẫu) dùng  trong  định loại theo PCR.  Kết quả xác định 6 mẫu sán tại điểm nghiên  cứu sán có cơ thể sán mảnh, màu hồng nhạt khi  nhuộm  carmine,  giác  miệng  ở  đầu  nhỏ,  giác  bụng tròn nằm ở phần ba phía dưới, tử cung gấp  khúc nhiều lần, chứa đầy trứng, đặc biệt là tinh  hoàn  hình  thùy  nằm  ở  phía  cuối  cơ  thể.  Đối  chiếu  với  phân  loại,  căn  cứ  hình  thái  và  kích  thước cho biết SLGN ở xã Thanh và xã Xy thuộc  loài  O.  viverrini  (Cobbold,  1875),  giống  Opisthorchis  (Looss,  1907),  họ  Opisthorchidae  (Braun,  1901),  bộ Opisthorchiida  (La Rue,  1957).  Kết quả hình thái học, cho thấy loài SLGN giống  như  loài  sán  thu  thập  được  ở  xã  Đăk  Môn,  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 544 huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum mà nhóm nghiên  cứu từng phát hiện(4,1).  Để  giám  định  về mặt  phân  tử  loài  sán O.  viverrini  tại  điểm  nghiên  cứu  đồng  thời  cũng  không thể loại trừ khả năng loài SLGN tại đây có  thể là một chủng lai giữa Opisthorchis ‐ Clonorchis  nên cần thiết tiến hành kỹ thuật PCR. Phản ứng  PCR  được  thực  hiện  với  mồi  đặc  hiệu  cho  O.viverrini  (OvF‐OvR)  với  DNA  tổng  số  được  tách chiết từ các mẫu sán thu nhận tại xã Thanh  và xã Xy, sản phẩm điện di cho thấy sản phẩm  PCR  thu được  từ các mẫu SLGN có kích  thước  bằng với kích thước mẫu sán O.viverrini đã được  giám định bằng phân tử dùng làm chứng dương  (kích  thước  1357  bp),  sản  phẩm  PCR  của  các  mẫu sán được giám định loài là đoạn DNA hiển  thị rất rõ và đơn băng, chứng tỏ chất liệu DNA  của SLGN ở xã Thanh và xã Xy rất đặc hiệu với  cặp mồi dùng giám định O.viverrini (OvF‐OvR),  từ kết quả giám định này cho thấy mẫu sán thu  nhận tại xã Thanh và xã Xy là O. viverrini.  Phản ứng PCR được thực hiện bằng cặp mồi  đặc  hiệu  cho  O.viverrini  (OvF‐OvR)  với  DNA  tổng số(7)được  tách chiết  từ các mẫu SLGN  thu  nhận tại xã Thanh và xã Xy, kết quả cho thấy sản  phẩm PCR  thu  được  từ các mẫu SLGN này có  kích thước bằng với kích thước của mẫu sán O.  viverrini đã được giám định bằng phân tử dùng  làm chứng dương  (kích  thước khoảng 1357 bp,  giếng 3), sản phẩm PCR của các mẫu sán được  giám  định  loài  là  đoạn DNA hiển  thị  rất  rõ và  đơn băng, chứng tỏ khuôn DNA của SLG nhỏ ở  xã Thanh và xã Xy  là hết sức đặc hiệu với cặp  mồi dùng giám định O.viverrini  (OvF‐OvR). Từ  kết quả giám định này cho thấy các mẫu sán thu  nhận  tại  xã Thanh  và  xã Xy  là O.viverrini. Kết  quả giám định PCR cho thấy loài sán O.viverrini  ở đây cũng giống như ở xã Đăk Môn, huyện Đăk  Glei, tỉnh Kon Tum.  Đồng  thời  phản  ứng  PCR  được  thực  hiện  bằng cặp mồi đặc hiệu cho C.sinensis  (CsF‐CsR)  với DNA  tổng  số  được  tách  chiết  từ  các mẫu  SLGN thu nhận tại xã Thanh và xã Xy, kết quả  cho thấy không có sản phẩm PCR nào thu được  từ các mẫu SLGN này ngoại trừ một vạch DNA  của C.sinensis đã được giám định bằng phân tử  dùng làm chứng dương (kích thước khoảng 612  bp, giếng 3). Từ kết quả giám định này cho thấy  các mẫu  sán  thu  nhận  tại  xã  Thanh  và  xã  Xy  không phải  là C.sinensis. Từ kết quả giám  định  cho thấy các mẫu sán thu nhận tại xã Thanh và  xã Xy là O.viverrini.   KẾT LUẬN  Tỷ lệ, cường độ nhiễm SLGN tại các điểm  nghiên cứu  Tại  xã Thanh  và  xã Xy  có  bệnh  SLGN  lưu  hành,  tỷ  lệ nhiễm chung 11,39%,  trong đó  tỷ  lệ  nhiễm  tại  xã  Thanh  là  11,59%,  tại  xã  Xy  là  11,18%. Cường độ nhiễm SLGN tại xã Thanh là  33,38  trứng/gam  phân,  tại  xã  Xy  là  29,52  trứng/gam phân.  Loài SLGN tại các điểm nghiên cứu  Loài SLGN tại các điểm nghiên cứu thu thập  trên người qua định  loại bằng hình  thái học và  giám định sinh học phân tử là loài O. viverrini.  KIẾN NGHỊ  Đẩy mạnh  công  tác  tuyên  truyền  giáo dục  nâng  cao  kiến  thức  phòng  chống  bệnh  SLGN  cộng đồng tại xã Thanh và Xy. Vận động người  dân từ bỏ tập quán ăn gỏi cá, nâng cao tỷ lệ hộ  có hố xí hợp vệ sinh;  Nghiên  cứu này  chưa giải  trình  tự đề xác  định sự tương đồng về  loài O. viverrini tại hai  điểm  này  nên  sẽ  là một  hạn  chế  trong  phân  tích sâu về mặt gen học, đồng thời điểm này sẽ  là  định hướng nghiên  cứu  tiếp  theo  để  đánh  giá cũng như so sánh  tương đồng  trong ngân  hàng gen.   TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương (2011). Thực trạng nhiễm  sán lá gan nhỏ tại xã Đak Môn. huyện Đak Glei. tỉnh Kon Tum.  Tạp chí Y học thực hành. 796. 165‐168.  2. Honjo S, Srivatanakul P, Sriplung H,  et al, (2005). Genetic and  environmental determinants of risk for cholangiocarcinoma via  Opisthorchis  viverrini  in  a  densely  infested  area  in Nakhon  Phanom. northeast Thailand. Int J Cancer. 117: 854–860.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  545 3. Keiser  J, Utzinger  J  (2005). Emerging  foodborne  trematodiasis.  Emerg Infect Dis. 11: 1507–1514.  4. Nguyễn  Văn  Chương, Nguyễn  Văn  Khá  và  cộng  sự  (2003).  Nghiên cứu thực trạng nhiễm sán lá gan nhỏ và đánh giá hiệu  quả của mộtsố biện pháp can thiệp ở 3 xã của huyện Phù Mỹ.  tỉnh Bình Định. Hội nghị khoa học ngành Y tế ‐ Bình Định. Tr.23  ‐ 28.  5. Nguyễn Văn  Đề, Lê Thanh Hoà và  cộng  sự  (2007). Xác  định  thành phần  loài sán  lá thường gặp ở Việt Nam bằng sinh học  phân tử “. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 11(2)80 ‐ 88.  6. Sithithaworn  P,  Andrews  RH,  Nguyen  VD,  Wongsaroj  T,  Sinuon  M,  Odermatt  P  (2012).  The  current  status  of  opisthorchiasis and clonorchiasis  in the Mekong basin.Parasitol  Int. 61:10–6.  7. Sriamporn S, Pisani P, Pipitgool V, Suwanrungruang K, Kamsa‐ ard S, et al, (2004). Prevalence of Opisthorchis viverriniinfection  and incidence of cholangiocarcinoma in Khon Kaen. Northeast  Thailand. Trop Med Int Health. 9: 588–594.  8. Trung DD, Van DN, Waikagul  J, Dalsgaard A, Chai  JY, Sohn  WM  (2007).  Fishborne  zoonotic  intestinal  trematodes  in  Vietnam.Emerg Infect Dis.13:1828–33.  Ngày nhận bài báo:       16/5/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   23/6/2014  Ngày bài báo được đăng:     14/11/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdinh_loai_san_la_gan_nho_opisthorchis_viverrini_nhiem_tren_n.pdf
Tài liệu liên quan