Trong khi, thực hiện việc PLRTN cho phường Bình An, thì cũng cần tăng cường thêm các mục sau:
- Điều chỉnh, xây dựng lại các điểm hẹn, bô rác hợp lý hơn.
- Đầu tư thêm trang thiết bị lưu chứa rác (thùng 240 lít), trang bị thêm trang thiết bị bảo hộ lao động cho lực lượng thu gom dân lập.
- Cần tăng cường thêm các loại xe sau: xe đẩy tay, xe kéo tay, xe ép 2,5 tấn, xe ép 6-8 tấn.
- Bổ sung thêm một số ưu đãi như bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn và khám bệnh định kỳ (cả dân lập lẫn công lập).
- Những công nhân theo xe rác làm việc rất vất vả, đặc biệt phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết nên họ cần được quan, tâm nhiều hơn nữa về chế độ, chính sách.
116 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 895 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Đánh giá hiện trạng và đề xuất các biện pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Quận 2, Tp.HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 – 7 - 10 tấn/chuyến.
Chiều dài của tuyến vận chuyển
Bảng 3.13. Chiều dài tuyến vận chuyển
STT
Tên tuyến
Chiều dài vận chuyển (km)
1
Tuyến 1
26
2
Tuyến 2
31,5 – 34,5
3
Tuyến 3
33,5
4
Tuyến 4
19
5
Tuyến 5
32,5
6
Tuyến 6
23,5
7
Tuyến 7
37,5
8
Tuyến 8
22,5
9
Tuyến 9
24,5
Ghi chú: Chiều dài tuyến vận chuyển tính từ điểm lấy rác đầu tiên tới trạm ép kín Quang Trung, Gò Cát hoặc Phước Hiệp, không tính quãng đường xe chạy về bãi đậu xe.
Số công nhân đi theo xe vận chuyển
Công nhân đi theo xe rác 3 người/xe, trong đó 1 tài xế và 2 phụ xe.
Số lượng, loại xe vận chuyển trên các tuyến
Hiện tại, phương tiện vận chuyển CTRSH sau khi thu gom trên địa bàn Quận 2 do XNCTCC quản lý gồm có 6 xe và 1 xe 2 tấn của phường Thảo Điền.
Bảng 3.14. Số lượng xe ép rác và tải trọng
STT
Số xe
Loại xe
Hiệu xe
Tải trọng theo giấy kiểm định cấp phép
1
57K - 3973
Ép
ISUZU
2000 Kg
2
57H - 3991
Ép
ISUZU
4000 Kg
3
57H - 3992
Ép
ISUZU
4000 Kg
4
57K - 0293
Ép
ISUZU
4.500 Kg
5
57K - 3496
Ép
ISUZU
5.200 Kg
6
57K - 9201
Ép
ISUZU
6.500 Kg
7
57K - 5267
Ép kín
KAMAZ
13.500 Kg
Ngoài ra còn 4 xe ép DAEWOO 10 tấn thuộc CTMTĐT thu gom rác tại Quận 2 là: 57H - 4658, 57K - 5222, 57K – 5223, 57H - 8041.
Các xe trên đều là xe ép chuyên dụng, vận tốc trung bình các xe vào buổi sáng, xe lớn thường là 60 – 80km/h, xe nhỏ là 40 – 50 km/h. Các xe được quay vòng trung bình 2,5 lần/ngày.
Thời gian vận chuyển trong ngày
Phụ thuộc vào thời gian, thời điểm tập trung rác về điểm hẹn. Hiện XNCTCC có giám sát chế độ làm việc của tài xế xe ép (chẳng hạn trong quá trình vận chuyển rác ra bãi không được dừng ghé mua thuốc hút hoặc uống nước, nếu xe chạy ra bãi rác mà chưa tới giờ mở cửa xe rác cũng phải chạy chầm chậm do không có chỗ để đậu xe, không để nước rỉ rác rơi vãi dọc tuyến vận chuyển).
Bảo trì các phương tiện vận chuyển
Do quá trình vận chuyển nhiều nên có một số xe bị hư hỏng, hiện tại xe chở rác phải quay vòng nhiều trong ngày, huy động tối đa việc lấy rác vào các thời điểm trưa và buổi tối, nếu có hư hỏng sẽ được sửa chữa tại XNCTCC.
Vệ sinh sau vận chuyển
Sau khi vận chuyển rác theo các tuyến được giao, các xe vận chuyển làm vệ sinh và rửa xe tại XNCTCC.
Bãi chôn lấp
Rác từ hộ gia đình, cơ sở buôn bán nhỏ, nhà hàng, văn phòng nhỏ
Rác quét đường do công nhân vệ sinh quét dọn
Khách sạn, công sở lớn, trường học, trung tâm thương mại lớn
Chứa trong túi nylon hoặc thùng từ 10-25 lít tại nơi phát sinh rác
Chứa trong thùng 240 lít
Chứa trong các thùng chứa 240 lít tại nơi thích hợp
Xe ba gác máy,xe lam
Điểm hẹn
Trạm ép rác kín Bình Trưng Tây
Xe tải 1 tấn
Xe ép lớn
Rác chợ
Thùng chứa 240 lít
Xe ép 4 và 6 tấn
xe 10 tấn
Điểm hẹn, bô rác
Hình 3.2. Sơ đồ tổng hợp thu gom, vận chuyển CTRSH tại Quận 2
3.5. ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THU GOM VẬN CHUYỂN CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 2
3.5.1. Về công tác thu gom
Hiện nay, Quận 2 có 2 hệ thống thu gom chính (hệ thống thu gom dân lập; hệ thống thu gom công lập).
Về hệ thống thu gom công lập do XNCTCC Quận 2 phụ trách: ta thấy hệ thống này hiện nay chỉ thu gom rác đường phố là chính như: quét dọn đường phố, thu gom rác tại một số chợ, cơ quan, trường học. Nhìn chung, công tác này thực hiện tương đối tốt.
Hệ thống thu gom dân lập do các phường phụ trách nhưng hệ thống này hoạt động một cách độc lập về thời gian trong ngày. Hiện nay, hệ thống này thu gom 80 – 85% CTRSH của Quận.
Công tác thu gom được phân tuyến rõ ràng nhưng số lượng công nhân thu gom và số xe thu gom còn thiếu nên có xe hoạt động một ngày 3 ca, một số xe thu gom của phường Thảo Điền thu gom rác ở các thời điểm không phù hợp với giờ lấy rác nên hiện tượng rác bị để qua đêm thường xuyên xảy ra. Do lượng xe thu gom ít nên có bô rác mỗi ngày tiếp nhận 2 - 4 lần. Chính những lý do trên là nguyên nhân gây mất mỹ quan đô thị, ô nhiễm môi trường. Cần phải tăng cường lực lượng thu gom rác dân lập nhiều hơn để cho công tác thu gom diễn ra nhanh hơn, ít gây ảnh hưởng đến người dân xung quanh khu vực các bô. Một số công nhân thu gom dân lập không trang bị đầy đủ trang phục bảo hộ lao động khi làm việc, điều này sẽ là nguy cơ gây hại đến chính bản thân người thu gom.
Lực lượng dân lập vẫn sử dụng các xe ba gác tự chế không đảm bảo vệ sinh khi lưu thông trên đường, gây rơi vãi rác khi thu gom. Ngoài ra, họ còn dùng các xe lam đã hết niên hạn sử dụng để thu gom và các xe thu gom còn thiếu nên họ cố chất rác lên cao mà không che chắn, không đảm bảo vệ sinh môi trường. Hiện tượng các xe ba gác máy kéo các xe đẩy tay trên đường cũng gây mất mỹ quan đô thị, ô nhiễm môi trường xung quanh.
Về công tác trung chuyển và vận chuyển
Về công tác trung chuyển
Nhìn chung, công tác trung chuyển chưa được tốt, rác vẫn còn tồn đọng qua đêm mà không được thu gom hết. Tuy nhiên, có một số bô rác hoạt động tốt về thời gian, rác được chuyển lên xe vận chuyển trong thời gian ngắn nhất. Việc bố trí các bô rác, điểm hẹn cũng không hợp lý. Đường Nguyễn Văn Hưởng là tuyến đường có nhiều xe ra vào do có trường học quốc tế và các khu biệt thự, nhưng việc thu gom rác không phù hợp với giờ lấy rác, điều này gây ảnh hưởng tới người dân xung quanh và gây mất mỹ quan đường phố. Về vấn đề này, phường Thảo Điền cần phải quản lý tốt hơn về việc thu gom rác của các lực lượng dân lập. Bô rác An Phú cũng cần phải xây dựng lại, phải có nền bêtông và phải có tường bao quanh để tránh gió làm phân tán rác. Trong tương lai các bô rác phải được xây dựng lại thành các bô rác kín để không gây ảnh hưởng tới khu vực dân cư xung quanh.
Về công tác vận chuyển
Do số lượng xe thu gom rác ít, làm ảnh hưởng tới các xe vận chuyển, họ phải chờ trong vài giờ để có đầy rác, công tác vận chuyển ít làm cản trở giao thông do lượng xe vận chuyển rác của Quận 2 trong giờ cao điểm ít.
Việc xây dựng phương án quản lý CTR muốn thực hiện tốt thì phải tiến hành song song cả 2 biện pháp quản lý hành chính lẫn quản lý kỹ thuật, cả hai biện pháp sẽ hỗ trợ cho nhau.
Mục đích cuối cùng mà tôi đặt ra để quản lý CTR Quận 2 là:
Bảo vệ môi trường.
Bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Sử dụng tối đa vật liệu.
Tái chế và tái sử dụng tối đa rác hữu cơ.
Giảm thiểu khối lượng rác ở các bãi xử lý rác.
4.1. CÁC CÔNG CỤ HỖ TRỢ
4.1.1. Công cụ pháp lý
4.1.1.1. Quy định phân loại rác tại nguồn (phần này kết hợp với sự hỗ trợ của cộng đồng)
Phân loại rác tại nguồn đã được một số quốc gia trên thế giới sử dụng và rất hiệu quả, đối với một nước như nước ta thì cần phải sử dụng phương pháp này là hợp lý nhất, vì phương pháp này vừa tiết kiệm nguyên vật liệu đối với các loại rác có thể tái sinh được mà còn giảm chi phí xử lý, nâng cao hiệu quả xử lý.
Quận 2 không giống như các Quận 1, 3, 4, 5, 8, 10, 11, các Quận này đã đô thị hóa từ rất lâu nên ý thức của người dân đã hình thành. Quận 2 được đô thị hóa trong những năm gần đây (1997), nên ý thức người dân còn kém, nếu đem việc phân loại rác tại nguồn áp dụng cho toàn Quận thì không khả thi và chỉ gây tốn kém. Ơû đây, tôi chọn phường Bình An làm thí điểm phân loại rác tại nguồn và chợ An Khánh, tất cả các công sở, trường học trên địa bàn Quận 2.
Để việc thực hiện phân loại rác tại nguồn có tính khả thi cao, ta có thể sử dụng các biện pháp sau:
Hỗ trợ 2 thùng chứa, 1 thùng màu xanh chứa chất thải thực phẩm, 1 thùng màu nâu chứa các chất thải còn lại.
Giảm mức phí thu gom để khuyến khích thực hiện phân loại.
Aùp dụng các mức phí khác nhau cho các chất thải, chất thải có thể tái chế (như: thủy tinh, kim loại, giấy, carton) thu phí thấp hơn những chất thải không có giá trị tái chế.
4.1.1.2. Xử phạt hành chính
Aùp dụng xử phạt hành chính (mức phạt đề nghị) với các hành vi sau:
Biện pháp này áp dụng cho toàn bộ địa bàn Quận 2.
Vứt rác bừa bãi nơi công cộng: phạt 50.000 đồng/lần, nhặt rác trở lại bỏ vào thùng.
Vứt rác xuống dòng nứơc: phạt 60.000 đồng/lần, nhặt lại bỏ vào thùng.
Các cơ quan, trường học nào không thực hiện tốt việc thu gom rác, gây hôi thối cho môi trường xung quanh, phạt 200.000 đồng/ lần vi phạm, sau đó phải quét dọn cho thật sạch và bỏ rác vào đúng nơi quy định, nếu tái diễn sẽ tăng mức phạt lên cao hơn nữa.
Để có được sự chấp thuận của cộng đồng, cần tiến hành lắp đặt nhiều thùng rác công cộng hơn nữa, thực hiện vệ sinh đường phố và các nơi công cộng sạch và thường xuyên hơn.
Các công ty, dịch vụ thu gom rác cũng cần có nhận thức: quét cho sạch, gom cho hết rác để người dân thấy đó mà noi theo.
Muốn tiến hành biện pháp trên thì mỗi phường phải thành lập một tổ, tổ này được gọi là công an môi trường, họ phải là người tốt nghiệp đại học, am hiểu về môi trường và phải có chứng chỉ đã qua khóa học ngành công an. Mỗi nhóm có thể từ 2 – 3 người.
Một số văn bản pháp luật liên quan đến quản lý rác thải như sau:
Qui chế quản lý chất thải rắn (rác thải đô thị) của UBND Thành phố có nêu rõ:
Điều 1: Đối với rác sinh hoạt: được thải ra từ các sinh hoạt hàng ngày như: ăn, ở, làm việc, buôn bán.
Đối với rác xây dựng: được thải trong quá trình xây dựng, phá dỡ, cải tạo các công trình như xà bần, đất cặn, bùn cống, nhánh cây.
Đối với rác y tế: được thải trong quá trình chữa bệnh như: bông, băng, kim chích, bộ phận người bệnh bị cắt bỏ.
Điều 2: Phí vệ sinh là khoản đóng góp bắt buộc, mọi cá nhân và các tổ chức trên địa bàn Tp.HCM đều có nghĩa vụ nộp tiền lấy rác theo phương thức căn cứ vào hợp đồng thực hiện dịch vụ lấy rác do nghành vệ sinh (kể cả rác dân lập) ký trực tiếp với mỗi hộ dân, đại diện tập thể đơn vị
Điều 3: Mọi cá nhân, tổ chức (kể cả cá nhân, tổ chức nước ngoài) đang sinh sống, hoạt động trên địa bàn Tp.HCM đều phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định trong quy chế này.
( Trích quy chế quản lý chất thải rắn)
Tại điều 7 điểm C trong pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Nghị định 49/CP ban hành ngày 15 tháng 8 năm 1996 của Chính Phủ:
“Cấm vứt rác, xác động vật, chất thải hoặc bất cứ vật gì gây ô nhiễm ra nơi công cộng hay vào chỗ có vòi nước giếng, nước ăn, ao đầm, hồ mà thường ngày người dân sử dụng trong sinh hoạt đều được xử lý theo pháp luật”
Điều 27 Nghị định 175/CP ngày 8 tháng 10 năm 1994 của Chính Phủ về hướng dẫn thi hành Luật BVMT quy định:
"1. Mọi cơ sở sản xuất kinh doanh, bệnh viện, khách sạn, nhà hàng có các chất thải ở dạng rắn, lỏng, khí cần xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường khi thải ra ngoài cơ sở mình, công nghệ xử lý các loại chất trên phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
2. Chất thải sinh hoạt tại các Thành phố đô thị, khu công nghiệp cần phải được thu gom, vận chuyển, xử lý theo qui chế quản lý chất thải.
3. Chất thải có chứa vi sinh vật, vi trùng gây bệnh cần phải được xử lý nghiêm ngặt trước khi thải vào các khu chứa chất thải công cộng theo quy định hiện hành.
4. Chất thải chứa các loại hóa chất độc hại, khó phân hủy phải được xử lý theo công nghệ riêng, không được thải vào các khu chứa chất thải sinh hoạt”.
Quy định 126/2004/CP ngày 26 tháng 5 năm 2004 về việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, quản lý công trình hạ tầng đô thị và quản lý sử dụng nhà:
Điều 33: Xử phạt tổ chức, cá nhân vi phạm về thu gom, vận chuyển và đổ rác thải:
“1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đến 100.000 đồng đối với tổ chức, cá nhân đổ rác không đúng nơi quy định.
2. Phạt tiền từ 300.000 đến 500.000 đồng đối với tổ chức, cá nhân thu gom vận chuyển không đúng nơi quy định.
3. Ngoài các hình thức xử phạt quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức, cá nhân vi phạm còn bị áp dụng các biện pháp sau:
a) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do vi phạm hành chính gây ra.
b) Buộc thực hiện đúng qui định về an toàn, bảo vệ môi trường”
* QĐ 5424 của UBND Thành phố về việc đưa hoạt động ”làm rác dân lập” vào thực hiện theo quy chế thống nhất chung toàn Thành Phố
Như vậy nhờ công cụ pháp lý, ta có thể quản lý rác từ nguồn phát sinh.
Công cụ kinh tế
4.1.2.1. Hệ thống ký quỹ hoàn trả
Ký quỹ hoàn trả là một công cụ kinh tế khá hiệu quả trong việc thu hồi lại các sản phẩm sau khi đã sử dụng để tái chế hoặc tái sử dụng, đồng thời cũng tạo ra một nguồn kinh phí đáng kể để chi trả cho việc xử lý các chất thải loại bỏ sau khi sử dụng.
Ký quỹ hoàn trả nghĩa là những người tiêu dùng phải trả thêm một khoản tiền khi mua sản phẩm (đó coi như là tiền thế chân cho bao bì sản phẩm). Khi những người tiêu dùng hay những người sử dụng các sản phẩm ấy, trả bao bì và các phế thải của chúng cho người bán hay một trung tâm nào đó được phép để tái chế hoặc để thải bỏ, thì khoản tiền ký quỹ của họ sẽ được hoàn trả lại.
Hiện tại, ta có thể áp dụng hệ thống ký quỹ hoàn trả cho các sản phẩm hoặc là bền lâu hoặc là có thể sử dụng lại hoặc là không bị tiêu hao, tiêu tán trong quá trình tiêu dùng như bao bì của đồ uống, các ác-qui, xi măng, bao bì đựng thức ăn gia súc
4.1.2.2. Phí sản phẩm
Phí sản phẩm là phí được cộng thêm vào giá các sản phẩm khi sử dụng những sản phẩm gây ra ô nhiễm hoặc là ở giai đoạn sản xuất, hoặc ở giai đoạn tiêu dùng (sản phẩm sẽ sinh ra chất thải không trả lại được).
Phí sản phẩm sẽ được đánh vào phân bón, thuốc trừ sâu, nguyên vật liệu, lốp xe, dầu nhờn, xăng, bao bì,Hiện nay chúng ta cũng đã sử dụng hình thức này đó là bán xăng, dầu, được thực hiện bằng cách định giá bán xăng, dầu trong đó cộng thêm khoản lệ phí giao thông.
Hiệu quả của phí đánh vào sản phẩm hoặc đầu vào của sản phẩm phụ thuộc vào sự có được các vật phẩm thay thế nghĩa áp dụng công cụ này khuyến khích chủ sản xuất không dùng những nguyên vật liệu mà tạo ra bao bì gây ô nhiễm để tăng phần doanh thu do thu hút được nhiều người tiêu dùng bên cạnh đó người tiêu dùng cũng sẽ mua được sản phẩm tuy mắc hơn nhưng lại có lợi cho sức khỏe của người tiêu dùng.
Nhìn chung, phí sản phẩm ít có tác dụng kích thích giảm thiểu chất thải, trừ khi mức phí được nâng cao đáng kể.
4.1.2.3. Lệ phí thu gom
Nên áp dụng thu lệ phí thu gom theo đầu người trong mỗi hộ gia đình:
- Mức phí là 10.000 đồng/hộ/tháng đối với các hộ dân thường.
- Mức phí là 20.000 đồng/hộ/tháng đối với các biệt thự.
Nhà nước cũng phải bao cấp một phần chi phí thu gom quét dọn rác, đặc biệt đối với các khu vực công cộng.
SỰ HỖ TRỢ CỦA CỘNG ĐỒNG
4.2.1. Vai trò của cộng đồng
Con người là tế bào của xã hội, trách nhiệm của nhà nước là bảo vệ môi trường cũng chính là bảo vệ cuộc sống tốt đẹp cho con người. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của trách nhiệm này là thu gom và thải bỏ rác ở các nơi công cộng trong Thành phố cũng như trong địa bàn Quận nhằm giữ đường phố luôn sạch đẹp và dân cư khỏi những điều kiện kém vệ sinh.
Hiện nay, một số quốc gia cũng đã sử dụng các hệ thống tinh vi cho công tác thu gom, phân loại rác nhưng cũng không giải quyết được tình trạng rác thải này. Do đó, cần thiết phải cần có sự hợp tác, sự chung sức của cộng đồng dân cư và các cơ quan hữu quan trong một nhiệm vụ cùng làm cho thế giới chúng ta sạch đẹp, đó cũng là ước mơ của toàn nhân loại trong một thế giới với sự bùng nổ dân số và các nghành công nghiệp hiện đại. Không có sự góp sức của cộng đồng thì sẽ vẫn còn thấy rác rơi vãi trên lề đường, trong hẻm, góc chợ, thậm chí cả sau nhà của chính họ đang sống.
Sự hỗ trợ của cộng đồng nên tập trung vào các vấn đề sau:
Thu gom rác trong nhà của các hộ dân nên đặt trong hai thùng rác riêng biệt:
Một thùng màu nâu đựng ve chai, kim loại, sành sứ, giấy carton, Một thùng màu xanh đựng thức ăn thừa, vỏ trái cây, hoa quả hư thối, và lưu ý trong mỗi thùng cần phải có đặt vào bao bì đúng cách.
Đổ rác đúng giờ tại nơi mà xe thu gom rác sẽ đến thu rác.
Không vứt rác ra đường và tại những nơi công cộng hay chung quanh các thùng rác ở Thành phố.
Tuy nhiên, để tăng phần góp sức của cộng đồng trong vấn đề vệ sinh cá nhân, ta nên thêm vào những cách sau:
1. Bằng phần thưởng, có thể thực hiện các cách sau:
- Đưa ra các giải thưởng bằng tiền hoặc quà cho việc vệ sinh cá nhân của các hộ. Tuy nhiên, phương pháp này hơi tốn kém và cũng không nên làm vì khi không có phần thưởng thì họ không cố gắng thi đua thực hiện.
- Cung cấp miễn phí túi nilon, thùng rác nhỏ và lớn để khuyến khích họ phân loại rác cho tốt. Cách này cũng không tốn kém vì ta có thể thu thêm một ít vào lệ phí thu gom rác.
2. Xử phạt khi xả rác ở nơi công cộng, phần này đã nêu ở phần trên. Phương pháp này có thể làm cho dân thực hiện tốt hơn vì họ sợ mất tiền trong khi chỉ cần bỏ vào đúng chỗ là xong. Một ví dụ khá nổi tiếng của loại hình này là ở Singapore: vứt một mẫu thuốc lá ra đường sẽ bị phạt đến 100 đô la Singapore.
3. Bằng cơ sở hợp tác, tự nguyện. Phương pháp này đòi hỏi phải giáo dục cộng đồng để họ thay đổi nhận thức của họ trong vấn đề vệ sinh cá nhân như là một lối sống tự nhiên.
Phương pháp đề cập trong điều 3 nói trên đòi hỏi một phương pháp tiếp cận đã được chuẩn bị tốt để nâng cao nhận thức cộng đồng dân cư Quận 2 về tầm quan trọng phải cải tiến việc vệ sinh cá nhân nhằm nâng cao điều kiện sống của toàn bộ cộng đồng trong Thành phố nói chung và tại Quận 2 nói riêng.
Phương pháp này sẽ giải thích cho người dân ít nhất là các khía cạnh sau:
- Nhà nước đã làm gì cho bạn: giải thích chi tiết các nỗ lực của nhà nước nhằm loại bỏ rác khỏi Thành phố để tạo ra điều kiện sống lành mạnh cho mọi người.
- Tại sao nhà nước cần bạn: nêu ra các địa điểm mà nhà nước bất lực trong việc tạo ra môi trường sống lành mạnh vì thiếu sự hỗ trợ của cộng đồng (như xả rác trong chợ, trên đường phố và chung quanh các thùng rác dọc theo đường phố).
- Bạn có thể làm gì: giải thích làm thế nào mà nhận thức và sự hỗ trợ của cộng đồng có thể cải thiện điều kiện sống cho mọi người bằng việc áp dụng giữ vệ sinh cá nhân khi đổ rác.
4.2.2. Nâng cao nhận thức của cộng đồng
Phân loại chất thải rắn tại nguồn là một chương trình mới liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau trong cộng đồng xã hội. Trong đó sự tham gia của cộng đồng đóng vai trò quan trọng. Vì vậy, việc triển khai phân loại chất thải rắn tại nguồn trên địa bàn Quận 2 cần được triển khai từng bước để có thể kịp thời điều chỉnh và thu được nhiều thành công. Phường Bình An sẽ được chọn làm thí điểm thực hiện.
Lực lượng nòng cốt cho tuyên truyền và thực hiện chương trình bao gồm:
Công nhân viên Xí Nghiệp Công Trình Công Cộng.
Đơn vị thu gom rác dân lập.
Đoàn viên thanh niên.
Tổ trưởng, tổ phó tổ dân phố.
Hội phụ nữ.
Đại diện các trường học trên địa bàn phường Bình An.
Phương tiện tuyên truyền:
Tuyên truyền bằng truyền hình, đài phát thanh, báo chí, internet.
Tuyên truyền bằng xe truyền thông cổ động.
Tuyên truyền bằng băng rôn, áp phích, phano, tờ rơi.
Các thiết kế về tờ rơi và thùng chứa rác sẽ được trình bày trong phần phụ lục.
4.2.3. Chương trình tập huấn cho lực lượng nồng cốt
Đơn vị phụ trách việc tập huấn cho các lực lượng nồng cốt là nhân viên của sở tài nguyên môi trường, kết hợp với phòng tài nguyên môi trường Quận 2, các nhà môi trường.
Mỗi lớp tập huấn khoảng 30 - 40 người.
Nội dung và mục đích của lớp tập huấn sẽ là:
Ý nghĩa, vai trò, lợi ích của phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn.
Vai trò, lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng khi tham gia chương trình.
Cách tổ chức, tuyên truyền, cổ động, hướng dẫn cho cộng đồng nhận thức và từ đó hình thành ý thức đối với dự án.
Cách thức thực hiện phân loại, lưu chứa và thu gom CTRSH.
Đối với công nhân viên XNCTCC Quận 2
Đối tượng là các đội trưởng, đội phó và các tổ trưởng, tổ phó, nhân viên phòng kế hoạch và các nhân viên thuộc tổ thực hiện dự án phân loại rác.
Đội vệ sinh gồm có: 1 đội trưởng, 2 đội phó và 1 tổ chịu trách nhiệm quét đường trên phường Bình An, mỗi tổ có 1 tổ trưởng và 1 tổ phó.
Đội vận chuyển gồm có: 1 đội trưởng, 2 đội phó.
Nhân viên phòng kế hoạch và nhân viên tổ phân loại rác gồm có 5 người.
Tổng cộng sẽ có 13 người tham gia lớp tập huấn.
Đối với công nhân thu gom rác dân lập
Ban đầu chúng ta chỉ cần mở lớp tập huấn cho công nhân thu gom phường Bình An là 5 người.
Đối với đoàn viên thanh niên, tổ trưởng và tổ phó các tổ dân phố, hội phụ nữ:
Tất cả các thành viên bao gồm 20 tổ dân phố gồm 40 người (tổ trưởng và tổ phố), đoàn viên thanh niên là 20 người.
Đối với trường học trên địa bàn phường Bình An
Trên địa bàn phường Bình An chỉ có 1 trường mầm non nên số người tập huấn là 5 người.
Các đối tượng còn lại sẽ được tuyên truyền và hướng dẫn cách PLRTN qua những lực lượng nòng cốt và bằng áp phích, tờ rơi, băng rôn, khẩu hiệu.
Đối với các hộ dân
Việc tuyên truyền cho các hộ dân được thực hiện thông qua các cuộc họp tổ dân phố vào ban đêm. Người dân sẽ được hướng dẫn cặn kẽ về ý nghĩa, vai trò của việc PLRTN cũng như phương thức thu gom, lưu chứa, phân loại chất thải. Ngoài ra, cũng phân tích sẽ có quyền lợi và trách nhiệm khi thực hiện chương trình.
Trong các cuộc họp tổ dân phố thì các lực lượng nòng cốt tuyên truyền sẽ phải hướng dẫn và thuyết phục người dân. Ngoài ra, còn phải lắng nghe những đóng góp ý kiến hay các vấn đề khó khăn từ phía người dân từ đó có thể kịp thời điều chỉnh và giúp đỡ người dân thực hiện tốt chương trình.
4.3. PHƯƠNG ÁN QUẢN LÝ KỸ THUẬT VÀ PHÂN LOẠI RÁC TẠI NGUỒN
4.3.1. Phân loại rác tại nguồn
Hiện trạng công tác thu gom rác do 2 hệ thống cùng thực hiện đó là các đội vệ sinh do XNCTCC và hệ thống thu gom rác dân lập. Hệ thống thu gom rác do XNCTCC (các đội vệ sinh Quận) hoạt động chủ yếu ở các khu vực công cộng, một số chung cư, cơ quan nhà nước. Hệ thống thu gom rác tư nhân (dân lập), hoạt động chủ yếu là các hộ gia đình, biệt thự. Các công đoạn vận chuyển, trung chuyển và xử lý hoàn toàn do nhà nước đảm nhận. Do hiện trạng hệ thống thu gom rác trên nên vấn đề quan trọng đặt ra là lựa chọn phương án nào để thu gom rác tái chế đã tách ra: Nhà nước hay tư nhân thực hiện.
Phương án 1
Đây là vấn đề tương đối mới nên tôi sẽ chọn dân cư phường Bình An và một số công ty, khu thương mại, chợ làm thí điểm thực hiện việc phân loại rác tại nguồn. Dân cư phường này chủ yếu là dân cư từ nơi khác về, thu nhập tương đối, ý thức của họ cũng được hình thành từ lâu do ảnh hưởng sống trong các Quận nội thành của Thành phố.
Tính toán trang thiết bị tồn trữ chất thải ở các hộ dân
Mỗi hộ gia đình sẽ được cấp miễn phí 2 thùng chứa rác: thùng màu xanh chứa chất thải thực phẩm, thùng màu nâu chứa chất thải còn lại. Hiện nay phường Bình An có 15.160 hộ gia đình, vậy số lượng thùng 10 lít chứa rác sẽ là:
15.160 thùng chứa chất thải thực phẩm +10% (dự phòng) = 16.676 (màu xanh)
15.610 thùng chứa chất thải còn lại + 1561 = 16.676 (màu nâu)
Số lượng túi nilon chứa chất thải thực phẩm trong 6 tháng đầu là:
15.160 * 6 tháng * 30 ngày = 2.728.800 +10% (dự phòng) = 3.001.680 túi
Số lượng túi nilon chứa chất thải còn lại trong 6 tháng đầu sẽ là:
15.160 * 6 tháng * 4 tuần * 3 ngày = 1.091.520 + 10% = 1.200.672 túi
10% dự phòng có thể bao gồm: thùng hư, thùng cấp cho các cơ sở sản xuất, chợ, trường học, dịch vụ, bệnh viện,
Túi nilon bằng chất dẻo tổng hợp có thời gian phân hủy rất dài nên có thể gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Theo các nghiên cứu gần đây trên thế giới thì túi nilon làm bằng PE có thời gian phân hủy ngắn hơn rất nhiều các loại túi nilon hiện nay trên thị trường.
Trạm phân loại tập trung
Xe 3 – 4 tấn, không ép
Thùng 10 lít
Nguồn xả rác
Hình 4.1. Quy trình thu gom rác tái chế mới
Khi thực hiện phân loại CTRSH tại nguồn, hệ thống quản lý sẽ chia làm 2 nhóm: (1) mạng lưới chất thải rắn hữu cơ được thu gom hàng ngày có tính dễ thối rữa và gây mùi hôi thối (thực phẩm thừa, rau củ, quả) và (2) hệ thống quản lý CTR còn lại (bao gồm chất thải rắn có khả năng tái chế) có tần suất thu gom sẽ là 3 lần/ tuần.
Tồn trữ và phân loại trong nhà:
+ Hộ gia đình: sau khi trang bị 2 thùng chứa rác, mỗi hộ gia đình sẽ cho túi rác vào 2 thùng . Rác thải khi sinh ra sẽ được tách riêng vào 2 thùng chứa ngay lúc xả rác hay khi làm vệ sinh nhà cửa. Sau khi chứa rác, mỗi ngày hộ gia đình sẽ đổ rác lên xe thu gom rác 1 lần cho thùng chứa rác hữu cơ như hiện nay và hộ gia đình cũng đem rác tái chế (phần còn lại) 1 tuần 3 lần cách nhau như quy định của Quận ra xe thu gom để vận chuyển đến nơi thu hồi vật liệu.
+ Khu Thương mại và siêu thị, công sở – văn phòng làm việc, trường học, trung tâm sẽ có từ 4 thùng rác: 1 cho chất hữu cơ (màu xanh), 1 cho nhựa, plastic, 1 cho giấy, 1 cho các loại khác.
+ Nhà hàng và khách sạn có 4 loại thùng chứa: 1 thùng màu xanh chứa chất hữu cơ, giấy (màu xanh), 1 thùng màu nâu chứa plastic và chai pet, 1 cho lon đồ hộp và 1 cho các loại khác.
+ Rác chợ:
Đa số thành phần chất thải hữu cơ chiếm số lượng cao nhất (75 - 95%) trong thành phần rác chợ. Vì vậy, phương thức quản lý chất thải này cho hầu hết các chợ là xử lý trực tiếp (không cần phân loại) tại bãi xử lý (chôn lấp hoặc làm phân compost). Quy trình quản lý được đề nghị như trong sơ đồ hình 4.2.
Thùng 240 lít
Bãi xử lý
Xe ép
Rác chợ
Xe ép
Hình 4.2. Quy trình vận chuyển rác hữu cơ từ chợ
Thu gom
+ Hộ gia đình
Rác sinh hoạt từ các hộ gia đình sau khi được phân loại tại nguồn thành 2 nhóm: rác hữu cơ dễ phân hủy (rau củ quả, thức ăn thừa,) và rác trơ (sành sứ, thủy tinh, kim loại, nhựa da, cao sau, gỗ, ván, vải sợi, giấy, nilon, vỏ đồ hộp, tàn thuốc là, vỏ nghêu, vỏ sò,) sẽ được nhân viên thu gom rác đến lấy vào giờ quy định và vận chuyển đi nới khác để xử lý.
Đối với rác thực phẩm, công việc thu gom được tiến hành hàng ngày. Trước khi đổ rác vào xe, nhân viên thu gom rác có trách nhiệm kiểm tra loại rác đem đổ có đúng là rác thực phẩm hay không rồi mới cho vào xe. Nếu rác được đựïng trong các bọc nilon đã được buộc chặt, nhân viên thu gom phải mở bọc nilon ra vàø bỏ rác vào xe, bọc nilon sau đó sẽ được chứa riêng trong bao tải gắn kèm theo xe nhặt rác.
Đối với thành phần rác trơ (hay còn gọi là rác phế liệu), do khả năng phân hủy sinh học kém và không phát sinh các mùi hôi thối nên sẽ được lưu trữ ngay tại nguồn, định kỳ mỗi tuần 3 lần xe nhặt rác phế liệu sẽ đến thu gom. Nhân viên thu gom rác phế liệu có trách nhiệm kiểm tra thành phần rác đem đổ có đúng theo đăng ký PLRTN hay không. Để tiện lợi cho việc xử lý sau đó, xe nhặt rác phế liệu tuyệt đối không nhận đổ rác cho bất kỳ trường hợp nào có rác thực phẩm lẫn lộn trong rác phế liệu.
+ Rác chợ (chợ An Khánh):
Do thành phần rác chủ yếu là các chất hữu cơ dễ phân hủy gây mùi hôi thối, làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến việc kinh doanh buôn bán và sức khỏe của những người trong khu vực chợ. Vì vậy, rác chợ cần được thu gom và giải quyết nhanh không để tồn đọng trong khu vực chợ. Mỗi hộ buôn bán kinh doanh trong khu vực chợ phải trang bị 2 túi nilon đựng rác: một túi dùng để đựng rác thực phẩm (màu xanh) và một túi đựng các loại rác còn lại (màu nâu). Nhân viên vệ sinh của chợ phải nhanh chóng thu gom các túi nilon rác thực phẩm vào thùng 240 lít, nhân viên vệ sinh phải kiểm tra tình trạng bao bọc chứa rác và chỉ đổ vào thùng các thành phần rác đã được giải phóng khỏi bọc nilon. Sau mỗi ngày hoạt động, nhân viên vệ sinh của chợ phải quét dọn rác rưởi và tập trung vào các thùng rác thích hợp, xe ép rác sẽ đến lấy rác và vận chuyển đến bãi xử lý.
+ Rác đường phố:
Rác đường phố được hình thành từ tự nhiên như cành lá cây rơi rụng, cát, bụi, đất đá do nước mưa cuốn trôi trên bề mặt hè phố xuống lòng đường phố. Một phần rác đường phố cũng được hình thành do việc xả rác bừa bãi, thiếu ý thức của một số hộ dân, người đi đường, những người buôn bán hàng rong ngoài đường phố xung quanh các khu thương mại và quanh các tụ điểm vui chơi giải trí ngày một nhiều. Một số vật nuôi và vật hoang dã bị cán chết và nằm lại trên đường. Xác chết súc vật từ các hộ dân cũng có thể bị vứt bừa bãi ra đường phố.
Để giữ gìn đường phố sạch đẹp và góp phần bảo vệ môi trường đô thị, rác đường phố cần được quét dọn thu gom hàng ngày. Việc quét dọn rác đường phố do công nhân vệ sinh đảm nhận. Rác được quét bằng chổi, thu gom lại và xúc rác đổ vào xe rác đẩy tay. Rác đường phố thường là loại rác hỗn tạp, do đó trong quá trình thu gom rác, công nhân vệ sinh sẽ có trách nhiệm tách riêng các thành phần có thể tái chế được. Xác chết động vật cũng được để riêng ra.
+ Rác ở các công trình công cộng:
Ơû các tụ điểm sinh hoạt công cộng (khu vui chơi giải trí, công sở, trường học, bệnh viện, khu thương mại,), để góp phần hạn chế nạn vứt rác bừa bãi cần trang bị các thùng rác công cộng có nắp đậy và được đặt tại các vị trí dễ nhìn thấy. Trong điều kiện thực tế hiện nay, khi mà các khu vực công cộng chưa được kiểm soát và quản lý tốt, rất khó có thể thuyết phục tính tự giác PLRTN. Việc trang bị 2 thùng rác có màu sắc khác nhau nằm cạnh nhau tại mỗi vị trí thích hợp ở khu vực công cộng với bảng hướng dẫn bỏ rác hữu cơ và vô cơ dán trên mỗi thùng rác sẽ kích thích và góp phần nâng cao tính tự giác PLRTN công cộng.
Vận chuyển
Sau khi thu gom tại các hộ gia đình, xe đẩy tay đưa rác đến các điểm hẹn, tương tự các điểm hẹn của hệ thống cũ và chở đến trạm phân loại bằng xe tải (không ép) 10 m3/xe. Do khối lượng vận chuyển tại mỗi điểm hẹn nhỏ nên mỗi lần vận chuyển xe tải có thể đến nhiều điểm hẹn hơn.
Quy trình thu gom rác hữu cơ như đã mô tả trong phương án 1 tức là sử dụng hệ thống thu gom và vận chuyển hiện tại để chuyển đến nơi xử lý.
Trạm phân loại:
Căn cứ vào khối lượng CTR tái sinh và tái chế sẽ chỉ xây dựng một trạm phân loại. Vị trí trạm phân loại được lựa chọn chủ yếu dựa vào khu vực quy hoạch có sẵn:
1. BCL Gò Cát;
2. Khu vực làm phân compost Đa Phước.
Do tính chất của CTR có khả năng tái sinh và tái chế, công nghệ xử lý của trạm phân loại bao gồm phân loại và ép.
Phân tích ưu và nhược điểm của phương án 1:
Ưu điểm:
Nhà nước thu được toàn bộ lợi nhuận từ hệ thống PLCTRSHTN.
Dễ dàng hiện đại hóa hệ thống.
Quản lý được giá cả mua.
Đảm bảo chất lượng môi trường tại các công đoạn quản lý CTR và các cơ sở tái chế.
Nhược điểm:
Xóa toàn bộ hệ thống nhặt (phân loại), thu gom, tái sinh, tái chế với hàng chục ngàn công nhân đã tồn tại từ những năm đầu thế kỷ của Thành phố.
Phải đầu tư rất lớn vào toàn bộ các khâu trong hệ thống kể cả về cơ sở vật chất và nhân lực.
Số lượng xe vận chuyển tăng và phải xây dựng các trạm phân loại tập trung.
Với phương thức và trình độ hiện nay nhà nước sẽ khó quản lý được và khó cạnh tranh nổi với hệ thống tư nhân.
Rất nhiều điều trong công tác quản lý trái phép với pháp luật (khả năng gia tăng giá của các đơn vị độc quyền.
Phương án 2
Tồn trữ và phân loại trong nhà (tương tự như phương án 1).
Thu gom:
Tại mỗi hộ dân 3 lần/tuần, xe đẩy tay của tư nhân đi thu gom rác phân loại. Người thu gom có thể xé túi nhặt phế liệu nhưng phải chuyên chở hết các túi nhựa CTR phân loại đến điểm hẹn. Khác với phương án 1, mỗi nhóm thu gom rác chỉ có thể thu gom ở một tuyến nhất định.
Theo phương án này, nhà nước hầu như không cần đầu tư hệ thống thu gom sơ cấp (thùng 240 lít) cũng như hệ thống vận chuyển (xe thùng không ép). Quy trình thu gom này bao gồm 2 mạng lưới thu gom song song, như trong hình 4.3 và hình 4.4.
+ Do rác dân lập (tư nhân):
Xe lam, xe ba gác, xe tải nhỏ
Các cơ sở thu mua phế liệu
Các cơ sở tái chế tư nhân
Thùng 240 lít
Nguồn xả rác
Hình 4.3. Sơ đồ vận chuyển rác tái chế của tư nhân có sử dụng thùng 240 lít do nhà nước đầu tư ban đầu
+ Sơ đồ quy trình thu gom do người dân thực hiện:
Các cơ sở tái chế tư nhân
Xe lam, xa ba gác, xa tải nhỏ
Các cơ sở thu mua phế liệu
Quang gánh, bao tải xe cải tiến
Nguồn xả rác
Hình 4.4. Quy trình thu gom rác tái chế do người dân tự thực hiện
Chi phí phải trả cho hoạt động thu gom này tính trong tiền thu phí rác của hộ gia đình như trước đây.
+ Do nhà nước:
Như đã trình bày như trên, trong phương án này công tác thu gom chủ yếu do tư nhân đảm trách. Tuy nhiên, để dự phòng trong trường hợp một phần chất thải tái chế vẫn không được thu gom do phần chất thải này ít có giá trị hoặc vì những lý do nào đó thì nhà nước vẫn phải đầu tư hệ thống thu gom phần chất thải đã được tách ra còn lại này. Dự trù cho trường hợp này nhà nước cần phải đầu tư một hệ thống tương tự như hệ thống nhà nước thu gom hoàn toàn. Sơ đồ thu gom tương tự như trong hình 4.1.
Vận chuyển:
Trong phương án 2, phần CTR có giá trị tái sinh và tái chế cao sẽ được phân loại và bán cho các vựa thu mua phế liệu còn XNCTCC và CTMTĐT vận chuyển các loại phế liệu ít có giá trị đến trạm phân loại. Số lượng xe sẽ giảm đáng kể.
Trạm phân loại: trạm phân loại của phương án này tương tự phương án 1.
Phân tích ưu và nhược điểm của phương án 2:
Ưu điểm:
Tận dụng được toàn bộ hệ thống nhặt (phân loại), thu gom, tái sinh, tái chế với hàng chục ngàn công nhân đã tồn tại từ những năm đầu thế kỷ của Thành phố.
Không phải đầu tư lớn vào toàn bộ các khâu trong hệ thống. Chỉ phải đầu tư vào hệ thống sản xuất compost.
Không phải tăng số lượng xe vận chuyển và không phải xây dựng các trạm phân loại tập trung hoặc xây dựng các trạm với công suất nhỏ hơn.
Có điều kiện dễ dàng hơn để quản lý được hệ thống tư nhân.
Hệ thống chính sách, quy định và luật lệ có thể thay đổi dần dần theo sự hiểu biết (tri thức của người dân).
Nhà nước có điều kiện tập trung vào giải quyết vấn đề chất thải hữu cơ.
Nhược điểm:
Nhà nước không thu lợi nhuận từ hệ thống PLCTRSHTN để hoàn vốn ban đầu.
Khó có khả năng hiện đại hóa hệ thống để tăng năng suất và giảm tính độc hại cho người lao động vì vốn tư nhân cao.
Khó quản lý được giá cả thu mua.
Khó đảm bảo chất lượng môi trường tại các công đoạn quản lý CTR và các cơ sở tái chế.
Quản lý kỹ thuật
Bên cạnh phương án PLCTRSHTN, tôi nghĩ cần phải quan tâm nhiều hơn đến công tác quản lý kỹ thuật. Công tác quản lý kỹ thuật được đề xuất thông qua quá trình tìm hiểu hiện trạng thu gom, trung chuyển và vận chuyển CTRSH trên địa bàn Quận 2 cùng với bảng dự đoán dân số Quận 2 đến 2015 (bảng 3.5) và bảng dự đoán phát sinh chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn Quận 2 đến 2015 (bảng 3.7).
* Về quá trình thu gom của các lực lượng dân lập, công lập
Lực lượng công lập chủ yếu quét rác đường phố và thu gom một số chợ, trường học. Trang thiết bị thu gom và trang thiết bị bảo hộ lao động tương đối đầy đủ. Công tác này thực hiện tốt, tuy nhiên số lượng công nhân vẫn còn thiếu.
Các xe tự chế của lực lượng dân lập đang sử dụng hiện nay về an toàn vệ sinh môi trường là không có. Trong quá trình thu gom, rác được chất lên cao, thùng xe đựng rác lại không được hàn kín. Vì vậy, nước rác chảy bừa bải trên đường thu gom cùng với rác bị gió cuốn lên thổi bay tung tóe vào những ngày mùa mưa à gây mất mỹ quan đô thị, gây khó chịu cho người dân. Một số công nhân thu gom dân lập không trang bị đủ trang thiết bị bảo hộ lao động: nón, áo phản quang, găng tay, giày ống, Chính những bất cập trên nên tôi đề nghị Sở Tài nguyên Môi trường cùng với Phòng Tài nguyên Môi trường Quận 2 và Xí Nghiệp Công Trình Công Cộng cùng với các tổ chức thu gom dân lập nên tăng cường các trang thiết bị sau:
Thay đổi tất cả các xe tự chế của lực lượng thu gom rác dân lập thành các xe có thùng chứa kín, có nắp đậy. Thay mới 88 xe đẩy tay, mỗi phường 8 chiếc. Vẫn giữ lại các xe kéo có thùng 150 lít như cũ: 6 chiếc
Xe kéo tay là 11 chiếc, thu gom rác trong các tuyến hẻm : 2 công nhân/xe; xe đẩy tay (66 chiếc), thu gom rác đường phố, trung bình mỗi phường 6 chiếc với quy định: 2 công nhân/xe, định mức 5000 mét/xe/ngày.
Trang bị hoặc yêu cầu các lực lượng thu gom dân lập phải trang bị đầy đủ trang thiết bị bảo hộ lao động khi làm việc.
Cần tăng cường thêm công nhân thu gom:
Các đội thu gom rác dân lập: 182 người.
Xí nghiệp Công Trình Công Cộng Quận 2:
Công nhân xe đẩy tay + quét: 154 người.
Lái xe, phụ tải xe ép rác: 54 người.
* Về quá trình trung chuyển và vận chuyển
Rác được tập kết tại điểm hẹn không khớp với giờ lấy rác của xe vận chuyển gây tình trạng rác bị tồn đọng qua đêm. Việc vệ sinh các điểm hẹn sau khi thu gom còn kém. Vì vậy, cần chú ý các mục sau:
+ Lựa chọn vị trí làm điểm hẹn: việc chọn một địa điểm trong khu dân cư để làm điểm hẹn cần tuân theo các nguyên tắc sau:
Chất lượng tuyến đường, chiều rộng của tuyến đường và lề đường phải đảm bảo hoạt động của điểm hẹn không ảnh hưởng đến giao thông đô thị. Điểm hẹn phải được xịt rửa nước để vệ sinh và khử mùi hôi.
Vị trí điểm hẹn có thể thay đổi tùy theo thời gian hoạt động, thời tiết
Một xe ép rác phải tập kết nhiều điểm hẹn (trung bình 1 - 3 tùy theo tải trọng xe, tuyến thu gom) hoặc vừa thu gom rác hộ dân dọc tuyến đường chính vừa thu gom rác tại các xe đẩy dọc tuyến đường chính hay tiếp nhận rác từ các xe đẩy tay thu gom rác trong các hẻm.
+ Thời gian hoạt động của điểm hẹn: thời gian hoạt động của các điểm hẹn cũng phải tuân theo các yêu cầu sau:
Phân bố thời gian tại các khu hợp lý để phù hợp với thời gian hoạt đồng tại các điểm hẹn, tạo điều kiện cho việc vận chuyển rác được liên tục, tránh tình trạng xe rác phải lưu lại khá lâu và sự nối đuôi của các xe đẩy vào giờ cao điểm. Cụ thể tùy theo thời gian xoay vòng của xe ép, thời gian chuyển rác lên xe mà quy định thời gian gom rác từng nơi, tránh tình trạng để rác qua đêm.
Thời gian hoạt động của các điểm hẹn không được nằm trong giờ cao điểm về giao thông.
+ Vệ sinh môi trường tại các điểm hẹn
Các loại xe đẩy tay và xe ép rác phải được thiết kế phù hợp để việc chuyển rác lên xe ép nhanh chóng và không rơi vải rác thải xuống lòng đường.
Xe ép rác phải có ngăn chứa nước rỉ rác, tránh tình trạng nước rác bị ép chảy xuống lòng đường.
Sau khi hoàn tất công việc tập kết rác, điểm hẹn phải được rửa bằng hệ thống vòi áp lực cao lắp đặt tái các xe ép rác hoặc bằng xe xịt nước đường phố.
+ Cần thay đổi các bô rác hở thành các trạm ép rác kín, có mái che mưa để công nhân có thể làm việc dễ dàng trong mùa mưa, cần đầu tư thêm các thùng rác ép kín.
Thường xuyên kiểm tra chất lượng thu gom rác tại các điểm hẹn, chất lượng vệ sinh tại những nơi này. Cần dùng chế phẩm khử mùi và dung dịch khử mùi tại những điểm hẹn này.
Các tuyến lấy rác của các xe vận chuyển được thực hiện hợp lý, không ảnh hưởng nhiều đến giao thông. Tuy nhiên, số lượng xe vận chuyển của Quận 2 còn thiếu so với hiện tại và tương lai với sự phát triển của dân số Quận 2 thì lại càng thiếu nhiều hơn nên Sở Tài nguyên Môi trường cùng với XNCTCC Quận 2 cần tăng cường các loại xe sau:
Xe ép rác chuyên dùng 2,5 tấn (10 chiếc) và 4 tấn (2 chiếc) thu gom rác ở các hộ mặt tiền đường chính, cơ quan, xí nghiệp, chợ. Số lần quay vòng trong ngày là 4 lần tính cho cự ly vận chuyển trung bình là 20 – 40 km (cả lượt đi và về cộng tuyến đường thu gom), thời gian trung bình cho 1 lần xoay vòng là 2 - 3 giờ (vận tốc 10 - 30 km/h).
Xe ép rác chuyên dùng 6 – 8 tấn (5 chiếc) thu gom rác tại các điểm hẹn, trạm trung chuyển: định mức 3 công nhân xe, số lần quay vòng trong ngày là 3 lần tính cho cự ly vận chuyển trung bình là 20 - 50 km (cả lượt đi và về cộng tuyến đường thu gom), thời gian trung bình cho 1 lần xoay vòng là 2 - 3,5 giờ (vận tốc 10 – 30 km/h).
KẾT LUẬN
Qua hơn ba tháng thực hiện đề tài “Đánh giá hiện trạng và đề xuất các biện pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Quận 2, Tp.HCM”, tôi đã thu được kết quả sau:
Đối với qui trình thu gom rác hộ gia đình và quét rác đường phố
- Tốc độ phát sinh rác ở Quận 2 trong khoảng 0,62 – 0,77 kg/người/ngày. Giá trị trung bình có thể chấp nhận được là 0,7 kg/người/ngày. Tuy nhiên, công tác thu gom chỉ thực hiện được 85% tổng số hộ trên địa bàn Quận 2. Vì thế, tốc độ phát sinh có thể cao hơn nữa.
- Trong rác sinh hoạt từ các hộ gia đình có khoảng 87,5% rác thực phẩm và 3% rác phế liệu. Kết quả này cho thấy nếu Quận tiến hành phân loại rác tại nguồn thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí từ các khâu thu gom, vận chuyển và xử lý.
- Chiều dài một chuyến thu gom trung bình bằng xe ba gác là 1,70 km. Thời gian bắt đầu lộ trình thu gom nằm trong khoảng 5 – 9 giờ sáng. Thời gian để hoàn tất một dây thu gom rác có mức xuất hiện nhiều nhất dao động trong khoảng 3,5 – 7g. Thời gian chờ tại điểm hẹn 1 - 12 giờ.
- Số lần quay vòng xe đạt 2 - 4 chuyến/ngày. Số hộ không giao rác chiếm tỉ lệ 15%.
- Mức lương cho lao động làm việc trong khối dân lập dao động trong khoảng (600.000 - 1.600.000 đồng/tháng). Ngoài ra, mỗi ngày công nhân thu gom thực hiện phân loại rác bán cho các vựa ve chai cũng kiếm thêm 20.000 đồng mỗi ngày.
- Hình thức thu gom thô sơ, chất lượng vệ sinh sau khi thu gom tương đối sạch, xe thu gom chở quá đầy (hệ số chứa đầy khoảng 1,5 – 1,8), rác chất quá cao làm rơi rớt trên đường vận chuyển cho nên cần sử dụng thêm nhiều phương tiện thu gom và thùng chứa rác hợp lý hơn.
Qui trình thu gom rác trên đường phố (tại các điểm hẹn)
- Để vạch tuyến thu gom rác hợp lý là một công việc khó khăn đòi hỏi nhiều thời gian và sự tính toán cẩn thận. Hiện nay, công tác thu gom trên Quận 2 mới chỉ bắt đầu và còn nhiều khó khăn, việc bố trí điểm hẹn không hợp lý, gây ảnh hưởng đáng kể đến môi trường xung quanh.
- Ngoài ra, công tác thu gom rác tại điểm hẹn còn nhiều bức xúc, thời gian thu gom chưa hợp lý, thời gian xe ép tới lấy rác tại điểm hẹn cũng chưa khớp với thời gian giao rác của các xe thu gom cơ sở, với lý do đó nên rác bị để tại điểm hẹn qua đêm.
- Trang thiết bị, dụng cụ thu gom, chế độ ưu đãi có một số vấn đề bàn tới, chất lượng các xe thu gom cơ sở, chất lượng dụng cụ thu gom, trang bị bảo hộ lao động cho công nhân và một số chế độ ưu đãi cần thiết cho công nhân thu gom.
Qui trình trung chuyển chất thải rắn
- Có 7 trạm trung chuyển trên toàn địa bàn Quận, trong đó chỉ có 1 trạm ép kín Bình Trưng Tây là có quy mô và đảm bảo chất lượng môi trường cũng như mỹ quan. Các trạm trung chuyển khác nằm xen kẻ gần khu dân cư gây ảnh hưởng đến người dân xung quanh.
- Chất lượng sàn công tác tương đối tốt, hầu hết được bêtông hóa. Nhưng công tác vệ sinh sau khi thu gom còn kém.
- Đa số các trạm trung chuyển đều chưa có hệ thống khử mùi, xử lý nước và dải cây xanh cách ly an toàn.
Qui trình vận chuyển chất thải rắn
- Chất lượng vệ sinh dọc theo các tuyến vận chuyển rác nhìn toàn cục đảm bảo vệ sinh, mùi từ xe bốc ra ít ảnh huởng đến người đi đường do xe vận chuyển ít đi vào giờ cao điểm.
KIẾN NGHỊ
Nhằm nâng cao hiệu quả của việc quản lý CTR tại Quận, chúng tôi đưa ra một số đề xuất dựa trên các kết quả điều tra thực tế sau:
- UBND Thành phố nói chung và UBND Quận 2 nói riêng phải có chính sách hỗ trợ cụ thể cho chương trình nâng cao ý thức giáo dục về vấn đề phân loại rác tại nguồn và lợi ích của việc phân loại rác tại nguồn.
- Khuyến khích và kêu gọi các đơn vị, các tập thể cá nhân tham gia tình nguyện hưởng ứng việc thực hiện phân loại rác tại nguồn.
- Phát miễn phí các thùng chứa (thùng 10 lít), các loại túi nilon chứa rác trong giai đoạn đầu (6 tháng), ta có thể thu thêm một ít vào lệ phí thu gom rác (chỉ miễn phí cho các hộ dân ở phường BìnhAn).
Trong khi, thực hiện việc PLRTN cho phường Bình An, thì cũng cần tăng cường thêm các mục sau:
- Điều chỉnh, xây dựng lại các điểm hẹn, bô rác hợp lý hơn.
- Đầu tư thêm trang thiết bị lưu chứa rác (thùng 240 lít), trang bị thêm trang thiết bị bảo hộ lao động cho lực lượng thu gom dân lập.
- Cần tăng cường thêm các loại xe sau: xe đẩy tay, xe kéo tay, xe ép 2,5 tấn, xe ép 6-8 tấn.
- Bổ sung thêm một số ưu đãi như bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn và khám bệnh định kỳ (cả dân lập lẫn công lập).
- Những công nhân theo xe rác làm việc rất vất vả, đặc biệt phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết nên họ cần được quan, tâm nhiều hơn nữa về chế độ, chính sách.