Từ những kết quả phân tích trên chúng tôi rút ra một số kết luận sau
1. Xã Vân hoà có diện tích đất tự nhiên là 3290,98 ha đất trông đó đất rừng, đất đồi, đất chưa sử dụng có thể cải tạo để trồng cỏ hoặc trồng xen cỏ còn khá nhiều. Nguồn phụ phẩm nông nghiệp có thể sử dụng làm thức ăn cho trâu, bò còn khá dồi dào. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế trong việc bảo quản, chế biến và sử dụng. Như vậy Vân Hoà có tiềm năng lớn về thức ăn để phát triển chăn nuôi trâu bò.
2. Tình hình chăn nuôi của Vân Hoà nhìn chung phát triển khá tốt. Tổng đàn bò hiện nay: Bò sữa là 320 con, bò thịt là 1320 con. Trong đó bò thịt và bò sữa đang có xu hướng phát triển khá nhanh. Đàn lợn ở đây cũng có mức tăng bình quân khá cao.
3, Tổng đàn trâu của Vân Hoà trong những năm gần đây có xu hướng giảm dần, năm 2008 tổng đàn trâu của xã là 985 con. Trong đó tỷ lệ trâu cái và trâu dưới 2 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao. Trâu ở đây có kích thước và khối lượng trung bình so với cả nước. Về phương thức chăn nuôi trâu ở đây vẫn chăn nuôi theo phương thức quảng canh.
4. Khả năng sinh trưởng của đàn nghé thuộc loại trung bình, tốc độ tăng trưởng bình quân của nghé từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi là
61 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 840 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Hiện trạng chăn nuôi trâu và khả năng sinh trưởng và phát triển của đàn nghé tại xã Vân Hoà-Huyện Ba Vì-TP Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ặng trên 800kg.
Phần thứ ba
ĐốI TƯợNG, NộI DUNG Và PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU
3.1. Thời gian, địa điểm và đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Thời gian, địa diểm nghiên cứu
- Địa điểm: Xã Vân Hoà-huyện Ba Vì - TP Hà Nội
- Thời gian: từ ngày 20/2/2009 đến ngày 8/6/2009
3.1.2. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng: Đàn trâu đàn trâu được nuôi tại các hộ chăn nuôi của xã Vân Hoà
3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Nội dung
- Đặc điểm tự nhiên - kinh tế xã hội của xã Vân hoà-Ba Vì-TP Hà Nội.
- Tình hình sản xuất nông nghiệp của xã Vân Hoà -Ba Vì-TP Hà Nội.
- Tình hình chăn nuôi trâu của xã Vân Hoà -Ba Vì-TP Hà Nội.
- Hiện trạng sử dụng phụ phẩm nông nghiệp trong chăn nuôi trâu tại xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội.
- Khảo sát sự sinh trưởng đàn nghé từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi ỡ xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội.
3.2.2. Phương pháp
- Các số liệu về đặc điểm tự nhiên, xã hội của địa phương được thu thập từ các số liệu thống kê của xã và phòng nông nghiệp huyện Ba Vì.
- Căn cứ vào số liệu thống kê của xã và phòng thống kê của huyện
- Căn cứ vào số liệu thống kê hàng năm của ban thống kê xã và phòng thống kê huyện.
- Dựa vào kết quả điều tra của chúng tôi, kết quả nghiên cứu và phân tích tình hình sử dụng phụ phẩm nông nghiệp của một số tác giả.
- Điều tra qua sổ sách của các thôn trưởng và phỏng vấn trực tiếp các hộ chăn nuôi.
Để đánh giá khả năng sinh trưởng của gia súc, người ta thường dùng phương pháp cân khối lượng và đo kích thước chiều đo của cơ thể. Đối với trâu thường tiến hành cân đo ở các lứa tuổi: Sơ sinh, 3 tháng tuổi, 12, 18, 24, 36, 48, 60 và 72 tháng tuổi. khi trâu đạt 72 tháng tuổi trở lên là thời điểm đã thành thục về thể vóc.
- Xác định kích thước chiều đo: Đối với nội dung này chúng tôi tiến hành xác định kích thước 4 chiều đo (Vòng ngực, dài thân chéo, cao vây, cao khum) theo giáo trình chăn nuôi trâu bò – Trường Đại Học Nông Nghiệp I – Hà Nội 1991).
+ Vòng ngực (VN): Là chu vi của vòng ngực được đo sau xương bả vai, theo chiều thẳng đứng, đo bằng thước dây.
+ Dài thân chéo (DTC): Là khoảng cách giữa điểm trước là khớp xương bả vai và điểm cuối là u ngồi xương chậu, đo băng thước dây.
+ Cao vây (CV): Đo bằng thước gậy, đặt thước gậy vuông góc với mặt phẳng đất, khoảng cách tính từ mặt đất đến điểm cao nhất của bả vai.
+ Cao khum (CK): Đo bằng thước gậy, đặt thước gậy vuông góc với mặt đất, tính từ mặt đất đến điểm cao nhất của xương khum.
- Khối lượng trâu qua các lứa tuổi được xác định như sau:
+ Khối lượng nghé sơ sinh: Được cân trực tiếp bằng cân treo, cân ngay sau khi nghé được sinh ra.
+ Khối lượng nghé từ 3, 6,12, 24, 30, 36, 48, 60, 72tháng tuổi, được cân bằng cân điện tử Rudd Weight, cân vào buổi sáng trước khi ăn.
- Khả năng sinh trưởng của trâu sẽ được đánh giá dựa vào kết quả cân, đo và được biểu diễn bằng các đại lượng sau:
+ Sinh trưởng tích luỹ: Là sự tăng khối lượng cơ thể, kích thước các chiều đo trong một đơn vị thời gian nhất định.
+Sinh trưởng tuyệt đối : Là khối lượng và kích thước cơ thể gia súc tăng lên trong một đơn vị thời gian và được tính theo công thức sau:
(g/con/ngày)
+ Sinh trưởng tương đối : Là tỉ lệ phần trăm của khối lượng, thể tích, các chiều đó của cơ thể tăng ỏ thời kì cuối so với thời kì đầu cân đo và được tính theo công thức sau:
R = (%)
Trong đó :
A- Là sinh trưởnh tuyệt đối (g/con/ngày)
R- Là sinh trưởng tương đối (%)
V1- Là khối lượng, kích thích tương ứng với thời điểm khảo sát là T1
V2- Là khối lượng, kích thước, thể tích ứng với thời điểm khảo sát T2
T1, T2 là thời điểm khảo sát
3.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý trên máy tính theo chương trình excel và chương trình Minitab 14,0 để tìm ra các tham số: n, X, SE, SD, Cv%.
Trong đó:
N : dung lượng mẫu
: giá trị trung bình
SE: sai số chuẩn của giá trị trung bình
SD: độ lệch chuẩn
Cv%: hệ số biến dị
Phần thứ 4
KếT QUả Và THảO LUậN
4.1. Đặc điểm tự nhiên - kinh tế, xã hội của xã Vân Hoà
4.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm địa hình
Xã Vân Hoà nằm ở phía nam của huyện Ba Vì, TP Hà Nội cách thị xã Sơn Tây khoảng 12 km, có địa giới giáp với:
Phía Bắc giáp với xã Yên Bái
Phía Đông và phía Nam giáp với xã Kim Sơn
Phía Tây giáp với xã Tản Lĩnh
Nằm trên sườn núi phía đông của dãy núi Ba Vì. Tổng diện tích tự nhiên của xã là 3289,2 ha, trong đó 75% diện tích phía Nam là đồi núi cao, có nhiều khe suối, vì vậy đất nông nghiệp chiếm một phần rất ít, nằm rải rác ở các thung lũng nhỏ, còn lại đa phần là đất lâm nghiệp. Đây chính là một lợi thế cho chăn nuôi đại gia súc nói chung và trâu nói riêng.
Còn lại 25% diện tích phía Bắc của xã có điạ hình thấp và bằng phẳng với những quả đồi thấp đan xen với những thung lũng khá rộng, thích hợp với việc trồng những loại cây lương thực và hoa màu như lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, đâu tương Hàng năm những loại cây trồng này cho một lượng lớn phụ phẩm như: rơm, lá sắn, lá và thân cây ngô, thân lá cây lạc Đây là nguồn thức ăn phong phú với đại gia súc vì chúng có thể sử dụng tốt nguồn thức ăn này. Phát triển chăn nuôi đại gia súc sẽ giúp nông dân khai thác và tận dụng nguồn thức ăn ấy một cách có hiệu quả và chánh lãng phí.
Trên địa bàn của xã có 3 khu du lịch nổi tiếng là Thác Đa, Suối ổi, Khoang Xanh, xung quanh lại có khu du lịch như Ao Vua, Đồng Mô. Đây chính là nguồn tiêu thụ rất lớn các sản phẩm từ trâu bò như: Thịt và các đồ mỹ nghệ làm từ sừng, xương trâu bò. Đó là một lực lượng lớn thúc đẩy chăn nuôi trâu ở đây phát triển.
Tuy nhiên với địa hình cao, không bằng phẳng, hệ thống thuỷ lợi kém phát triển gây khó khăn lớn cho ngành trồng trọt và chăn nuôi vào mùa khô.
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội của xã Vân Hoà
- Tình hình dân số
Theo số liệu thống kê của ban dân số xã cho biết, cho đến năm 2009 toàn xã có khoảng 2164 hộ và số khẩu là 8807 nhân khẩu. Trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm 40% dân số của xã và lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 97%.
Với nguồn lao động rồi dào, mật độ dân số thưa (khoảng 338,56 người/km2), diện tích đất đai rộng lớn là điều kiên thuận lợi để phát triển ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi trâu nói riêng theo hướng hàng hoá có hiệu quả.
Trình độ dân trí và cơ sở vật chất của xã Vân Hoà
Vân Hoà nằm trên địa bàn của khu du lịch Ba Vì, trên địa bàn có ba khu du lịch nổi tiếng là Thác Đa, Suối ổi, Khoang Sanh, xung quanh lại có các khu du lịch như: Ao Vua, Đồng Mô Do đó mà cơ sở vật chất của xã được đầu tư chú trọng đầu tư phát triển, hệ thống trường học, trạm y tế khang trang, hệ thống giao thông phát triển thuận lợi cho việc buôn bán hàng hoá với bên ngoài.
Về trình độ dân trí, xã không còn người mù chữ, 100% trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường, toàn xã phổ cập trung học cơ sở. Đây chính là cơ sở, là nền tảng giúp người dân ở đây tiếp thu những tiến bộ khoa học, kỹ thuật để áp dụng vào thực tế sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp của xã nói chung và ngành chăn nuôi nói riêng.
Cùng với sự phát triển của ngành sản xuất nông nghiệp và ngành du lịch, đời sống của người dân từng bước được nâng cao. Hiện xã Vân Hoà không còn hộ đói, hộ nghèo chỉ còn 68 hộ chiếm 3,96%. Trong thời gian tới Vân Hoà tiến tới phấn đấu không còn hộ nghèo.
Vân Hoà với nền kinh tế đang phát triển, cơ sở vật chất đầy đủ, nguồn nhân lực dồi dào, điều kiện tự nhiên thuận lợi là những yếu tố quan trọng trong ngành chăn nuôi ở đây phát triển theo phương thức hàng hoá một cách thuận lợi.
4.1.3. Khí hậu thủy văn
Huyện Ba Vì nói chung và xã Vân Hoà nói riêng thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Thời tiết trong năm được chia làm 4 mùa rõ rệt: Xuân, hạ, thu, đông. Trong đó mùa hạ và mùa thu chịu ảnh hưởng của gió Đông Nam thổi từ phía đông vào hặp dãy núi Ba Vì chặn lại nên vào thời gian này ở đây mưa rất nhiều. Ngược lại vào mùa đông và mùa xuân, Vân Hoà lại chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc nên nhiệt độ thấp và ít mưa.
Mùa mưa ở đây kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, theo số liệu của trạm khí hậu Ba Vì thì lượng mưa cao nhất là vào tháng 7 đạt 434 mm. Còn mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, trong đó tháng 2 có lượng mưa thấp nhất chỉ đạt 12,03 mm. Lượng mưa trung bình ở đây đạt 158,27 mm
Về nhiệt độ có sự chênh lệch theo mùa, thường nóng nhất vào tháng 7 và thấp nhất vào tháng 1. Theo số liệu của trạm khí hậu thuỷ văn Ba Vì thì những ngày nóng nhất nhiệt độ đạt 39,50C và thấp nhất có thể xuống tới 80C. Đây là một điêud cần lưu ý đối với ngành chăn nuôi, đặc biệt đối với những vật nuôi dễ bị stress nhiệt như bò sữa.
Độ ẩm ở đây biến động theo mùa, cũng theo số liệu của trạm khí hậu thuỷ văn Ba Vì thì độ ẩm vào mùa thu đạt 75%-76%, mùa đông trung bình khoảng 90,32%. Điều đó được thể hiên rõ qua bảng 4 một số chỉ tiêu khí hậu của xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội
Bảng 4: Một số chỉ tiêu khí hậu của xã Vân Hoà
Tháng
Nhiệt độ ( 0C )
Độ ẩm ( % )
Lượng mưa TB (mm)
TB
Min
Max
TB
Min
Max
1
16,75
9,05
23,50
90,20
70,96
109,83
20,27
2
19,38
21,16
25,89
91,44
73,00
109,90
11,89
3
22,0
14,06
30,50
85,40
73,45
97,14
102,70
4
24,08
16,02
32,15
85,21
75,14
95,56
130,20
5
28,28
19,89
37,70
80,88
72,57
89,27
180,50
6
29,09
21,10
38,80
81,89
71,59
92,15
385,20
7
30,72
22,25
39,10
76,13
68,12
84,04
433,40
8
29,09
20,09
37,10
72,11
58,89
86,20
308,06
9
26,60
17,09
35,50
70,15
54,10
85,24
135,40
10
23,35
15,80
32,86
70,52
56,00
85,15
94,81
11
21,42
13,65
29,15
77,66
64,16
91,58
54,88
12
18,86
11,23
26,50
86,28
72,15
100,00
41,39
TB cả năm
24,23
16,11
32,36
80,66
67,52
93,79
158,27
4.1.4. Tình hình sử dụng đất
Qua số liệu thống kê của xã và huyện, chúng tôi lắm được tình hình sử dụng đất của xã Vân Hoà như sau:
Bảng 5: Tình hình sử dụng đất của xã Vân Hoà năm (2008)
Loại đất
Diện tích (ha)
Tỷ lệ (%)
Tổng diện tích đất tự nhiên
3289,20
100
Đất canh tác nông nghiệp
870,31
26,46
Đất lâm nghiệp
1550,18
47,13
Đất thổ cư
77,70
2,36
Đất chuyên dùng
213,70
6,50
Đất chưa sử dụng
577,89
17,57
Qua bảng 5 cho thấy xã Vân Hoà có tổng diện tích đất tự nhiên là 3289,20ha, trong đó đất dành cho nông nghiệp là 870,31ha chiếm 26,46%. Đất lâm nghiệp ở đây chiếm tỷ lệ lớn nhất 47,13% trong đó có 19ha rừng tự nhiên (chiếm 1,23%) chủ yếu khai thác theo hướng du lịch và đã đem lại nguồn lợi không nhỏ cho xã.
Điều đáng chú ý là diện tích trồng rừng của xã là 851.31ha, dưới tán rừng là cỏ tự nhiên đây là nguồn thức ăn dồi dào, rất thuận lợi cho phát triển đàn gia súc ăn cỏ trong đó có trâu, có thể chăn nuôi với quy mô lớn, để sản xuất ra các sản phẩm mang tính chất hàng hoá.
Ngoài ra, Vân Hoà vẫn còn một lượng lớn đất chưa sử dụng 577,89ha, chiếm 17,57% tổng diện tích đất tự nhiên của xã, trong đó có 361,22ha cỏ mọc tự nhiên chiếm 10,89%. Số diện tích còn lại chưa sử dụng có thể khai thác để trồng cỏ voi, các cây làm thức ăn cho gia súc và làm bãi chăn thả.
Ta có thể thấy rằng xã Vân hoà với điều kiện địa hình như vậy là một tiềm năng rất lớn để phát triển ngành chăn nuôi trâu bò.
4.2. Tình hình sản xuất nông nghiệp của xã Vân Hòa-Ba Vì-TP Hà Nội
4.2.1. Tình hình sản xuất ngành trồng trọt của xã Vân Hoà
Kết quả sản xuất một số cây trồng của xã Vân Hoà được thực hiện ở bảng sau:
Bảng 6: Kết quả sản xuất của một số cây trồng Xã Vân Hoà năm 2008
Loại cây trồng
Diện tích (ha/năm)
Năng suất (tạ/ha/năm)
Sản lượng (tạ/năm)
Phụ phẩm (tạ)
Lúa
500
53
26500
21200
Ngô
75
45
3375
8032,5
Đậu tương
14
11
154
1190
Lạc
80
18
1440
6400
Sắn
65
16,2
1053
6354
Cỏ voi
40
2000
80000
0
Tổng
759
2143,2
112522
26960
Với địa hình phức tạp, nhiều đồi núi, khe suối, ruộng bậc thang nên hệ thống cây nông nghiệp ở đây khá đa dạng. Cây trồng chủ yếu là các cây lương thực như: Cây ngô, cây khoai, cây sắn, cây đậu tương, cây lúa. Cây hoa màu như: Trồng các loại rau, trồng dưa. Cây ăn quả như: nhãn, vảituy nhiên trong quá trình khảo sát chúng tôi chỉ tìm hiểu sâu về một số loại cây trồng có thể tận dụng nguồn phụ phẩm phục vụ cho chăn nuôi đại gia súc như chăn nuôi trâu bò.
Theo bảng số 6 chúng tôi nhận thấy trong các loại cây lương thực như: Lúa, ngô, khoai, sắn, đậu tương, thì lúa là cây lương thực chủ yếu. Tổng diện tích trồng lúa năm 2008 của xã là 500 ha/năm, sản lượng thóc thu được là 26500 tạ.
Theo Nguyên Xuân Trạch khi nghiên cứu ở Đông Anh cho biết tỷ lệ thóc so với rơm là thì hàng năm vùng này ước tính có lượng rơm ước tính khoảng 21200 tạ. Đây là nguồn phụ phẩm lớn và quan trọng đối với trâu bò. Đặc biệt là trong vụ Đông Xuân, thời tiết hanh khô, nguồn thức ăn cho trâu bò cạn kiệt.
Cây ngô được trồng chủ yếu và vụ Đông Xuân, năm 2008 tổng diện tích trồng ngô của xã Vân Hoà là 75ha, sản lượng đạt 3375 tạ/năm. Theo Vũ Duy Giảng và Tôn Thất Sơn thì tỷ lệ thân, lá cây ngô sau thu bắp/sản lượng ngô hạt là 2,38. Vậy với 3375 tạ ngô hạt toàn xã có khoảng 8032,5 tạ thân và lá ngô, đây cũng là nguồn thức ăn phong phú cho trâu bò. Đặc biệt là ngô trồng vào vụ Đông Xuân vì đây là vụ khan hiếm thức ăn của đại gia súc, do đó nó đã góp phần đáng kể vào việc giải quyết thức ăn cho trâu, bò vào thời điểm này.
Đậu tương và lạc cũng được trồng khá nhiều ở xã Vân Hoà năm 2008 tổng diện tích trồng đậu tương của xã Vân Hoà là 14ha, sản lượng đạt 154 tạ, tổng diện tích lạc là 80ha, sản lượng đạt 1440 tạ. Cũng theo Vũ Duy Giảng và Tôn Thất Sơn thì lượng phụ phẩm thu được từ lạc và đậu tương khoảng từ 80 - 85 tạ/ha. Vậy ước tính toàn xã năm 2008 có khoảng 1190 tạ thân lá đậu tương và 6400 tạ thân lá lạc. Nếu biết cách chế biến thì đây cũng là nguồn thức ăn giàu chất đạm cho trâu bò. Đồng thời đây cũng là nguồn thức ăn dự trữ rất tốt cho đại gia súc vào những tháng khan hiêm thức ăn, đặc biệt là vụ Đông Xuân, thời tiêt hanh khô.
Đất triền đồi chiếm một tỷ lệ đáng kể nên cây sắn được trồng khá nhiều năm 2008 toàn xã có khoảng 65ha, sản lượng đạt 1053 tạ/năm, lượng phụ phẩm ước tính khoảng 6354 tạ/năm. Đây là nguồn thức ăn giàu năng lượng và đạm, tuy nhiên lại có độc tố HCN gây độc cho gia súc nếu sử dụng nhiều, nếu biết cách chế biến thì nó cũng trở thành nguồn thức ăn lớn cho trâu bò.
Như vậy ngành trồng trọt của xã Vân Hoà đã cung cấp nguồn phụ phẩm lớn, rẻ tiền, có thể chế biến và bảo quản làm thức ăn tốt cho trâu bò. Ngoài ra xã Vân Hoà còn trồng cỏ voi làm thức ăn cho trâu bò với tổng diện tích khoảng 40ha, sản lượng đạt khoảng 40000 tạ/năm cung cấp một lượng thức ăn lớn cho ngành chăn nuôi đại gia súc. Đặc biệt nó là nguồn thức ăn chủ yếu cho chăn nuôi bò sữa. Bên cạnh đó xã còn 361,22ha đất chưa sử dụng và 881,31ha rừng có thể trồng cỏ voi xen vào được, sẽ tận dụng được một diện tích tương đối lớn. Với tiềm năng phụ phẩm như vậy Vân Hoà có thể đẩy mạnh chăn nuôi trâu bò, góp phần nâng cao đời sống người dân.
4.2.2. Tình hình sản xuất ngành chăn nuôi của xã Vân Hoà
Theo kết quả điều tra tìm hiểu tình hình chăn nuôi của xã, chúng tôi nhân thấy số lượng trâu giảm liên tục từ năm 2003 đến năm 2007, giảm mạnh nhất là năm 2007, trong vòng 1 năm mà giảm 172 con tỷ lệ giảm 15.5% so với năm trước (2006). Đến năm 2008 tạ thấy co sự tăng lên nhưng với số lượng không đáng kể. Năm 2003, tổng đàn trâu của xã là 1190 con nhưng đến năm 2007 chỉ còn có 932 con, năm 2008 tăng lên là 985 con. Bình quân giảm 5,7% mỗi năm.
Tuy số lượng đàn trâu của xã giảm nhưng đàn bò thịt của xã lại tăng liên tục, năm 2003 đàn bò thịt của xã Vân Hoà có 671 con, đến năm 2008 thì tổng đàn bò thịt của xã là 1320 con, bình quân mỗi năm tăng 14,57%, trong đó năm 2007 có mức tăng cao nhất (tăng 23,08% so với năm 2006). Qua tìm hiểu chúng tôi thấy nguyên nhân là sự tăng đàn cơ giới, do các hộ chăn nuôi thấy được hiệu quả kinh tế của chăn nuôi bò nên một số hộ đã chuyển hẳn sang nuôi bò hoặc nuôi cả trâu và bò. Không chỉ phát triển về quy mô mà chất lượng giống của đàn bò cũng được nâng cao đàn bò Lai Sin chiếm tỷ lệ lớn và dần đang thay thế đàn bò vàng Việt Nam.
Từ năm 2003 đến năm 2008 đàn bò sữa của sự tăng giảm không ổn định giữa các năm. Năm 2003 toàn xã có 144 con bò sữa năm 2004 tăng lên 164 con, mức tăng là 13,9%, đến năm 2005 tổng đàn bò sữa của xã còn 147 con, giảm 10,4% và đến năm 2006 lại tăng lên là 153 con, mức tăng là 4,1%. Năm 2007 tổng đàn bò sữa lại giảm xuống 140 con, mức giảm là 9,3%, năm 2007 lượng bò sữa giảm nguyên nhân chủ yếu là do thị trương tiêu thụ sữa bị giảm mạnh do thông tin sữa bị nhiễm Melamin. Nhưng đến năm 2008 thì số lượng bò sữa của xã lại tăng lên đáng kể, tổng đàn bò sữa của xã có 320 con, mức tăng là 128,5%, tăng hơn gấp đôi tổng số bò năm 2007. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy nguyên nhân của sự biến đổi này là do giá sữa tăng giảm thất thường, năm 2005 và năm 2007 giá sữa giảm mạnh nuôi bò sữa không mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi nên nhiều hộ dân bán đi, nhưng đến năm 2008 giá sữa tăng mạnh nên số lượng bò sữa lại được tăng lên. Nuôi bò sữa đã trở thành nguồn thu nhập chính của đại đa số các hộ nông dân. Qua điều tra thực tế chúng tôi thấy thu nhập từ một con bò sữa một năm khoảng 20 đến 40 triệu đồng, tiền từ bán sữa.
Đàn lợn của xã cũng có sự phát triển khá nhanh, năm 2003 toàn xã có 2500 con lợn, đến cuối năm 2006, tổng đàn lợn toàn xã là 4197 con, nhưng đến năm 2007 và 2008 đàn lợn lại có xu hướng giảm, giảm mạnh nhất là năm 2008. Từ năm 2003 đến năm 2006 tốc độ tăng bình quân khoảng 19%/năm. Tuy nhiên tốc độ tăng không đồng đều giữa các năm. Năm 2004, tổng đàn lợn của xã tăng 28,7% so với năm 2003, nhưng đến năm 2005 mức tăng lại giảm xuống chỉ còn 5,4% nguyên nhân là do năm 2005 dịch lở mồm long móng xảy ra trên toàn quốc, nên người chăn nuôi không giám mở rộng quy mô chăn nuôi. Đến năm 2006, mức tăng đàn lợn của xã Vân Hoà lại trở lại mức cao 23,7% so với năm 2005. Số lượng đàn lợn tăng ở mức cao như vậy là do giá lợn hơi trong nước luôn ở mức cao và ổn định. Đây chính là động lực thúc đẩy người chăn nuôi mở rộng quy mô, trên thực tế đã khá nhiều trang trại nuôi lợn thịt với quy mô hộ gia đình xuất hiện trên địa bàn xã. Từ năm 2006 đến năm 2008 tổng đàn lợn của xã Vân Hoà lại giảm, giảm mạnh vào năm 2008, mức giảm 33,3% so với năm 2006, và giảm 17,1% so với năm 2007. Nguyên nhân của sự giảm mạnh về tổng số đàn lợn của xã là do: Vì nuôi lợn đem lại hiệu quả kinh tế không cao so với nuôi bò sữa và nuôi trâu, đặc biệt năm 2008 nuôi bò sữa đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân, nên người dân chuyển từ chăn nuôi lợn sang chăn nuôi bò sữa. Đây là nguyên nhân chủ yếu của sự giảm đàn lợn.
Đàn gia cầm - thuỷ cầm, những năm gần đây gần như chững lại, không phát triển. Riêng năm 2007 thì tổng số đàn gia cầm lại tăng mạnh, và sau đó lại giảm cũng khá mạnh vào năm 2008. Đàn gia cầm thuỷ cầm ở đây chủ yếu được nuôi theo phương thức chăn thả vườn tận dụng nguồn thức ăn rơi vãi, với mục đích phục vụ cải thiện bữa ăn trong gia đình là chính, còn hình thức chăn nuôi theo công nghiệp là rất ít.
Nhìn chung, trong những năm gần đây đàn gia súc của xã Vân Hoà có sự phát triển mạnh mẽ. Đạt được kết quả như vậy là do ở đây có điều kiện tự nhiên thuận lợi, xung quanh lại có các trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi như Trung Tâm Nghiên Cứu Bò và Đồng Cỏ Ba Vì, Trung Tâm Moncada, Trại Bò Thịt Việt Mông, Trung Tâm Nghiên Cứu Đà Điểu, Trung Tâm Nghiên Cứu Dê và Thỏ Sơn Tây, luôn sẵn sàng giúp đỡ về kỹ thuật và cung cấp con giống chất lượng cho bà con nông dân.
Chúng tôi tiến hành khảo sát tình hình chăn nuôi của xã Vân Hoà trong 6 năm gần đây, kết quả được trình bày ở bảng sau:
Bảng 7: Diễn biến của đàn gia súc, gia cầm từ năm 2003-2008 (con)
Năm
Gia súc
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Trâu
1190
1164
1143
1104
932
985
Bò thịt
671
768
852
966
1189
1320
Bò sữa
144
164
147
153
140
320
Lợn
2500
3217
3392
4197
3376
2800
Gia cầm-thuỷ cầm
41210
39251
40137
40300
60370
25000
4.3. Hiện trạng sử dụng phụ phẩm nông nghiệp cho chăn nuôi trâu tại xã Vân Hoà
4.3.1.Một số loại phụ phẩm chủ yếu dùng cho chăn nuôi trâu ơ xã Vân Hoà
Nguồn thức ăn chủ yếu của trâu bò nước ta là các cánh đồng cỏ tự nhiên hoặc những ruộng cỏ do con người trồng phục vụ cho chăn nuôi trâu bò. Ngoài ra là các phụ phẩm nông nghiệp dùng cho trâu bò. Qua điều tra thực tế thì diện tích trồng cỏ và những cánh đồng cỏ tư nhiên ngày càng giảm, mà quy mô chăn nuôi trâu, bò ngày càng tăng, để đáp ứng được nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng của con người. Do đó, việc phát triển một hệ thống chăn nuôi gia súc nhai lại dựa trên các phụ phẩm nông nghiệp là một yêu cầu sống còn hiện nay cũng như trong tương lai.
Dựa trên kết quả sản xuất của ngành nông nghiệp, chúng tôi nhận thấy Vân Hoà có một lượng phụ phẩm tương đối lớn và đa dạng. Theo bảng 6 thì hàng năm xã có khoảng 21200 tạ rơm, 8032,5 tạ thân lá ngô, 1190 thân lá đậu tương, 6400 tạ thân lá lạc, 6354 tạ thân lá sắn. Theo Vũ Duy Giảng và Tôn Thất Sơn (2001) thì phụ phẩm lúa có chứa 90% vật chất khô (VCK), phụ phẩm ngô có 25% VCK, phụ phẩm lạc có chứa 20% VCK, phụ phẩm đậu tương có chứa 35% VCK. Nếu chúng ta quy đổi từ phụ phẩm nông nghiệp ra VCK thì hàng năm xã Vân Hoà sản xuất được khoảng 22785 tạ VCK.
Mặt khác, khối lượng VCK mà mỗi trâu có thể thu nhận được trong một ngày khoảng 3% khối lượng cơ thể. Giả sử khối lượng của trâu trung bình khoảng 320kg thì một ngày con trâu sẽ ăn hết 10kg VCK, một năm sẽ ăn hết 3650kg VCK. Vậy chỉ tính riêng phụ phẩn nông nghiệp xã Vân Hoà có thể nuôi được 625 con trâu mà không cần sử dụng đến nguồn thức ăn khác.
4.3.2. Tỷ lệ và những hạn chế trong việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp trong chăn nuôi trâu của xã Vân Hoà
Để đánh giá được tình hình sử dụng các nguồn phụ phẩm nông nghịêp chúng tôi đã tiến hành lựa chọn và điều tra 129 hộ nuôi trâu, các số liệu được trình bày trong bảng sau:
Bảng 8: Tỷ lệ sử dụng phụ phẩm cho chăn nuôi trâu
tại xã Vân Hoà (%)
Loại phụ phẩm
Số hộ nuôi trâu
Không sử dụng (%)
Sử dụng không qua
chế biến (%)
Sử dụng qua
chế biến (%)
Rơm lúa
14,73
85,27
0
Thân lá ngô
24,21
75,79
0
Thân lá lạc
93,02
6,98
0
Lá sắn
100
0
0
Thân, lá đỗ tương
100
0
0
Qua số liệu bảng 8 cho thấy rơm lúa và thân lá ngô là 2 loại được sử dụng chủ yếu ở đây, tỷ lệ các hộ sử dụng rơm là 85,27% thân lá ngô chiếm 75,79%. Theo Trần Quang Khải (2003) thì tỷ lệ hộ sử dụng rơm trong chăn nuôi gia súc tại thành phố Buôn Ma Thuật là 34,7%, thân lá ngô là 18,15%. So sánh với kết quả này thì tỷ lệ sử dụng rơm và thân lá ngô ở Vân Hoà cao hơn rất nhiều thành phố Buôn Ma Thuật. Sở dĩ như vậy là do, Miền Bắc thường thiếu thức ăn thô xanh vào mùa đông, do đó trâu bò ở đây thường được người dân cho ăn thêm thức ăn mà chủ yếu là rơm khô.
Các loại phụ phẩm còn lại hầu như không được sử dụng, chỉ có 6.98% sô hộ nuôi trâu sử dụng lá lạc, còn lại không có hộ nào sử dụng lá sắn và lá đỗ tương. Nguyên nhân là do các hộ chưa quen sử dụng thân lạc và thân đỗ tương cho gia súc ăn, mặt khác các loại phụ phẩm này thường có hàm lượng đạm khá cao, nên gia súc ăn nhiều thường bị chướng hơi đầy bụng.
Cũng từ bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ các hộ sử dụng rơm cho chăn nuôi trâu là 14,73%. Qua điều tra chúng tôi được thấy đa phần các hộ này nằm ở phía Bắc của xã, đa phần các đàn trâu được thả tự do trong rừng và chỉ được lùa về nhà trong thời gian ngắn vào những ngày mùa.
Còn với 35,21% số hộ không sử dụng thân lá ngô, bởi vì hầu hết các hộ không có thời gian để vận chuyển thân lá ngô về nhà trong khi đó ruộng trồng ngô lại ở cách khá xa nhà và địa hình đi lại khó khăn, chỉ có một số ít hô là trâu không ăn hoặc ăn rất ít.
Nhìn chung người chăn nuôi trâu ở xã Vân Hoà đã tận dụng được một lượng phụ phẩm lớn cho chăn nuôi trâu bò. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một lượng lớn phụ phẩm nông nghiệp chưa được tận dụng và khai thác hoặc khi thác chưa triệt để mà nguyên nhân chính là do các hộ nông dân chưa lắm bắt được kỹ thuật chế biến, bảo quản và sử dụng các phụ phẩm này. Hằng năm ở đây người dân ở đây đã bỏ đi một lượng lớn ngọn lá sắn, thân lá lạc, thân lá đậu tương do không biết cách chế biến và sử dụng. Đây đều là những loại phụ phẩm có hàm lượng đạm khá cao, thân lá lạc có hàm lượng protein chiếm tới 4% VCT, lá sắn là 7% VCT. Tuy nhiên trong thân lá sắn lại có chứa các chất gây độc làm cản trở quá trình tiêu hoá của gia súc như các chất Saponine có trong lá cây lạc, HCN trong lá của cây sắn, nhưng nếu biết cách chế biến thì thân lá cây lạc và thân lá cây sắn là nguồn thức ăn rất tốt cho trâu, bò.
Qua quá trình điều tra chúng tôi nhận thấy những loại phụ phẩm được sử dụng cho trâu đều không qua chế biến điều này ảnh hưởng đến khả năng thu nhận và tiêu hoá thức ăn của gia súc, những loại phụ phẩm như rơm lúa, thân lá ngô già có tỷ lệ ligin trong vách tế bào cao là cho enzym của hệ vi sinh vật dạ cỏ không tác động được.
Bảo quản cũng là mộ thạn chế trong sử dụng các loại phụ phẩm ở Vân Hoà. Phụ phẩm nông nghiệp thường được thu hoặc theo mùa với số lượng rất lớn, trâu bò không thể ăn hết ngay được, nếu không được chế biến, bảo quản làm thức ăn dự trữ thì rất lãng phí. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy chỉ có rơm lúa là được bảo quản bằng cách phơi khô, còn lại các loại phụ phẩm khác đều được cho ăn tươi ngay sau khi thu hoạch. Vì vậy, hàng năm đã bỏ đi một lượng lớn phụ phẩm bị hỏng do trâu bò không ăn kịp.
4.4. Tình hình chăn nuôi trâu của xã Vân Hoà
4.4.1. Diễn biến đàn trâu qua các năm
Theo số liệu thống kê của phòng thống kê xã Vân Hoà chúng tôi có được hình ảnh diễn biến của đàn trâu từ năm 2003-2008 kết quả được trình bày ở bảng sau:
Bảng 9: Biến động đàn trâu của xã Vân Hoà (con)
Năm
Cơ cấu
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Trâu đực
89
75
68
70
65
68
Trâu cái
546
543
537
515
421
438
Trâu<2 tuổi
238
236
230
219
200
224
Trâu cày kéo
317
310
308
300
246
255
Tổng
1190
1164
1143
1104
932
985
Qua bảng 9 chúng tôi nhận thấy trong 6 năm gần đây đàn trâu của xã Vân Hoà đang có xu hướng giảm dần, năm 2003 toàn xã có 1190 con, nhưng đến năm 2008 toàn xã còn 985 con, tốc độ giảm bình quân là 5.7%/năm. Trong khi đó từ năm 2003 đến năm 2008 cả nước tăng trung bình là 2%/năm.
Qua tìm hiểu trên thực tế, chúng tôi nhận thấy đàn trâu ở đây giảm là do rất nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu do các nguyên nhân sau đây:
- Thứ nhất là do diện tích bãi chăn thả bãi tự nhiên đang bị thu hẹp dần, bởi vì trong những năm gần đây các khu du lịch trong địa bàn của xã luôn mở rộng phạm vi làm cho diện tích chăn thả dưới tán rừng tự nhiên hầu như không còn. Mặt khác, nhiều hộ nông dân chuyển từ trồng cây lâm nghiệp sang trồng chè, cùng với sự khai thác diện tích đất tự nhiên trước đây là những bãi chăn thả sang canh tác nông nghiệp đã làm giảm đáng kể diện tích chăn thả của xã. Điều này ảnh hưởng lớn đến số lượng đàn trâu ở đây, những hộ trước đây chăn nuôi với quy mô lớn thường thả hoang trong rừng giờ đây phải bán bất đi và chuyển sang chăn dắt tại các bãi cỏ tự nhiên gần rừng, dọc theo bờ suối. Một số hộ nuôi theo phương thức bán quảng canh (thả vào buổi sáng, chiều và tối cho ăn thêm rơm, cỏ khô), không thì có hộ chuyển hẳn sang nuôi bò hoặc nuôi kết hợp giữa trâu và bò, với lý do là trâu ăn nhiều hơn bò, cung với một lượng rơm thì nuôi được nhiều bò hơn, mặt khác nuôi bò lại sinh lợi nhanh hơn trâu.
- Mặt khác do mấy năm gần đây do giá mua trâu tăng cao, cùng với quá trình cơ giới hoá nông nghiệp nên làm giảm đàn trâu ở đây, điều này thấy rõ qua bảng 9.
4.4.2. Quy mô chăn nuôi trâu của người dân xã Vân Hoà ( 2008 )
Qua điều tra chúng tôi thấy 100% đàn trâu ở đây được nuôi trong nông hộ với quy mô nhỏ. Kết quả được trình bày ở bảng sau :
Bảng 10: Quy mô chăn nuôi trâu của xã Vân Hoà ( 2008 )
Số trâu/hộ (con)
Số hộ
Tỷ lệ (%)
1
326
54,6
2
181
30,31
3
74
12,4
>3
16
2,69
Tổng số
597
100
Theo kết quả trên, chúng tôi nhận thấy quy mô chăn nuôi trâu của các nông hộ trong xã Vân hoà chủ yếu là 1 đến 2 con. Có 326 hộ nuôi 1 con chiếm 54,6% trong tổng số 597 hộ chăn nuôi trâu của xã, các hộ nuôi 2 con là 181 con chiếm 30,31% trong tổng số hộ chăn nuôi trâu của xã, các hộ nuôi 3 con là 74 hộ chiếm 12,4%, các hộ nuôi >3 con là 16 hộ chiếm 2,96%. so với công bố của Vũ Duy Giảng (1999) điều tra ở Sóc Sơn - Hà Nội thì số hộ nuôi 1 trâu chiếm 81,5% số hộ nuôi 2 trâu chiếm 11,1%, không có hộ nuôi từ 3 trâu trở lên. Từ những kết quả trên chúng tôi thấy quy mô chăn nuôi trâu ở xã Vân Hoà cao hơn hăn ở đồng bằng. Sự chênh lệch này theo chúng tôi là do mục đích chăn nuôi trâu ở từng vùng khác nhau. ở đồng bằng con trâu nuôi chủ yếu là để cày kéo nên quy mô nuôi từ 1-2 con là phù hợp với phương thức này. Còn ở Vân Hoà người nông dân nuôi trâu theo hướng cày kéo kết hợp với sinh sản và lấy thịt nên quy mô nuôi trâu ở đây cũng lớn hơn.
4.4.3. Tập quán chăn nuôi trâu của xã Vân Hoà
Với đặc điểm tự nhiên có đồi núi, mặt khác đa phần các hộ nuôi trâu là các dân tộc thiểu số nên phương thức chăn nuôi trâu ở xã Vân hòa vẫn mang đặc điểm truyền thống đó là quảng canh tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên là chủ yếu.
Đối với các nông hộ có quy mô chăn nuôi trâu từ 1-3 con và các hộ ở phía Bắc của xã thì trâu được nuôi theo phương thức bán quảng canh. Trâu được chăn thả vào buổi sáng còn buổi chiều và buổi tối thì được nhốt trong chuồng, cho ăn thêm thức ăn dự trữ (chủ yếu là rơm khô). Về sinh sản thì trâu cái ở đây được người dân quan tâm theo dõi phát hiện động dục và phối giống.
Với các hộ ở phía Nam của xã, nơi chủ yếu là đồi núi, ở đây trâu được thả hầu như tự do trong rừng. Trâu chỉ được lùa về nhà vào ngày mùa để cày kéo hết vụ lại được thả lên rừng. Do không có điều kiện theo dõi quản lý chặt chẽ được nên việc sinh sản của trâu ở vùng này hầu như là sinh sản tự nhiên.
Với điều kiện tự nhiên được thiên nhiên ưu đãi, kinh tế xã hội thuận lợi, tuy nhiên đàn trâu ở đây vẫn chưa được người dân quan tâm và đầu tư một cách hợp lý, ngành chăn nuôi trâu ở đây vẫn chưa phát triển đúng với những tiềm năng vốn có của vùng.
4.5. khảo sát sự sinh trưởng đàn nghé từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi của xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội
4.5.1. Khối lượng nghé từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi
Theo dõi trên đàn nghé tại xã Vân Hoà, có số liệu ghi trong bảng sau:
Bảng 11: Khối lượng nghé từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi
Loại nghé
Chỉ tiêu
Tháng tuổi
Sơ sinh
1
2
3
4
5
6
Đực
n
203
149
69
132
69
69
156
(kg)
26,5
43,5
57,4
65
76
82
84,6
SX
2,07
7,38
7,9
9,05
10,05
11,94
13,56
mX
0,14
0,67
1,07
0,98
1,64
1,81
1,61
Cái
n
192
120
60
98
60
60
145
(kg)
25,5
42
54,5
62
73.4
80,7
83.8
SX
3,10
6,8
7,6
13.4
8,7
9,2
11,8
mX
0,32
0,60
1,09
1,42
1,45
1,70
1,66
Ghi chú: n = số con
= số trung bình cộng
MX: Sai số của số trung bình
SX: Độ lệch tiêu chuẩn
Khối lượng sơ sinh của nghé cao hay thấp phụ thuộc vào đặc điểm giống, điều kiện nuôi dưỡng, khối lượng lứa đẻ, nghé đực hay nghé cái.
Từ trong đàn nghé sơ sinh trên, theo dõi cho thấy: Trong số trâu cái do đực giống tốt (đặc cấp, khối lượng >500kg) của dự án Viện Chăn Nuôi đang thí nghiệm tại xã Vân Hoà để cải tiến đàn trâu của xã, tổng số 8 con được nuôi tại 8 thôn là: Thôn Nghe, Thôn Xoan, Muồng Cháu, Muồng Voi, Thôn Rùa, Xóm Mồ Đồi, Đồng Cháy, phối cho kết quả tốt, khối lượng nghé sơ sinh đạt trung bình 26,5kg đối với nghé đực và 24,5kg đối với nghé cái, cao nhất là 30kg đối với nhé đực và 28 đối với nghé cái.
Khối lượng của nghé sơ sinh phụ thuộc vào khối lượng cơ thể của mẹ: nghiên cứu thí điểm trên 65 trâu cái sinh nghé, khối lượng mẹ 420-450 nghé sơ sinh nặng 24-26kg; khối lượng mẹ 450-525kg nghé nặng trên 28kg.
Khối lượng sơ sinh của nghé cũng phụ thuộc vào lứa đẻ. Thí nghiệm trên 42 trâu đẻ lứa 1, nghé sơ sinh nặng trung bình 22,5kg (19-25kg), lứa 3-4 nghé sơ sinh nặng khoảng 25,5kg (22-30kg)
Khối lượng sơ sinh của nghé còn phụ thuộc vào thời gian đẻ: Theo dõi 59 nghé sinh ra trong thời gian từ tháng 12/2007 đến tháng 12/2008, cho thấy 22 nghé sinh ra từ tháng 12 đến tháng 5 có khối lượng sơ sinh bình quân 23,5kg và trên 37 nghé sinh ra từ tháng 6 đến tháng 12 có khối lượng sơ sinh bình quân 25,5kg. Như vậy nghé sinh ra trong vụ thiếu cỏ, thời tiết nóng thì khối lượng nghé sinh ra kém hơn so với những nghé sinh ra trong mùa vụ đủ cỏ và thời tiết mát mẻ.
Biểu đồ 1: Khối lượng tích luỹ của nghé từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi
Qua biểu đồ trên cho thấy khối lượng của nghé đực từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi cao hơn so với nghé cái. Khối lượng của nghé đực từ sơ sinh là 26,5kg, khối lượng ủa nghé 1 tháng tuổi là 43,5kg, 2 tháng tuổi là 57,4kg, 3 tháng tuổi là 65kg, 4 tháng tuổi là 76kg, 5 tháng tuổi là 82kg, 6 tháng tuổi là 84,6kg. Tương ứng với nghé cái là 25,5kg, 42kg, 54,5kg, 62kg, 73,4kg, 80,7kg, 83,8kg. Sở dĩ khối lượng của nghé đực cao hơn nghé cái trong giai đoạn này là do: khi sinh ra nghé đực đẫ có khối lượng cao hơn nghé cái, đồng thời thì nguồn dinh dưỡng chủ yếu của nghé trong giai đoạn này là sữa mẹcung cấp.
Nhìn vào biểu đồ 1 ta thấy khối lượng của nghé đực và nghé cái tăng nhanh từ sơ sinh đến 2 tháng tuổi, sau đó tốc độ tăng giảm dần. Nguyên nhân chủ yếu là do trong giai đoạn từ sơ sinh đến 2 tháng tuổi thì lượng sữa mẹ cung cáp đủ cho nghé bú và hàm lượng các chất dinh dưỡng cao hơn so với các tháng 3, 4, 5, 6, lên trong giai đoạn này khối lượng của nghé tăng nhanh.
Từ bảng 11 rút ra tăng trọng tuyệt đối của nghé như sau (xem bảng 12)
Bảng 12: Tăng trọng của nghé qua 6 tháng
Loại nghé
đơn vị
Tháng tuổi
Bình quân 6 tháng
0-1
1-2
2-3
3-4
4-5
5-6
Đực
Kg/tháng
17
13,9
7,6
11
6
2,6
9,68
g/ngày
567
463
253
367
200
87
323
Cái
Kg/tháng
16,5
12,5
7,5
11,4
7,3
3,1
9,72
g/ngày
550
417
250
380
243
103
324
Qua bảng 12 ta thấy khối lượng tích lũy bình quân của nghé đực và nghé cái trong 6 tháng đầu là tương đương nhau của nghé đực là 323g/ngày và của nghé cái là 324ngày.
Mức độ tăng trọng của nghé đực và nghé cái qua các tháng khác nhau thì khác nhau. Đối với nghé đực giai đoạn từ 0-1 tháng là 567g/ ngày, giai đoạn từ 1-2 tháng là 463g/ngày, 2-3 tháng là 253g/ngày, từ 3-4 tháng là 367g/ngày, 4-5 tháng là 200g/ngày, 5-6 là 87g/ngày. Tương ứng của nghé cái là 550g/ngày, 417g/ngày, 250g/ngày, 380g/ngày, 243g/ngày, 103g/ngày. Mức độ tăng trọng của nghé tư sơ sinh đến 6 tháng được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2: Sinh trưởng tuyệt đối của đàn nghé từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi
Nhìn vào đồ thị trên ta thấy giai đoạn từ 0-2 tháng tuổi mức tăng trọng của nghé đực cao hơn nghé cái, từ tháng 2-3 thì mức tăng trọng của nghé đực và nghé cái tương đương nhau. Sau đó mức tăng trọng của nghé đực lại thấp hơn so với nghé cái. Có sự khác biệt như vậy là do: giai đoạn từ sơ sinh đến 2 tháng tuổi nghé đực bú nhiều sữa mẹ, ít vận động hơn lên mức độ tăng trọng cao, giai đoạn từ 3-6 tháng tuổi do ngé đực vận động chạy nhảy nhiều hơn nghé cái lên mức độ tăng trọng thấp hơn nghé cái.
Nhìn chung trong giai đoạn nghé bú sữa mẹ thì mức độ tăng trọng của nghé là cao nhất, trong giai đoạn này nếu chăm sóc tốt thì nghé có thể tăng trọng từ 800-1000g/ngày. Vì vậy đây là một vấn đề mà các hộ chăn nuôi cần chú ý trong quá trình chăm sóc nghé mới sinh.
4.5.2. Khối lượng nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi
Qua theo dõi trên đàn trâu ở xã Vân Hòa-Ba Vì-TP Hà Nội chúng tôi có bảng số liệu sau:
Bảng 13: Khối lượng nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi
Loại nghé
chỉ tiêu
Tháng tuổi
6
9
12
18
24
Đực
n
156
122
122
74
19
(kg)
84,6
114
157,4
188,4
238,8
SX
13,56
17,94
23,03
17,11
18,98
mX
1,61
2,20
2,74
2,85
6,25
Cái
n
145
111
98
80
59
(kg)
83,8
122,8
154,6
188
226,3
SX
11,8
19,43
16,88
18,95
19,73
mX
1,66
2,43
2,34
2,83
3,02
Từ bảng 13 ta có biểu đồ khối lượng tích lũy của nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi ở xã Vân Hòa-Ba Vì-TP Hà Nội như sau:
Biểu đồ 3: Khối lượng tích luỹ của nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi
Từ bảng số liệu 13 và biểu đồ số 3 ta thấy khối lượng của của nghé đực và nghé cái từ 6 tháng tuổi đến 24 tháng tuổi là gần tương đương nhau. Của nghé đực khi được 6 tháng đạt khối lượng 84,6kg, 9 tháng tuổi là 114kg, 12 tháng tuổi là 157,4kg, 18 tháng tuổi là 188,4kg, 24 tháng tuổi là 238,8kg. Tương ứng với nghé cái qua các tháng tuổi đó là: 83,8kg, 122,8kg, 154,6kg, 188kg, 226,3kg. So ánh với kết quả của Nguyễn Đức Thạc, Nguyễn Văn Vực Và cộng tác viên nghiên cứu trại Ngọc Thanh đã theo dõi trên đàn trâu cái loại hình to, gốc Yên Bái Thanh Hóa Nghệ An, có thể trạng trung bình. Thu được kết quả khối lượng của nghé từ 6-24 tháng tuổi được thể hiên qua bảng sau:
Bảng 14: Khối lượng của nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi (trại Ngọc Thanh)
Loại nghé
chỉ tiêu
Tháng
6
9
12
18
24
Đực
n
140
115
115
65
32
(kg)
109,6
136
179,4
214,4
254,8
Cái
n
130
98
74
45
30
(kg)
100,8
145,8
175,6
211
249,3
Từ bảng trên ta thấy khối lượng nghé đực ở các giai đoạn: 6 tháng tuổi là 109.6kg, 9 tháng tuổi là 136kg, 12 tháng tuổi là 179,4kg, 18 tháng tuổi là 214,4kg và 24 tháng là 254,8kg, còn nghé cái tương ứng các lứa tuổi là:100,8kg. 145,8kg, 175,6kg, 211kg, 249,3kg. Nhìn chung khối lượng của cả nghé đực và nghé cái của trại Ngọc Thanh đều cao hơn khối lượng nghé đực và nghé cái của xã Vân Hòa. Nguyên nhân chủ yếu là do ở đây nghé của trại được chăm sóc nuôi dưỡng đầy đủ hơn về chế độ dinh dưỡng và chuồng trại. Còn nghé ở xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Ha Nội thì chủ yếu là chăn thả tự do một số ít hộ thì có bổ sung thêm thức ăn cho nghé còn lại là ăn cỏ tự nhiên lên khối lượng bình quân của nghé ơ đây không cao bằng ở trại Ngoc Thanh.
Từ bảng 14 trên ta rút ra tăng trọng tuyệt đối của nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi như sau:
Bảng 15: Tăng trọng tuyệt đối của nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi
Loại nghé
Đơn vị
Tháng
6-9
9-12
12-18
18-24
Đực
g/ngày
327
482
172
280
Cái
g/ngày
433
353
371
213
Theo bảng 15 cho ta thấy các giai đoạn khác nhau thì mức tăng trọng của cả nghé đực và nghé cái là khác nhau. Mức tăng trọng của nghé đực giai đoạn 6-9 tháng là 327g/ngày, giai đoạn 9-12 tháng là 482g/ngày, giai đoạn 12-18 tháng là 172g/ngày, giai đoạn 18-24 tháng là 280g/ngày. Tương ứng mức tăng trọng tuyệt đối của nghé cái là: 433g/ngày, 353g/ngày, 371g/ngày, 213g/ngày. Đây là vấn đề cần chú ý đối với các hộ chăn nuôi trâu, cần hiểu rõ và lắm bắt những giai đoạn nào nghé tăng trọng nhiều để ta bổ sung dinh dưỡng cho hợp lý
Từ bảng 15 ta có biểu đồ sinh trưởng tuyệt đối của đàn nghé từ 6 tháng đến 24 tháng tuổi tại xã Vân Hòa-Ba Vì-TP Hà Nội như sau:
Biểu đồ 4: Sinh trưởng tuyệt đối của đàn nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi
4.5.3. Kích thước một số chiều đo cơ thể của đàn trâu ở xã Vân Hoà-BaVì-TP Hà Nội
Cùng với lượng cơ thể, kích thước chiều đo cũng góp phần thể hiện tầm vóc của gia súc, kích thước chiều đo có liên quan chặt chẽ đến hướng sản xuất của vật nuôi. Sự biến thiên các chiều đo cũng đánh giá sự phát triển của giống. Kết quả khoả sát kích thước các chiều đo trên đàn trâu xã Vân Hoà được chúng tôi trình bày ở bảng 20 và bảng 21.
ở đây chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát bốn chiều đo cơ bản là cao vây (CV), cao khum (CK), vòng ngực (VN), dài thân chéo (DTC) ở các lứa tuổi: Sơ sinh, 3 tháng tuổi, 6 tháng tuổi, 12 tháng tuổi, 24 tháng tuổi, 36 tháng tuổi, 48 tháng tuổi và 60 tháng tuổi; so sánh các tính biệt khac nhau cùng một lứa tuổi.
Bảng 16: Kích thước các chiều đo của trâu đực qua các lứa tuổi (cm)
Lứa tuổi (tháng)
N (con)
CV (cm)
CK (cm)
VN (cm)
DTC (cm)
X ± SD
Cv (%)
X ± SD
CV (%)
X ± SD
Cv (%)
X ± SD
Cv (%)
SS
17
64,10±5,19
8,10
66,05±5,07
7,68
65,75±5,78
8,79
53.12±7,63
7,63
3
16
84,1±6,45
7,67
84,63±6,75
7,98
97,60±8,49
8,70
72,67±7,66
10,54
6
29
91,9±5,71
6,21
90,63±7,12
7,86
111,58±8,52
7,64
82,97±8,01
8,86
12
20
98,97±9,23
9,72
99,71±6,99
9,35
131,58±11,20
6,48
99,40±11,05
11,12
24
13
113,55±10,24
9,03
112,3±8,81
7,84
156,81±12,76
8,14
111,46±11,05
9,92
36
14
113,79±10,02
8,81
113,87±9,96
8,75
164,40±11,88
7,23
116,38±12,06
10,36
48
17
114,98±6,67
5,80
110,78±9,42
8,07
172,3±9,97
5,79
124,25±8,05
6,46
≥ 60
16
118,9±8,16
6,92
119,06±9,03
7,60
177,14±10,52
5,93
131,05±9,58
7,34
Bảng 17: Kích thước các chiều đo của trâu cái qua các lứa tuổi (cm)
Lứa
tuổi (tháng)
N (con)
CV (cm)
CK (cm)
VN (cm)
DTC (cm)
X ± SD
Cv (%)
X ± SD
CV (%)
X ± SD
Cv (%)
X ± SD
Cv (%)
SS
14
61,44±4,93
8,02
63,47±4,60
7,25
62,18±6,23
10,02
51,60±4,61
8,53
3
15
81,60±6,36
7,79
83,62±7,50
8,97
93,28±7,42
7,95
71,83±6,62
9,22
6
30
83,42±5,07
5,94
88,04±7,69
8,79
106,41±8,64
8,12
82,10±8,01
9,76
12
20
96,23±7,09
7,37
98,21±6,99
7,12
125,38±11,20
8,98
96,47±7,96
8,25
24
15
107,23±9,25
8,88
108,99±9,14
8,39
156,90±7,81
4,98
109,23±9,06
8,29
36
13
111,20±9,57
8,60
113,08±9,13
8,07
160,16±10,69
6,67
114,14±9,22
8,08
48
21
112,08±9,89
8,82
113,69±10,27
9,03
167,40±13,90
8,30
122,13±13,05
11,28
≥ 60
16
115,16±12,09
8,82
117,21±10,97
9,38
175,06±17,29
9,88
126,46±12,53
9,99
Qua bảng 16 và bảng 17 cho thấy cùng với sự tăng lên về thể vóc qua các lứa tuổi thì độ lớn CV, CK cũng tăng lên ở trâu đực luôn cao hơn ở trâu cái, tuy nhiên sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê ở giai đoạn từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi, sự sai khác thể hiện rõ rệt (với mức ý nghĩa p<0,05) khi trâu từ 24 tháng tuổi trở đi. Cụ thể như sau: CV và CK của trâu đực khi sơ sinh là 64,10cm và 66,05cm; trâu cái là 61,44cm và 63,478cm, lúc 24 tháng tuổi thì CV và CK của trâu đực lần lượt là 113,35 cm và 112,31 cm còn trâu cái là 107,23 và 108,99 cm. Lúc trưởng thành CV và CK của trâu đựclà 117,59 cm và 108,06 cm, của trâu cái là 115,16 cm và 117,21 cm.
So sánh kết quả của chúng tôi với kết quả của Tiến Hồng Phúc (2002) khảo sát trên đàn trâu thị xã Sông Công-Thái Nguyên thấy rằng CV của đàn trâu xã Vân Hoà là tương đương với đàn trâu ở thị xã Sông Công (118,91cm so với 118,00cm ở trâu đực) và (115,16cm so với 115,00cm ở trâu cái). Hà Phúc Mịch (1985) khi nghiên cứu trên đàn trâu huyện Đông Hỷ-Bắc Thái cho biết CV ở trâu đực trưởng thành là 120,60cm, trâu cái là 118,00cm. Như vậy kết quả của chúng tôi cho thấy chiều cao của đàn trâu ở Vân Hoà là gần tương đương với các vùng trên.
Kết quả khảo sát tại xã Vân Hoà cho thấy DTC của trâu đực 131,55 cm và trâu cái là 126,46 cm. Lê Xuân Cường nghiên cứu trên đàn trâu Đinh Hoá cho biết DTC của trâu đực là 126,76 cm, trâu cái là 123,63cm; Lê Viết Ly và CS (1994) điều tra trên đàn trâu ở Tuyên Quang thì DTC của trâu đực là 131,34cm, trâu cái là 128,09 cm. Còn Vũ Duy Giảng và CS (1999) cho biết trâu ở các vùng như Thanh Trì thì DTC của trâu đực là 138,40cm, của trâu cái 135,70cm, còn ở Đô Lương DTC là 125cm với trâu đực, 123,10cm đối với trâu cái. Qua các kết quả trên chúng tôi thấy đàn trâu ở xã Vân Hoà có DTC thuộc loại trung bình so với khu vực Miền Bắc.
Vòng ngực (VN) là chỉ tiêu phản ánh sự phát triển chu vi của trâu, chúng có liên quan đến chiều sâu ngực của gia súc, vì vậy VN có tương quan chặt chẽ với khối lượng của gia súc.
Kết quả của chúng tôi khảo sát được trên đàn trâu của xã Vân Hoà có độ lớn VN lúc ≥ 60 tháng tuổi ở trâu đực trung bình là 177,14cm, ở trâu cái là 175,06cm. Lê Viết Ly và cs (1999) thông báo trên đàn trâu ở Tuyên Quang có độ lớn VN có độ lớn VN của trâu trưởng thành là 179,29 cm, trâu cái là 175,89 cm. Còn Vũ Duy Giảng (1999) cho biết độ lớn VN của trâu trưởng thành ở huyện Đô Lương là 176,00cm, ở trâu cái là 166,80cm. Như vậy là kết quả nghiên cứu của chúng tôi là tương đương với thông báo của các tác giả trên. Còn khi so sánh với kết quả của Tiên Hồng Phúc thấy rằng trâu ở Vân Hoà có VN lớn hơn trâu ở thị xã Sông Công - Thái Nguyên (177.14 cm so với 171,00 cm ở trâu đực và 175,06 với 165,10 cm ở trâu cái).
Qua phân tích số liệu ở hai bảng trên chúng tôi thấy rằng trâu ở xã Vân Hoà có tầm vóc thuộc loại trung bình, nó tương đương với trâu ở vùng núi Tuyên Quang và bé hơn trâu ở Định Hoá và lớn hơn trâu ở thị xã Sông Công và một số vùng đồng bằng như Thanh Trì và Đô Lương Nghệ An.
Phần thứ 5
KếT LUậN Và Đề NGHị
5.1. Kết Luận
Từ những kết quả phân tích trên chúng tôi rút ra một số kết luận sau
1. Xã Vân hoà có diện tích đất tự nhiên là 3290,98 ha đất trông đó đất rừng, đất đồi, đất chưa sử dụng có thể cải tạo để trồng cỏ hoặc trồng xen cỏ còn khá nhiều. Nguồn phụ phẩm nông nghiệp có thể sử dụng làm thức ăn cho trâu, bò còn khá dồi dào. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế trong việc bảo quản, chế biến và sử dụng. Như vậy Vân Hoà có tiềm năng lớn về thức ăn để phát triển chăn nuôi trâu bò.
2. Tình hình chăn nuôi của Vân Hoà nhìn chung phát triển khá tốt. Tổng đàn bò hiện nay: Bò sữa là 320 con, bò thịt là 1320 con. Trong đó bò thịt và bò sữa đang có xu hướng phát triển khá nhanh. Đàn lợn ở đây cũng có mức tăng bình quân khá cao.
3, Tổng đàn trâu của Vân Hoà trong những năm gần đây có xu hướng giảm dần, năm 2008 tổng đàn trâu của xã là 985 con. Trong đó tỷ lệ trâu cái và trâu dưới 2 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao. Trâu ở đây có kích thước và khối lượng trung bình so với cả nước. Về phương thức chăn nuôi trâu ở đây vẫn chăn nuôi theo phương thức quảng canh.
4. Khả năng sinh trưởng của đàn nghé thuộc loại trung bình, tốc độ tăng trưởng bình quân của nghé từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi là
5.2. Đề Nghị
- Cải tiến phương thức chăn nuôi trâu quảng canh hiên nay sang phương thức bán quảng canh (kết hợp chăn thả và bổ sung thức ăn thô tinh)
- Tăng cường trồng cỏ có năng suất cao, phổ biến kỹ thuật bảo quản và chế biến phụ phẩm để tận dụng một cách có hiệu quả nguồn phụ phẩm nông nghiệp ở đây.
- Sử dụng những trâu đực giống có ngoại hình to và chọn lọc đàn trâu cái và cải tạo tầm vóc đàn trâu ở đây.
- Nguồn thức ăn và chế độ dinh dưỡng
Đối với con trâu, thức ăn chủ yếu là thô xanh. Một đàu trâu cần 30-40kg cỏ trong một ngày. Cần dự trữ thức ăn cho trâu vào mùa hanh khô. Chô trâu ăn bỏ xung vào những thời điểm khan hiếm cỏ.
Do vậy, phải có kế hoạch tạo nguồn thức ăn cho trâu nhất là vào mùa thiếu cỏ, bằng biện pháp sau:
+ Trồng cỏ thâm canh: cỏ voi Penisetum purpurrum, cỏ Ghinê Panicum maximum, cỏ Stylo... Trồng tập trung hoặc trồng trong các hộ cá thể đạt năng xuất 100tấn/ha/năm hoăc hơn nữa.
+ Dự trữ cỏ khô với mức 5-6kg/con/ngày.
+ Tận dụng phụ phế phẩm nông nghiệp như dây khoai lang, dây lạc, ngọn mía, bã dứa, bã mía...
+ áp dụng các kĩ thuật xử lý như ủ chua cỏ, cây ngô... Chế biến rơm bằng ủ với urê (tỉ lệ urê 2-3%).
+ Sản xuất và sử dụng bánh urê – ủ mật, bổ sung thức ăn dinh dưỡng cao.
TàI LIệU THAM KHảO
TàI LIệU TIếNG VIệT
1. Agabayli (1997), nuôi trâu, nhà xuất bản nông nghiệp-Hà Nội
2. Lê Xuân Cường (1965), Giống trâu Thái Nguyên. Khoa học kỹ thuật nông nghiệp, trang 209-306
3. Bùi Văn Chính và Lê Viết Ly (2001), kết quả nghiên cứu nâng cao giá trị dinh dưỡng của một số phụ phẩm nông nghiệp quan trọng ở Việt Nam cho trâu, bò, Hội thảo về dinh dưỡng gia súc nhai lại ( Ruminant Nurtition ), Hội chăn nuôi Việt Nam, Chương trình Link ( BC ) và Viện Chăn Nuôi, Hà Nội, ngày 9-10 tháng 11 năm 2001.tr.31- 41.
4. Cù Xuân Dần, Nguyễn Bá Mùi, Tiết Thị Hồng Ngân, giáo trình sinh sản gia súc, Nhà xuất bản nông nghiệp -1996.
5. Vũ Duy Giảng, Nguyễn Thị Lương Hồng, Tôn Thất Sơn, Giáo trình dinh dưỡng và thức ăn gia súc. Nhà xuất bản nông nghiệp-1999.
6. Vũ Duy Giảng, Tôn Thất Sơn (1998), Điều tra nguồn phụ phẩm của một số giống lúa và ngô làm thức ăn cho trâu bò, Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật chăn nuôi-thú y (1996-1998)
7. Trần Quang Khải (2004), “ Nghiên cứu tình hình sử dụng phụ phẩm trong chăn nuôi trâu bò tại Đak Lắc”, Luận văn thạc sỹ.
8. Dương Đình Long, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Văn Thanh, Giáo trình sinh sản gia súc, Nhà xuất bản nông nghiệp.
9. Lê Viết Ly, Lê Tư, Đào Lan Nhi (1994) “ Kết quả điều tra tình hình chăn nuôi trâu trong nông hộ ở một số xã miền núi tỉnh Tuyên Quang”, công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật chăn nuôi 1994-1995. Nhà xuất bản nông nghiệp-Hà Nội 1995 trang 5-12
10. Tiến Hồng Phúc (2002), Nghiên cứu thực trạng phát triển chăn nuôi và một số đặc đỏêm sinh học của trâu ở thị xã Sông Công-tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ.
11 Mai Văn Sánh (1996), Khả năng sinh trưởng, sinh sản, cho sữa cà cho thịt của trâu Murrah nuôi tại Sông Bé và kết quả lai tạo với trâu nội, luận án phó tiến sỹ.
12. Mai Văn Sánh (2002) Chăn nuôi trâu thế giới, thông tin khoa học kỹ thuật chăn nuôi, số 3 năm 2002, trang 25-35.
13. Mai Văn Sánh (2000) “ Cẩm nang chăn nuôi trâu”, Cẩm nang chăn nuôi gia súc, gia cầm tập 3, Nhà xuất bản nông nghiệp-Hà Nội, trang 141-197.
14. Mai Văn Sánh, Lê Viết Ly (2004), sổ tay chăn nuôi bò cày kéo, Nhà xuất bản nông nghiệp.
15. Mai Văn Sánh (2002), Đặc điểm sinh sản của trâu, Tài liệu tập huấn- nâng cao năng suất sinh sản của gia súc, Viện Chăn Nuôi, trang 121-126.
16. Cao Xuân Thìn, Đỗ Quang Hoa (1983), thông tin khoa học kỹ thuật-VCN.
17. Nguyễn Đức Thạc (1983), Một số đặc điểm cho thịt, cho sữa của loại hình trâu tại miền bắc và khả năng cải tạo với trâu Murrah, Luận án phó tiến sỹ.
18. Nguyễn Đức Thạc, Con trâu Việt Nam, Nhà xuất bản nông nghiệp 2006.
19. Nguyễn Đức Thạc, Nguyễn Văn Vực, Cao Xuân Thìn (1984), Một số đặc điểm sinh trưởng, sinh sản của trâu Việt Nam và biện pháp cải tiến để nâng cao sức cày kéo, Tuyển tập công trình nghiên cứu chăn nuôi (1969-1984)-Viên Chăn Nuôi, Nhà xuất bản nông nghiệp.
20. Nguyễn Đức Thạc, Nguyễn Văn Vực (1984), Khả năng nuôi trâu ở Việt Nam, Tuyển tập công trình nghiên cứu chăn nuôi-Viện Chăn Nuôi.
21. Nguyễn Văn Thanh (1995), một số chỉ tiêu sinh sản của đàn trâu nội đang được nuôi ở các tỉnh miền Bắc, Tạp trí khoa học, Trường ĐHNNI-Hà Nội
22. Nguyễn Trọng Tiến, Nguyễn Xuân Trạch, Mai Thị Thơm, Lê Văn Ban, Mai Thị Thơm, Lê Văn Ban, Giáo trình chăn nuôi trâu bò, Nhà xuất bản nông nghiệp-2001.
23. Nguyễn Xuân Trạch, Bài giảng chăn nuôi trâu bò-2002.
24. Niêm Giám thống kê hà tây (2004), chi các thống kê TP-Hà Nộị
25. Niêm Giám thống kê nông nghiệp (2003), Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
26. Việt Nông (2000), Sức kéo của trâu, Chuyên chăn nuôi gia súc ăn cỏ, Hội chăn nuôi Việt Nam, trang 111-112.
INTERNET – WESBSITE
1. Bộ Nông Nghiêp – Nông thôn Việt Nam
htt://www.agroviet.gov.vn
2. FOOD AND AGRICULTURE ORGANIFATION THE UNITTED NATIONS:
htt://www.fao.vn
3. Tổng Cục Thống Kê Việt Nam
htt://gso.gov.Việt Nam
4. Trường Đại Học Nông Nghiệp I
htt://www.haul.edu.vn
5. Viện Chăn Nuôi Quốc Gia Việt Nam
htt://www.vcn.vnn.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1.NguyenDucHai.doc