LỜI GIỚI THIỆU
1. Bối cảnh nghiên cứu
Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một bức tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD*/ngày và cứ 8 trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong trào sôi nổi và rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi nghèo đói. Còn Việt Nam thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn và phương pháp xác định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và hiện nay còn khoảng 30%. Theo tiêu chuẩn quốc gia tỷ lệ nghèo đói của nước ta giảm từ 30,01% năm 1992 xuống 11% năm 2000. Tuy quy mô đói nghèo toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực trạng cho thấy, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn bình quân hàng năm khoảng 50.000 hộ (riêng năm 1996 và 1997 mỗi năm khoảng gần 100.000 hộ do bão lụt. Nếu so sánh tình trạng đói nghèo của nước ta với các nước trên thế giới thì tính bức xúc của nó là rất lớn, ngưỡng nghèo của Việt Nam vẫn xa với ngưỡng nghèo của thế giới.
2. Mục đích nghiên cứu
Với một tỷ lệ không nhỏ số dân đang sồng trong cảnh cùng cực, Việt Nam sẽ khó thực hiện được tiến trình CNH-HĐH đất nước. Vấn đề đặt ra là phải làm sao đẩy lùi được tình trạng đói nghèo xuống. Nhưng muốn có những chính sách, biện pháp xoá đói giảm nghèo hiệu quả thì nhất thiết phải hiểu được những nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng nghèo đói của Việt Nam. Nhận thức được yêu cầu bức thiết đó, nghiên cứu này sẽ tập trung đi sâu vào thực trạng nghèo đói ở Việt Nam, các nguyên nhân làm cho một số người rời vào cảnh khối cùng, các mối quan hệ giữa nghèo đói với công bằng xã hội, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng khác nhau. Nghiên cứu này còn giúp ta hiểu thêm mức độ, tầm ảnh hưởng của nghèo đói ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Nó ảnh hưởng như thế nào, tác động ra sao đến chất lượng cuộc sống của người dân, cũng như sự cải thiện vị thế của quốc gia. Cuối cùng, nghiên cứu sẽ đưa ra một số giải pháp mang tính định hướng để giúp xoá đói giảm nghèo hiệu quả hơn.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu này sẽ chỉ ra tổng quan của sự nghèo đói trên thế giới và chủ yếu xoáy sâu vào tình trạng nghèo đói ở Việt Nam, trong những năm gần đây. Đối tượng được đề cập đến chính là những người nghèo đói. Họ là ai và mức khốn khổ của họ đến đâu, cần phải làm những gì cho cuộc sống của họ tốt đẹp hơn. Thông qua các ngưỡng nghèo, các chỉ tiêu đánh giá đói nghèo như chất lượng của cuộc sống, mức nghèo đến đâu, tình trạng giáo dục ra sao, sự đảm bảo y tế như thế nào, tình trạng giáo dục ra sao, sự đảm bảo y tế như thế nào. Nó sẽ xác định được các đối tượng rơi vào diện nghèo, diện đói.
4. Các câu hỏi nghiên cứu
Để đánh giá chính xác về tình trạng của nghèo đói ta cần trả lời các câu hỏi:
- Đói nghèo là gì?
- Đói nghèo được biểu hiện ở những khía cạnh nào?
- Các chỉ tiêu và chuẩn mực để xác định và đánh giá đói nghèo?
- Thực trạng đói nghèo của Việt Nam trong những năm gần đây?
- Các nhân tố tác động đến tình trạng nghèo đói?
- Các biện pháp khắc phục?
5. Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích được tình trạng nghèo đói thì ta cần dùng một số phương pháp như phân tích, đánh giá, so sánh, thống kê và mô tả nhằm phân tích xoáy sâu vào các nhân tố tác động đến sự nghèo khó, đánh giá xem mức độ nghèo đói đến đâu, diễn biến của nó như thế nào là phạm vi ảnh hưởng của nó ra sao. Mặt khác cần phải có sự kết hợp với các số liệu thống kê để phản ánh tình trạng nghèo đói một cách trung thực hơn, chính xác hơn. Qua đó cho phép ta so sánh được các người nghèo, các nhóm dân cư nghèo, các vùng nghèo và các quốc gia nghèo khác nhau.
6. Kết cấu của đề tài:
Đề tài sẽ được chia làm 3 phần:
Chương 1: Đói nghèo - các nguyên nhân dẫn tới đói nghèo.
Chương 2: Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm xoá đói giảm nghèo.
Do phạm vi nghiên cứu rộng, năng lực và kinh nghiệm bản thân có hạn, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em mong nhận được sự chỉ dẫn, gợi ý, nhận xét của thầy cô để bổ sung và hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Luận văn dài 51 trang, chia làm 3 chương
51 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2456 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay và một số biện pháp nhằm xóa đói giảm nghèo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n ta thấy, dù đánh giá tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam bằng phương pháp nào thì Việt Nam vẫn có tốc độ giảm nghèo rất nhanh, đã từng được cộng đồng quốc đánh giá có một trong những nước có, tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, xét trên tổng thể, Việt Nam vẫn là một nước nghèo, phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa các thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư ngày càng có xu hướng gia tăng và gay gắt. Trong báo cáo chính trị tại đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ: “Đến nay nước ta vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều, việc làm là vấn đề đặt ra hết sức gay gắt. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn”.
· So sánh nghèo đói theo vùng
Bảng 2.1. Diễn biến nghèo đói theo vùng ở Việt Nam
Vùng
1996
1997
1998
Số hộ nghèo đói
Tỷ lệ
Số hộ nghèo đói
Tỷ lệ
Số hộ nghèo đói
Tỷ lệ
1. Miền núi và Trung du Bắc bộ
695.503
27,24
638.400
25,32
570.445
22,89
2. Đồng bằng sông Hồng
330.519
11,01
302.460
9,81
272.160
8,38
3. Bắc Trung bộ
609.372
30,80
544.926
27,84
500.225
24,62
4. Duyên hải miền Trung
413.660
23,14
358.260
22,44
291.815
17,8
5. Tây Nguyên
188.876
29,45
180.400
27,84
172.915
25,65
6. Đông Nam Bộ
116.728
6,17
103.900
5,50
91.400
4,75
7. Đồng bằng sông Cửu Long
502.912
16,25
190.750
15,60
189.090
15,37
Cả nước
2.857.122
19,23
2.622.906
17,68
2.387.050
15,7
Nguồn: Nguyễn Hải Hữu “Nghèo đói ở Việt Nam. Chính sách và giải pháp”. Hội thảo, toạ đàm về chuyển đổi nông nghiệp ở Việt Nam. Việc làm và xoá đói giảm nghèo. Bộ LĐTB-XH, năm 1999.
Qua số liệu trên cho thấy tỷ lệ nghèo đói ở các vùng cũng có sự khác biệt đáng kể. Vùng Bắc Trung Bộ (24,62%) và vùng Tây Nguyên (25,65%) là hai vùng có tỷ lệ nghèo đói cao nhất, vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất 4,75%. Ở đây có sự chênh lệch giữa các vùng có tỷ lệ nghèo đói cao với vùng có tỷ lệ nghèo đói thấp gần 5 lần. Đồng thời cũng dễ dàng nhận thấy người nghèo tập trung nhiều nhất ở vùng trung du và miền núi phía Bắc 570.145 hộ chiếm 23,9%, tiếp đến vùng Bắc Trung Bộ có 500.225 hộ chiếm 20,9%, Đồng bằng sông Cửu Long có 489.050 hộ chiếm 20,51%, cả bốn vùng còn lại chỉ chiếm 34,7%.
Xét trong từng vùng, giữa các tỉnh tỷ lệ nghèo đói cũng sự khác biệt. Tại vùng Tây Nguyên, tỷ lệ nghèo đói của Lâm Đồng là 15,89%; Đắc Lắc là 26,44%; nhưng Gia Lai là 44,85% và Kon Tum là 54,4%. Tỷ lệ này chênh lệch tới 3,4 lần giữa tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao nhất so với tỉnh có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất. Nếu lấy chuẩn mực tối thiểu để so sánh thì một số tỉnh như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu có tỷ lệ nghèo đói đều dưới 5% trong khi đó một số tỉnh có tỷ lê nghèo dói cao như Hoà Bình 55,7%; Kon Tum 54,5%; Quảng Bình 46%; Gia Lai 44,85%; Lai Châu 42,4%; Sơn La 40%. Tỷ lệ nghèo đói chênh lệch giữa các thành phố gần 10 lần. Theo báo cáo của địa phương, hiện nay mới có 10 tỉnh, thành phố (chiếm 16%) có tỷ lệ nghèo đói dưới 10% phân bố ở đồng bằng Sông Hồng 5 tỉnh Đông Nam Bộ 4 tỉnh, Đồng bằng Sông Cửu Long 1 tỉnh. Trong khi đó có 11 tỉnh có tỷ lệ nghèo đói từ 50% trở lên (chiếm 18%) tập trung ở miền núi phía Bắc 5 tỉnh, Bắc Trung bộ 3 tỉnh, Duyên Hải miền Trung 1 tỉnh, Tây Nguyên 9 tỉnh. Một số huyện thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên có tỷ lệ hộ nghèo đói rất cao từ 60-70%.
Theo đánh giá cả nhóm công tác các chuyên gia chính phủ cho thấy 40% người nghèo của Việt Nam sống tập trung tại ba khu vực: miền núi phía Bắc 28%; Đồng bằng sông Cửu Long là 21% và Bắc Trung Bộ là 18%. Như vậy sự khác nhau về tỷ lệ nghèo ở các vùng, các tỉnh, thành phố cho thấy khả năng bứt phá, vươn lên của các vùng, tỉnh, thành phố là khác nhau. Nơi nào có điều kiện phát triển nhanh, nơi đó có tỷ lệ giảm nghèo nhanh.
· So sánh thu nhập bình quân đầu người tháng theo vùng ở Việt Nam
(tính theo giá hiện hành)
Đơn vị: 1000 đồng
Vùng
1994
1995
1996
Tỷ lệ hộ nghèo 1996
Tỷ lệ hộ giàu 1996
Cả nước
176,47
206,10
226,70
17,81
3,67
Miền núi và trung du Bắc Bộ
133,63
160,65
173,76
23,69
1,36
Đồng bằng sông Hồng
170,88
201,18
223,30
12,09
2,94
Bắc Trung bộ
135,02
160,21
174,05
23,31
1,42
Duyên hải miền Trung
154,96
176,03
194,66
16,37
1,63
Tây Nguyên
197,71
241,14
165,60
27,77
5,25
Đông Nam bộ
291,85
338,91
378,05
8,09
11,94
Đồng bằng sông Cửu Long
203,90
221,96
242,31
16,30
4,61
Nguồn: “Tác động kinh tế của Nhà nước nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ”. Đề tài cấp Bộ Khoa học quản lý kinh tế, Học viện CTQG HCM, Hà Nội 1997, trang 43.
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy 2 miền có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất là miền núi và trung du Bắc Bộ và Bắc Trung bộ cũng là nơi có tỷ lệ nghèo đói cao và tỷ lệ hộ giàu thấp. Đông Nam bộ là vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất đồng thời cũng có tỷ lệ số hộ nghèo thấp nhất và tỷ lệ số hộ giàu cao nhất. Tuy nhiên, không phải lúc nào thu nhập cũng tỷ lệ thuận với mức giảm nghèo. Ở đồng bằng sông Hồng, thu nhập đứng thứ 4 trong 7 vùng nhưng lại có tỷ lệ nghèo rất thấp, đứng thứ 2. Trong khi đó, Tây Nguyên có mức thu nhập bình quân đứng thứ 2 nhưng lại có tỷ lệ nghèo đói cao nhất trong 7 vùng. Như vậy, có sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư trong 1 vùng.
· Chênh lệch thu nhập giữa các vùng và các nhóm dân cư.
Bảng 2.3. Thu nhập năm theo giá so sánh bình quân đầu người theo nhóm hộ và theo vùng kinh tế
Đơn vị: 1000đ
Tổng cộng chung
Phân theo nhóm hộ* Phụ lục 2
Chung
Khu vực
Vùng
Thành thị
Nông thôn
Miền núi và trung du Bắc Bộ
ĐB Sông Hồng
Bắc Trung Bộ
Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
ĐB sông Cửu Long
3146
7142
2188
2133
3189
2377
2619
2590
6004
2915
1
806
926
804
733
833
863
868
718
628
745
2
1489
1550
1487
1465
1512
1481
1494
1498
1506
1487
3
2177
2235
2173
2184
2190
2165
2180
2131
2218
2151
4
3272
3360
3257
3258
3234
3257
3200
3265
3382
3280
5
7914
9617
6625
6596
8282
6716
6436
7248
9351
6839
Nhóm 5 so với nhóm 1 (lần)
9,9
10,39
8,24
8,11
9,94
7,79
7,12
10,09
14,89
9,18
Nguồn: TCTK - VLSS - 1998
Xét theo giá tại thời điểm điều tra, mức thu nhập của nhóm hộ 5 (nhóm hộ giàu) nhiều gấp 6,73 lần so với nhóm hộ 1 (nhóm hộ nghèo). Tuy nhiên nếu xét theo giá so sánh thì thấy mức thu nhập của nhóm 5 chung các vùng lớn gấp 9,9 lần so với nhóm hộ 1. Theo các vùng kinh tế, vùng 1 là 8,11 lần; vùng 2 là 9,91 lần; vùng 3 là 7,79 lần; vùng 4 là 7,42 lần; vùng 5 là 10,09 lần; đặc biệt vùng 6 Đông Nam Bộ - có sự chênh lệch rất cao 14,89 lần; và vùng 7 là 9,18 lần. Ở khu vực nông thôn là 8,21 lần và và ở khu vực thành thị là 10,39 lần.
Nhìn chung, sự phân tầng thu nhập giữa các nhóm hộ trong vùng với giữa các vùng, giữa các khu vực có sự chênh lệch lớn so với các giai đoạn trước.
Bảng 2.4- Thu nhập bình quân đầu người/tháng
Nhóm
1994 (1000đ)
1995 (1000đ)
1996 (1000đ)
1995 so với 1994 (%)
1996 so với 1995 (%)
Nhóm 1
63,0
734,3
78,6
117,9
105,8
Nhóm 2
99,0
121,7
134,9
126,0
108,9
Nhóm 3
133,2
166,7
184,4
125,2
110,6
Nhóm 4
185,0
227,6
250,2
122,4
109,9
Nhóm 5
408,5
519,6
574,7
127,2
110,6
Nguồn: Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa “Kinh tế thị trường và sự phân hoá giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay” NXB CTQG, 1998.
Theo bảng trên ta thấy, thu nhập bình quân đầu người/tháng của các nhóm đều tăng lên nhưng nhóm 1 tăng chậm nhất. Làm cho khoảng cách về thu nhập giữa các nhóm dân cư ngày nay càng lớn tăng 5,8% hay 1,5 nghìn đồng, nhóm 5 tăng 10,0% hay 55,7 nghìn đồng. Qua phân tích trên ta thấy khả năng vươn lên để thoát ra khỏi sự tình trạng nghèo đói của nhóm 1 là rất khó khăn, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ rất lớn của Đảng, Nhà nước và cộng đồng.
· So sánh nghèo đói theo khu vực thành thị - nông thôn
Bảng 2.5 - Tỷ lệ nghèo ở thành thị và nông thôn
Đơn vị: %
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
1993
1998
1993
1998
1993
1998
Tỷ lệ nghèo LTTP
24,9
15,0
7,9
2,3
29,1
18,3
Tỷ lệ nghèo chung* Tỷ lệ nghèo chung bằng tỷ lệ nghèo LTTP + Tỷ lệ nghèo phi lương thực
58,1
37,4
25,1
9,0
66,4
44,9
Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói (WB)
Ở Việt Nam, nghèo đói vẫn tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, hiện nay số người nghèo sống ở nông thôn là 90% (còn ở thành thị là 10%) trong đó 45% sống ở dưới ngưỡng nghèo (theo WB) Việt Nam, tấn công nghèo đói).
Do thu nhập thấp, tăng trưởng kinh tế chậm nên chi tiêu thực tế của người dân cũng tăng chậm. Ta có thể thấy điều này qua bảng sau.
· So sánh tăng trưởng chỉ tiêu theo vùng
Bảng 2.6- Tăng trưởng chi tiêu bình quân đầu người ở nông thôn và thành thị (1993-1998)
Tăng trưởng chi tiêu ở thành thị (%)
Tăng trưởng chi tiêu ở nông thôn (%)
Chênh lệch thành thị nông thôn (%)
Chung cả nước
60,5
30,4
30,1
- Miền núi phía Bắc
65,8
26,9
38,9
- Đồng bằng sông Hồng
47,2
51,4
-4,2
- Bắc Trung bộ
86,4
37,2
49,2
- Duyên hải miền Trung
39,1
25,5
13,6
- Tây nguyên
24,8
-
- Đông Nam Bộ
78,1
59,1
19,0
- Đồng bằng sông Cửu Long
35,7
10,6
25,1
Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói 12/1999. Ước tính của WB - dựa vào số liệu VLSS93 và VLSS98.
Qua bảng trên có thể thấy tăng trưởng chi tiêu ở vùng nông thôn là tương đối thấp (trừ đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ) Duyên Hải miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long có mức tăng trưởng chi tiêu ở thành thị và cả ở nông thôn là thấp nhất. Chênh lệch thành thị và nông thôn ở Bắc Trung Bộ cao nhất là 49,2%, ở đồng bằng sông Hồng thấp nhất -4,2%.
Mức tăng chi tiêu thể hiện chất lượng cuộc sống được cải thiện ở mức nào chênh lệch giữa thành thị và nông thôn thể hiện khoảng cách chênh lệch mức cải thiện đời sống giữa hai khu vực. Qua bảng trên ta thấy khoảng cách này có nơi tương đối lớn thể hiện sự phân hoá giàu nghèo giữa 2 khu vực tăng.
Tóm lại, qua những phân tích ta thấy tỷ lệ các hộ nghèo đói trong cả nước đã giảm nhưng vẫn ở mức cao 11%. Riêng ở nông thôn còn khoảng 20,87% hộ nghèo với khoảng 10 tiệu nông dân nghèo. Sự phân hoá giàu nghèo giữa nông thôn, thành thị, giữa các vùng là tương đối phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng thu nhập bình quân của các nhóm dân cư tăng nhưng nhóm 2 tăng chưa đáng kể, cuộc sống của người dân nghèo đã được cải thiện nhưng chưa nhiều. Ngưỡng nghèo của Việt Nam nói chung vẫn xa so với ngưỡng nghèo của thế giới.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo
Để đánh giá được tình trạng đói nghèo ở nước ta, trước tiên cần phải tìm hiểu các nhân tố tác động đến vấn đề nghèo đói. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói, nó không chỉ đơn thuần là nhân tố về kinh tế hoặc thiên tai, địch hoạ gây ra. Mà tình trạng đói nghèo ở nước ta có sự đan xen của cái tất yếu lẫn cái ngẫu nhiên, của cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, cả tự nhiên lẫn kinh tế - xã hội. Do đó cần phải đánh giá đúng nguyên nhân, mức độ của từng nguyên nhân dẫn đến nghèo đói đối với từng đối tượng cụ thể.
2.2.1. Nhóm nguyên tố thuộc về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội
· Vị trí địa lý không thuận lợi ở những nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình phức tạp (miền núi, hải đảo vùng sâu), không có đường giao thông. Đây cũng chính là một nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao ở các vùng và địa phương ở vào vị trí địa lý này. Do điều kiện địa lý như vậy, họ dễ rơi vào thế bị cô lập, tách biệt với bên ngoài, khó tiếp cận được các nguồn lực của phát triển, như tín dụng, khoa học kỹ thuật và công nghệ, thị trường... làm cho cuộc sống của họ lạc hậu, khó phát triển, kinh tế chủ yếu là tự cấp, tự túc là những nhân tố khách quan tác động mạnh mẽ đến vấn đề nghèo đói.
· Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, ít mầu mỡ, canh tác khó, năng suất cây trồng vật nuôi đều thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, làm cho thu nhập của người nông dân thấp, việc tích luỹ và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế hoặc hầu như không có. Theo các kết quả điều tra, đánh giá đói nghèo có sự tham gia của người dân thì thiếu đất canh tác hay đất đai khó làm ăn cũng là nguyên nhân đáng kể dẫn đến cảnh túng thiếu, đói ăn, đứt bữa của người dân đặc biệt là đối với các hộ nghèo đói ở vùng núi. Hiện nay vấn đề thiếu đất sản xuất lương thực ở nước ta (đặc biệt là đất lúa) ngày càng mang tính trầm trọng. Nguyên nhân này là do dân số ngày càng đông nhưng đất nông nghiệp thì ngày càng bị thu hẹp làm cho rất nhiều hộ nông dân không đủ tiềm lực để phát triển. Hiện nay nhiều nơi ở vùng biển không có hoặc có không đáng kể đất trồng lúa, đây là nhân tố tác động trực tiếp đến các hộ nghèo, có thể được coi là một trong những nhân tố cơ bản làm cho những hộ này triền miên bị đói. Nhưng việc xoá đói không phải bằng cách cấp đất sản xuất lương thực mà phải kết hợp nhiều biện pháp khác. Đây cũng là một vấn đề đặt ra đối với các cấp lãnh đạo trong việc lựa chọn các giải pháp thích họp giúp họ xoá đói, tức là phải làm gì để giúp họ có thu nhập thì họ mới có khả năng tiếp cận được lương thực, thực phẩm.
· Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra đặc biệt là bão, lut, hạn hán, cháy rừng, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Trung bình 10 cơn bão, lụt một năm, lại thêm hạn hán, mưa đá, cháy rừng, những cơn lốc xảy ra thường xuyên ở nhiều vùng đã là nguyên nhân cơ bản làm cho khoảng 2 triệu người thiếu đói hàng năm. Tác hại của bão lụt, hạn hán là rất lớn, nó luôn là kẻ thù đồng hành với những người nghèo đói, nó có thể cướp đi cả tính mạng sống và tiền của con người. Rất nhiều vùng và tỉnh đang trù phú nhưng chỉ sau một trận thiên tai gây ra như lụt bão thì hàng nghìn hộ lại rơi vào cảnh thiếu đói, các công trình công cộng, các cơ sở sản xuất và hạ tầng bị phá hỏng. Điển hình là trận lũ xảy ra vào tháng 11 và tháng 12 năm 1999 ở các tỉnh miền Trung đã gây ra những tổn thất to lớn về người và tài sản cho 7 triệu dân ở 7 tỉnh phá huỷ nhiều cơ sở hạ tầng ở vungf này, ước tính thiệt hại do lũ lụt gây ra trên 3000 tỷ đồng, tác độg trực tiếp đến đời sống vốn đã cơ hàn của người dân. Hậu quả của bão lụt để lại là rất lớn không thể khôi phục lại được trong chốc lát mà phải trải qua nhiều năm. Hiện nay hạnhán, thiếu nước, cháy rừng cũng được xem là vấn đề nóng bỏng ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng nghèo đói của người dân. Trong cuối tháng 3 đầu tháng 4 vừa qua hạn hán xảy ra ở nhiều nơi tàn phá nhiều cây lương thực và hoa màu. Ở Đắc Lắc ước tính mỗi ngày có đến 250-300 ha bị thiệt hại do hạn hán gây ra. Ở tỉnh Kiên Giang ảnh hưởng của diện cháy rừng là rất lớn hơn 4000 ha rừng U Minh Thượng bị tàn phá ảnh hưởng trực tiếp đến 2700 hộ đói xung quanh vốn đã cơ cực, túng thiếu. Thêm vào đó tình trạng thiếu nước sinh hoạt, thiếu nước tưới tiêu cũng là vấn đề rất khó khăn mà những người dân nghèo gặp phải (hiện nay giá nước ở một số nơi lêntới trên 3000 đồng/1km với tình hình hiện nay, hiện tượng hạn hán, thiếu nước kéo dài, cháy rừng xảy ra liên miên (như rừng Tràm, rừng U Minh Thượng, rừng quốc gia Cà Mau) đang là vấn đề đặt ra rất cấp bách đối với các cấp chính quyền là phải làm gì để cải thiện tình hình tốt hơn.
· Môi trường kinh tế không thuận lợi, cơ sở hạ tầng thấp kém nhưng không có thị trường, thị trường hoạt động yếu ớt hay thị trường không đầy đủ cũng ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng đói nghèo của các hộ gia đình. Mặc dù trong những năm gần đây chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn nhiều nơi xa. Đây là những nơi còn tiềm ẩn nhiều dấu hiệu của đói nghèo lạc hậu. Những hộ ở đây không phải ai cũng được sử dụng điện. Hệ thống tưới tiêu còn hạn chế, rất nhiều nơi chưa có trạm bơm. Việc tiếp cận với nước sạch (nước máy) gần như không có, ngay cả nước giếng vẫn còn hạn hẹp, rất nhiều hộ còn đang dùng nước sông, suối, nước mưa...
Trong sản xuất trồng trọt, khó khăn lớn nhất là hệ thống kênh mương chưa phát triển nên không đủ nước tưới cho cây trồng, đặc biệt là cho lúa và hoa mầu. Hiện nay ở nhiều nơi hệ thống kênh mương, cống đập, trạm bơm chủ yếu vẫn còn tạm bợ, chưa kiên cố, có nơi xuống cấp nghiêm trọng tác động trực tiếp đến việc giảm sản lượng năng suất cây trồng.
Về vấn đề cơ sở hạ tầng (như đường giao thông, điện, trường học, trạm y tế, bệnh viện, bưu điện, chợ huyện...), thị trường (lao động, vốn, hàng hoá) vẫn còn kém phát triển. Đặc biệt là các nhóm dân tộc thiểu số càng có ít cơ hội tiếp cận với những dịch vụ trêngân hàng (theo hình.....). Điều này có thể thấy rõ ở các vùng không có đường giao thông hoặc giao thông đi lại khó khăn thì hầu như chưa có thị trường hoặc thị trường hoạt động quá yếu ớt. Nó đồng nghĩa với việc họ bị đặt ra ngoài quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Từ những vấn đề trên, ta thấy, những người nghèo muốn vượt thoát khỏi tình trạng nghèo đói trước hết phải được tiếp cận với thị trường, trên cơ sở đó mới có thể tham gia vào sự vận động của kinh tế thị trường. Muốn thị trường phát triển, bên cạnh việc thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế thì việc phát triển giao thông cơ sở hạ tầng có ý nghĩa lớn góp phần nối các thị trường trong nước lại với nhau, thúc đẩy thị trường phát triển tạo điều kiện cho việc hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Hình 2.1.
· Nhân tố liên quan đến chiến tranh
Nhân tố chiến tranh có liên quan mật thiết đến yếu tố vị trí địa lý. Những vùng trước đây là chiến tranh tàn phá nặng nề thì môi trường sống ở đây vẫn chưa được phục hồi được hoàn toàn, đặc biệt các chất độc màu da cam, điôxin do đế quốc Mỹ sử dụng trong cuộc chiến tranh đã để lại di chứng nặng nề về môi trường và con ngưoừi Việt Nam. Hơn 1,5 triệu người bị thương tật, hơn 1 triệu người già bị mất nguồn nuôi dưỡng do con cái thân nhân chết trong chiến tranh. Trên 300.000 trẻ em bị mồ côi, hàng nghìn nạn nhân bị ảnh hưởng của chất độc màu da cam. Đây là nhóm dân cư thường bị thiệt thòi và gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Họ dễ rơi vào tình cảnh nghèo đói. Không một tỉnh, thành phố nào trong cả nước ta là không gánh chịu và phải giải quyết hậu quả do chiến tranh để lại. Và việc giải quyết hậu quả này cũng không thể một sớm mộtchiều mà có thể phải mất nhiều thập kỷ.
2.2.2. Nhóm nhân tố liên quan đến cộng đồng
· An ninh, trật tự:
Môi trường an ninh, trật tự có tác động đáng kể tới các hộ nghèo thực tế cho thấy, tệ nạn xã hội thường đồng hành với nghèo đói. Nếu ở nơi nào tệ nạn xã hội gia tăng, trật tự an ninh xã hội không đảm bảo thì ở đó khó có sự phát triển kinh tế nói chung và của người nghèo nói riêng. Người nghèo nói chung là nhóm người có mức sống dễ bị tổn thương cao. Họ có thu nhập thấp, tài sản không đáng giá. Nếu bị rủi ro mất cắp vât dụng lao động thì họ rất dễ rơi vào cảnh khốn cùng. Theo nghiên cứu cho thấy, các hộ nghèo khi bị mất tài sản nhất là công cụ lao động, phương tiện kiếm sống của gia đình thì rất lâu sau, vài tháng, một năm, thậm chí nhiều năm sau họ mới có thể phục hồi lại được (trở lại mức khi chưa bị mất cắp). Khi người nghèo bị mất cắp thì cuộc sống của họ vốn nghèo lại càng nghèo hơn, vốn đã khốn cùng lại càng cùng cực hơn. Ngoài nguy cơ dễ bị mất cắp, cuộc sống ở khu vực trật tư, an ninh không đảm bảo cũng là cho người nghèo luôn cảm thấy không yên tâm để sản xuất, lao động, khi mua thêm những tài sản phục vụ cho cuộc sống, họ cũng phải đắn đo rất nhiều. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của họ và làm cho những cố gắng không xoá đói giảm nghèo gặp nhiều khó khăn.
· Tập quán:
Về một mặt nào đó, tập quán, lối sống cũng là một trở lực tới sự phát triển của người nghèo. Tập quán du canh du cư của một số đồng bào vùng dân tộc (nhất là Tây Bắc) đã làm cho tình trạng nghèo đói (đói kinh niên, đói gay gắt) về lương thực thực phẩm xảy ra thường xuyên. Chính tập quán này đã đẩy họ rơi vào tình trạng nghèo dai dẳng, nghèo truyền kiếp. Cái vòng luẩn quẩn “nghèo đói phải du canh du cư và vì du canh du cư càng thêm nghèo đói” cộng thêm các hủ tục lạc hậu về văn hoá, lối sống bám chặt vào số phận của một số đồng bào miền núi. Ví dụ, ở Lạng Sơn lương thực miền núi cần 500kg/ người mới gọi là đủ ăn nhưng hơn nửa số ấy không phải để ăn mà dùng để nấu rượu “Người dân nghèo Þ uống rượu Þ năng suất lao động giảm Þ càng nghèo. Chính cái vòng luẩn quẩn này đã gây nên tình trạng 89% trong số người Dao và 100% người H’mông được coi là nghèo.
2.3. Nhóm nhân tố liên quan đến mỗi cá nhân và hộ gia đình
2.3.1. Nhóm nhân tố thuộc về nhân khẩu học
· Quy mô và cơ cấu hộ gia đình
Qua nghiên cứu cho thấy quy mô hộ gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng nghèo đói. Người nghèo phổ biến ở những hộ gia đình có quy mô lớn, mỗi hộ có rất nhiều con, tuổi còn nhỏ. Theo phỏng vấn đánh giá PPA (1998) thì 72% số hộ cho rằng vì đông con nên dẫn đến tình trạng nghèo đói. Mặc dù vậy, họ vẫn chưa ý thức được rõ về sự tác hại của tình trạng đông con. Tình trạng sinh nhiều con, sinh quá dầy ở các cặp vợ chồng trẻ, vợ chồng đang trong độ tuổi sinh đẻ là khá phổ biến. Bình quân các hộ này từ 3-5 con, thậm chí 7 con. Điều này làm cho cuộc sống gia đình họ gặp rất nhiều khó khăn. Cũng vì khó khăn mà hộ gia đình từ làm ăn khá hoặc trung bình đã trở thành nghèo đói. Do số người trong gia đình là tương đối nhiều nên chi tiêu cho những vấn đề thiết yếu hàng ngày là khá cao (chẳng hạn chi tiêu cho lương thực, quần áo, thuốc men...) trong khi đó, tổng thu nhập của một hộ nghèo thường không tăng nhiều hoặc có tăng nhưng cũng không thể đủ để trang trải các khoản chi tiêu hàng ngày, hoặc làm ngày nào ăn hết ngày đó, không thể có được các khoản tích luỹ và do vậy việc thoát khỏi nghèo đói trở nên bế tắc.
Bảng 2.4. Nhân khẩu bình quân 1 hộ theo nhóm chi tiêu
Đơn vị tính: người/hộ
Chung
Nhóm hộ (chi tiêu)
1 (rất nghèo)
2
3
4
5 (rất giàu)
Chung
4,7
5,6
5,1
4,6
4,3
4,1
Khu vực:
- Thành thị
- Nông thôn
4,4
4,8
5,7
5,6
5,4
5,1
4,8
4,6
4,6
4,3
4,1
4,0
1. Miền núi và trung du Bắc bộ
4,9
5,8
5,2
4,6
4,1
3,7
2. ĐB sông Hồng
4,0
4,5
4,4
4,0
3,9
3,7
3. Bắc Trung bộ
4,7
5,6
4,9
4,5
4,0
3,8
4. Duyên hải miền Trung
4,9
5,6
5,5
4,9
4,6
4,3
5. Tây Nguyên
5,7
6,4
5,6
5,4
5,3
4,5
6. Đông Nam bộ
4,8
6,1
5,2
5,3
5,4
4,5
7. ĐBSCL
5,0
6,2
5,9
5,1
4,4
3,8
Nguồn: TCTK VLSS 1988
Nhìn vào bảng trên ta thấy, hộ nghèo thường có số nhân khẩu bình quân cao hơn hộ giàu từ 1,5 người trở lên, nhân khẩu bình quân trên hộ vùng nông thôn thường cao hơn thành thị, cao nhất là đồng bằng sông Cửu Long, hộ nghèo nhiều hơn hộ giàu gới 2,4 người. Vùng núi phía Bắc là 2,1 người; Tây Nguyên là 1,9 người; Bắc Trung Bộ là 1,8 người; Tình trạng phổ biến của cả nước là các hộ nghèo đói lại thường nhiều con, thiếu lao động. Điều này tạo nên vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
· Tỷ lệ người sống phụ thuộc
Theo số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cư của tổng cục thống kê cho ta thấy, tỷ lệ trẻ em trên mỗi người lao động ở nhóm hộ nghèo là rất cao, và tỷ lệ này giảm dần khi nhóm mức chi tiêu bình quân đầu người tăng dần.
Bảng 2.8. Số trẻ em dưới 15 tuổi theo nhóm hộ gia đình
Đơn vị: trẻ em/1 lao động
Nhóm hộ
1 (rất nghèo)
2
3
4
5 (rất giàu)
Chung
28
2,2
1,7
1,4
1,2
Nông thôn
2,8
2,2
1,8
1,4
1,3
Thành thị
2,7
2,1
1,6
1,3
1,1
Nguồn: Việt Nam - Tấn công đói nghèo. WB ước tính trên số liệu của VLSS 98.
Theo bảng trên ta thấy nhóm (hộ nghèo nhất) thường là những hộ có số người phụ thuộc cao nhất, chênh lệch giữa nhóm 1 và nhóm 5 là 1,6 người. Trong đó, ở nông thôn, số người phụ thuộc cao hơn ở thành thị là 0,1 người (nhóm 1) và 0,2 người (nhóm 5) số người phụ thuộc cao dẫn đến gánh nặng của những người lao động chính tăng lên họ phải làm để không những nuôi bản thân mình mà còn nuôi cả những người khác trong gia đình. Có nghĩa là 1 người nhóm 1 phải làm gấp 2,8;1,2 =2,3 lần so với 1 người thuộc nhóm 5. Có thể nói tình trạng phụ thuộc của các gia đình là “người làm thì ít, người ăn thì nhiều” và thường xảy ra ra tình trạng thiếu lao động (do số người trong gia đình đông nhưng phần lớn vẫn chưa tự lao động để nuôi sống bản thân mình mà phải phụ thuộc vào một vài lao động chính). Tình trạng thiếu lao động còn thể hiện ở chỗ, người lao động chính, ngoài công việc kiếm tiền nuôi gia đình còn phải gánh thêm nhiều công việc nhà do số người phụ thuộc tăng. Lao động bỏ ra của họ cho công việc nhà cũng là đáng kể, vì làm việc nhà nên họ không thể làm các công việc tạo ra thu nhập khác. Có thể thấy tình trạng hộ nghèo có số người sống phụ thuộc cao là rất phổ biến, nó xảy ra ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Đây là một nhân tố quan trọng, ảnh hưởng rát lớn, thậm chí có tính chất quyết định, tới tình trạng nghèo đói của người dân, nó cản trở việc thực hiện xoá đói giảm nghèo của người dân nói riêng và của Đảng, Nhà nước nói chung. Cùng với mức sinh cao (gia đình đông con), tỷ lệ người sống phụ thuộc cũng đã tạo nên một vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Đó là: do sinh nhiều con nên lao động thiếu, số người phụ thuộc cao, gánh nặng đè lên vai những người lao động chính, một người làm để phải nuôi mấy người do đó làm không đủ ăn, vì vậy con cái không được hưởng một cách đầy đủ những nhu cầu thiết yếu như y tế, giáo dục... dẫn đến vòng đời của chúng sẽ lại rơi vào cảnh nghèo đói.
· Giới tính của người làm chủ gia đình:
Chính nhân tố giới tính của người làm chủ gia đình cũng quyết định lớn đến mức độ nghèo đói cao của hộ gia đình. Thường những gia đình mà người phụ nữ làm chủ thì dễ rơi vào cảnh nghèo đói và mức nghèo đói còn trầm trọng hơn so với các hộ khác. Lời nói của chị T, quận 10 thành phố Hồ Chí Minh là một minh chứng cho điều này: “Cuộc sống của chúng tôi rất chật vật. Kể từ khi chồng tôi mất, tôi không thể nào kiếm được việc làm và các con tôi cũng không thể đến trường được nữa” (Phỏng vấn, đánh giá PPA, 1998).
Những hộ gia đình có mức sống khá và trung bình mà trước đây có người đàn ông làm chủ nhưng vì một nguyên nhân nào đó (rủi ro thiên tai, bệnh tật) mà trụ cột gia đình này mất đi, người phụ nữ lại không đủ khả năng đảm đương được trách nhiệm này thì hộ gia đình đó rất dễ bị một cú sốc lớn không thể chống lại được và dễ rơi vào tình trạng nghèo đói. Người phụ nữ có đặc điểm là không làm được những công việc nặng nhọc mà nam giới có thể làm, thêm vào đó, họ còn phải chịu nhiều định kiến, sự bất bình đẳng xã hội nên với cùng một côngivệc họ chỉ nhận được một khoản tiền công ít hơn so với người nam giới. Công việc của người phụ nữ thường là bất ổn định và họ khó kiếm việc hơn nam giới nên thu nhập làm ra thường rất thấp. Bên cạnh đó, người phụ nữ còn phải lo toan công việc gia đình nên không thể dành hết thời gian và công sức cho việc tạo thêm thu nhập. Đó là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng các hộ nghèo có người phụ nữ làm chủ thường có cuộc sống khốn cùng hơn những hộ nghèo có người đàn ông làm chủ.
Hiện nay, nguyên nhân nghèo đói do giới tính cũng đáng được quan tâm vì vẫn còn nhiều hộ do phụ nữ làm chủ, họ rất dễ bị tổn thương và lâm vào cảnh đói nghèo. Qua cuộc điều tra chọn mẫu ở tỉnh Quảng Bình, chủ hộ là nam có 1.488 hộ, tổng số nhân khẩu thuộc hộ nam là 8.465 người, bình quân một hộ nam có 5,7 người/hộ. Trong khi đó, số hộ có chủ hộ là nữ: 562 hộ, bình quân 1 hộ nữ chỉ có 3,9 người/hộ. Qua đó ta thấy số hộ gia đình ở Quảng Bình đang thiếu vai trò của nam giới còn chiếm một tỷ lệ đáng kể: 562/1488 = 37,77%.
Bảng 2.9. Số khẩu trung bình của một hộ điều tra. Phân theo giới của chủ hộ thuộc tỉnh Quảng Bình
Huyện
Không nghèo
Đói
Nghèo
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
1. Đồng Hới
4,3
5,1
5,8
7,0
4,7
6,1
2. Bố Trạch
3,8
5,1
3,9
6,0
3,4
5,2
3. Lệ Thuỷ
3,6
5,7
3,9
6,1
4,1
5,7
4. Minh Hoá
5,7
5,5
4,8
6,2
4,0
5,1
5. Quảng Ninh
3,5
5,2
3,9
6,1
3,0
6,8
6. Quảng Trạch
3,5
5,2
3,4
5,4
4,0
5,6
7. Tuyên Hoá
3,8
4,7
3,8
6,0
6,1
5,5
Chung
3,7
5,3
3,9
6,0
4,1
5,8
Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân đình: “Nghèo đói, xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” - NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2001.
2.2.3. Các nhân tố kinh tế
· Nghề nghiệp và mức độ đa dạng hoá của nghề nghiệp
Yếu tố nghề nghiệp có những ảnh hưởng nhất định tới sự nghèo đói của người dân. Nghề nghiệp là nguồn cung cấp thu thập cho gia đình, vì vậy, tính chất của nghề đó quyết định đến mức thu nhập và tính ổn định của thu nhập thấp, bấp bênh. Thông thường, người dễ rơi vào tình trạng nghèo đói là những người chỉ làm những công việc có thu nhập thấp, tỉnh rủi ro cao dẫn đến sự bất ổn định về thu nhập. Thêm vào đó, họ chỉ có một nguồn thu duy nhất đưa vào nghề đó. Thống kê cho thấy nghèo đói ở nước ta chủ yếu rơi vào các hộ nông dân mà trong đó các hộ thuần nông chiếm tỷ lệ cao. Nông nghiệp là nghề phụ thuộc nhiều vào thời tiết, nếu có rủi ro xảy ra (như hạn hán, lũ lụt) thì nguy cơ mất trắng toàn bộ hoa mầu là rất cao. Nếu gia đình chỉ trông chờ vào thu nhập do hoa mầu thì khi xảy ra những sự cố như vậy, nguy cơ rơi vào cảnh nghèo đói của họ sẽ rất cao.
Để thấy rõ điều nay ta có thể phân tích tỷ lệ các ngành nghề trong từng nhóm hộ. Nó cho chúng ta bức tranh rõ nét hơn về các nguyên nhân đói nghèo gắn liền với tình trạng thuần nông không có thêm nghề phụ.
Bảng 2.10: Phân tích tỷ lệ các hộ đói và nghèo phân theo ngành nghề hoạt động
Ngành nghề sản xuất
Đói
Nghèo
Chung cho các hộ
Nông nghiệp thuần nông nghề khác
90,57
88,05
86,59
Nghề khác
2,49
1,61
2,59
Dịch vụ buôn bán nhỏ
0,10
0,92
0,69
Lâm nghiệp + nông nghiệp
4,76
1,61
3,32
Làm thuê
1,14
2,53
1,80
Nghề thủ công
0,21
0,46
0,20
Thủy sản
0,73
4,82
4,82
Tổng
100
100
100
Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân đình: “Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam”, trang 167 - NXB Nông nghiệp - 2001.
Nhìn vào bảng trên ta thấy các hộ thuộc nhóm đói có tới 90,57% là thuần nông và tỷ lệ thuần nông giảm dần theo chiều tăng về mức thu nhập của nhóm, hộ không nghèo có tỷ lệ thuần nông thấp hơn cả 79,69%. Như vậy, phân tích nguồn thu nhập theo ngành nghề mà các hộ đang tham gia hoạt động cho thấy một nét chung là: thuần nông là bạn đường của tình trạng nghèo đói.
Do tính bấp bênh của việc phụ thuộc vào một nghề duy nhất nên nghèo đói cũng có thể được xem xét dưới góc độ đa dạng hoá ngành nghề. Việc đa dạng hoá ngành nghề có tỷ lệ thuận với mức độ giảm nghèo. Đa dạng hoá ngành nghề đến đâu quyết định khả năng hạn chế rủi ro và tăng thu nhập của người dân, do đó có thể giảm được đói nghèo. Vì vậy, có thể nói, khi xem xét đến vấn đề đa dạng hoá thu nhập hay đa dạng hoá ngành nghề, nếu hộ chỉ phụ thuộc vào một nghề duy nhất thì khả năng nghèo đói là cao, nếu hộ đa dạng hoá ngành nghề thì khả năng này sẽ giảm.
Tình trạng không có hoặc thiếu việc làm
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, vấn đề thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn vẫn mang tính bức xúc. Chính tình trạng không có việc làm, thiếu việc làm thường xuyên đã ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người dân. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản làm cho các hộ gia đình rơi vào cảnh đói nghèo.
Bảng 2.11- Số người thiếu việc làm trong 12 tháng chia theo nhóm tuổi
Tổng số (người)
Chia theo nhóm tuổi (%)
15-24
25-34
35-44
45-54
55-59
> 60
Cả nước
9.418.380
30,53
29,98
23,81
10,98
2,60
2,09
Thành thị
1.198.882
29,70
31,99
24,91
10,79
1,92
1,43
Nông thôn
8.219.498
30,65
29,68
2,38
11,01
2,70
2,19
Miền núi và trung du Bắc Bộ
1.393.328
35,39
5,9
23,4
1,89
2,87
1,33
Đồng bằng sông Hồng
2.554.720
25,67
28,30
27,62
12,43
3,31
2,67
Bắc Trung bộ
1.465.462
27,47
28,35
25,03
12,72
3,67
2,76
Duyên hải miền Trung
879.623
30,53
32,57
19,56
9,73
3,13
3,38
Tây Nguyên
199.433
32,03
32,67
23,40
8,01
2,59
1,30
Đông Nam bộ
870.856
32,96
35,01
21,44
7,97
1,38
1,24
Đồng bằng sông Cửu Long
2.054,958
34,29
30,92
21,37
10,39
1,74
1,29
Nguồn: Theo số liệu của TCTK “Thực trạng lao động và việc làm ở Việt Nam 1998”
Nhìn vào bảng trên ta thấy, tỷ lệ thiếu việc làm ở nước ta ở mức cao (khoảng 22%) trong tổng số người từ 15 tuổi trở lên (9,4% triệu/47 triệu). Đáng chú ý tỷ lệ thiếu việc làm ở nhóm tuổi từ 25 đến 34 tuổi là: 29,98% và từ 35 tuổi đến 44 tuổi là 23,81%. Đây là độ tuổi sung sức nhất cả về thể lực và trí lực nhưng lại có tỷ lệ thiếu việc làm khá cao (trên 50% trong tổng số người thiếu việc làm).
Bảng 2.12. Tình trạng không có việc làm thường xuyên ở các vùng
Đơn vị: người
Vùng
Từ 15 tuổi trở lên
Trong tuổi lao động
Tổng số
Nữ
Tổng số
Nữ
* Cả nước
1.338.849
640.435
1.334.936
618.487
- Thành thị
427.175
204.500
422.215
202.210
- Nông thôn
961.674
435.935
922.721
416.277
Miền núi và trung du Bắc Bộ
20.919
44.753
119.410
44.176
Đồng bằng sông Hồng
349.780
154.293
331.128
144.439
Bắc Trung Bộ
263.721
121.100
248.615
113.370
Duyên hải miền Trung
125.452
56.883
121.825
55.430
Tây Nguyên
15.393
8.769
15.393
8.769
Đông Nam Bộ
239.285
110.364
237.536
109.836
Đồng bằng sông Cửu Long
274.299
144.273
271.029
142.467
Nguồn: TCTK “Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam 1998” trang 518-520. NXB Thống kê 1999.
Qua 2 bảng trên ta thấy số người thiếu việc làm và có việc làm không thường xuyên ở khu vực nông thôn chiếm số lượng lớn (8.219.498 người không có việc làm và 961.674 người có việc làm không thường xuyên. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói ở nôg thôn cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ nghèo ở thành thị.
· Cơ cấu chỉ tiêu:
Cơ cấu chi tiêu của các hộ nghèo thường rất eo hẹp. Họ chỉ có khả năng trang trải với mức hạn chế, tối thiểu các chi phí lương thực và phí lương thực thiết yếu khác, họ thường phải bỏ thêm chi phí không đáng có hoặc bị giảm thu nhập vì khó tiếp cận các cơ hội tăng trưởng kinh tế. Thu nhập thấp nên mãi dù họ chỉ có khả năng trang trải tối thiểu các chi phí lương thực nhưng nó cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi tiêu của họ.
Bảng 2.13. Cơ cấu chi tiêu chia theo nhóm hộ
Đơn vị tính (%).
Chung
Nhóm hộ
1 (rất nghèo)
2
3
4
5 (rất giàu)
Chi đời sống
100
100
100
100
100
100
- Chi ăn uống
52,95
70,69
65,64
61,67
51,11
13,51
+ Lương thực
15,30
35,37
26,84
21,72
16,05
7,57
+ Thực phẩm
24,93
26,26
28,97
29,15
27,96
21,10
+ Chất đốt
3,77
4,11
4,08
4,02
3,89
3,52
+ Ăn uống ngoài gia đình
5,19
0,70
1,86
2,71
4,48
7,65
+ Uống và hút
3,76
4,23
3,89
3,81
3,71
3,64
- Chi khôngphải ăn uống
47,05
29,31
31,36
38,33
43,91
56,45
+ May mặc
4,31
5,79
5,71
5,38
4,76
3,34
+ ở
7,51
4,00
4,62
5,29
6,44
9,81
+ Đồ dùng bền lâu
12,10
4,08
6,26
8,79
10,84
16,47
+ Y tế
5,22
4,64
5,21
5,45
5,71
5,01
+ Giao thông bưu điện
1,26
0,48
0,65
0,77
0,91
1,71
+ Giáo dục
6,37
3,22
3,95
4,52
5,53
8,29
+ Văn hoá thể thao
0,65
0,08
0,10
0,17
0,37
1,12
+ Khác
9,54
7,03
7,87
8,77
9,32
10,61
Nguồn: TCTK VLSS 1998
Nhìn vào bảng trên ta thấy, người nghèo phải chi tới 70,69% tỷ trọng ngân quỹ gia đình cho các khoản chi ăn uống. Trong đó 61,65% dành cho lương thực thực phẩm. Chi ngoài ăn uống chỉ chiếm 29,31%, trong đó chi cho các khoản giao thông bưu điện (0,48%), giáo dục (3,22%), văn hoá thể thao (0,08%) chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Mặc dù tỷ trọng chi cho ăn uống cao như vaỵa nhưng số lượng và chất lượng bữa ăn của họ vẫn không được đảm bảo, tình trạng thiếu ăn, đứt bữa vẫn còn tồn tại. Khẩu phần ăn của họ không đảm bảo được lượng Kcalo cần thiết cho cuộc sống bình thường nhằm tái sản xuất sức lao động. Nói chung, bữa ăn của các hộ nghèo rât đạm bạc, không đủ dinh dưỡng. Bình quân mỗi người/ngày mới đảm bảo được 1944 Kcalo, trong đó lương thực bao gồm gạo, ngô, khoai, sắn chiếm 80%, thực phẩm khác chỉ chiếm dưới 20%. Mặt khác, những người nghèo thường ít có cơ hội tiếp xúc với các dịch vụ y tế. Chính điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ. Tình trạng sức khoẻ kém cũng là một nguyên nhân không kém phần quan trọng dẫn đến nghèo đói, nó cũng làm người nghèo khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Thu nhập thấp Þ ăn uống không đầy đủ Þ sức khoẻ kém Þ năng suất lao động thấp Þ làm không đủ ăn Þ thiếu đói Þ vay mượn nợ nần nhiều Þ thu nhập thấp... đó chính là vòng luẩn quẩn mà người nghèo rất dễ mắc phải.
· Nhóm nhân tố về tài sản
- Nghèo do thiếu vốn: thiếu hạc không có vốn là nguyên nhân mà người nghèo cho rằng có ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghèo đói của họ. Không có vốn để sản xuất kinh doanh chính là trở lực rất lớn đối với người lao động khi tham gia vào kinh tế thị trường. Vốn là rất cần thiết, là điều kiện ban đầu cần phải có để giúp cho các hộ nghèo thoát khỏi cảnh nghèo đói. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào các hộ nghèo có thể tiếp cận với các nguồn tín dụng để họ có nhiều cơ hội hơn trong sản xuất kinh doanh. Hiện nay sự tiếp cận tín dụng của các hộ nghèo còn rất nhiều hạn chế. Tỷ lệ hộ vay vốn ngân hàng mới chỉ chiếm 54,14%, lãi suất vay trung bình 1,18%. Còn hơn 455 số hộ không có khả năng trả số nợ quá hạn. Sở dĩ hộ nghèo tiếp cận vốn còn khó khăn là do cách sản xuất của hộ nghèo còn giản đơn, không biết thâm canh, thiếu kinh nghiệm sản xuất, do lãi suất vay vốn cao và thủ tục vay còn rườm rà hoặc cũng có thể do họ ngại rủi ro vay về không biết đầu tư vào đâu, có hoàn được vốn không. Họ sợ đầu tư vào những cái mới vì không biết nó thế nào vì thế họ vẫn cứ làm theo cách truyền thống, không có khoa học. Trong nông nghiệp thì do không biết cách đầu tư, cải tạo đất cho tốt, không đưa các loại giống mới vào trồng, không có các loại phân bón tăng trưởng hợp lý và cũng không sử dụng các loại thuốc phòng tránh sâu bệnh dẫn đến năng suất cây trồng thấp và nghèo lại hoàn nghèo. Hiện nay, rất nhiều hộ nghèo đã nhận thức được tầm quan trọng và tính bức xúc của vốn, nhưng không phải ai muốn vay cũng được cho vay. Có một nghịch lý là: vốn ngân hàng cho người nghèo vay còn nhiều, nhu cầu vay vốn của các hộ nghèo đói lại lớn, mà các hộ nghèo vẫn phải đi vay mượn tư nhân, chịu cảnh vay nặng lãi. Thực tế nhu cầu vay vốn thường có tính chất đột xuất trong số các hộ nghèo và nhu cầu phi sản xuất thường không phù hợp với cơ chế vay vốn của ngân hàng. Hiện nay, đây là một bất cập về cơ chế vay vốn, và là một thực tế nghiệt ngã trong cuộc sống của người nghèo đói. Không ít hộ đã phải bán lúa non để lo lót các khoản chi tiêu không thể chối từ trong gia đình... đang dồn họ vào thế bí: đã nghèo lại nghèo thêm . Số liệu dưới đây phản ánh phần nào nhu cầu vay vốn của các hộ nghèo và mức độ đáp ứng trên thực tế.
Bảng 2.14: Lý do vay vốn của các hộ theo nhóm chỉ tiêu
Đơn vị đo: %
Chung
Các nhóm hộ
1
2
3
4
5
Sản xuất và đầu tư cơ bản
66,32
15,53
63,25
69,23
69,25
65,77
Mua nhà, làm nhà
10,28
26,92
10,56
10,20
16,77
7,51
Mua sẵm đồ dùng
2,88
2,42
12,17
3,95
3,56
1,70
Tiêu dùng chung, ăn khi giáp hạt
3,29
12,21
2,77
3,22
3,72
2,83
Chi tiêu khác
17,22
12,93
11,24
13,39
6,71
22,19
Tổng
100
100
100
100
100
100
Nguồn: TCTK: VLSS 1998
Bảng 2.14: Nhu cầu vốn của hộ giàu nghèo và mức độ đáp ứng vốn của một số ngân hàng, tính bình quân một hộ vay.
Đơn vị tính: 1000đ
Hộ giàu
Hộ nghèo
H. Lục Nam (Bắc Giang)
Gia Lâm (Hà Nội)
Yên Mỹ (Hưng Yên)
H. Lục Nam (Bắc Giang)
Gia Lâm (Hà Nội)
Yên Mỹ (Hưng Yên)
Số hộ điều tra
10
6
13
2
1
2
- Nhu cầu vốn/1 hộ
11806,5
16056,2
21151,6
4286,8
3820,5
4005,3
- Đáp ứng
10112,0
16189,5
23537,4
2819,9
2163,5
2886,1
- Tỷ lệ đáp ứng
85,65
100,64
75,46
65,76
56,62
72,06
Nguồn: Phạm Văn Khiêm- Những biện pháp huy động vốn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của hộ nông dân các tỉnh phía Bắc, Viện Kinh tế nông nghiệp, 1999.
Nhìn vào bảng trên ta thấy hộ giàu có nhiều lợi thế hơn hộ nghèo trong việc vay vốn ngân hàng. Các hộ giàu được đáp ứng với mức độ khá cao về nhu cầu vay vốn từ 75,48% đến 100% thậm chí vượt nhu cầu. Trong lúc đó, hộ nghèo đã thiếu vốn, cần vốn nhưng lại chưa được vay thoả đáng, mức độ đáp ứng cao nhất cũng chỉ đến 72,0%. Theo đánh giá của ngân hàng phục vụ người nghèo, tỷ lệ nợ quá hạn đối với hộ nghèo nhất chiếm tỷ trọng cao trong tổng số nợ quá hạn nói chung. Trong khi điều kiện sản xuất còn gặp nhiều khó khăn, các hộ nghèo có nhiều mặt hạn chế, thì nợ nần triền miên đối với họ là điều khó tránh khỏi. Điều này đã góp phần làm bần cùng thêm cuộc sống của họ. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho họ khó thoát khỏi cảnh nghèo đói.
- Nghèo do thiếu tài sản vật chất:
Thiếu hoặc không có tài sản luôn là nguyên nhân gây ra nghèo đói đối với các hộ gia đình. Như là các đôi vợ chồng trẻ, mới bước vào cuộc sống, có xuất phát điểm thấp (giá trị tài sản ban đầu nhỏ) họ gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, trong việc tiếp cận với thị trường, nắm bắt các cơ hội, nhạy bén với các xu thế của xã hội. Các hộ có xuất phát điểm thấp thì rất dễ rơi vào cảnh nghèo đói nếu có rủi ro xảy ra. Vì tài sản có giá trị của họ, xét cho cùng, chỉ có căn nhà và một đồ đạc sinh hoạt thiết yếu (điều quan trọng ở đây không phải là tổng giá trị của tài sản là bao nhiêu mà chúng ta phải xem xét khả năng có thể hoá giá các tài sản này để bù đắp cho các thiệt hại do các rủi ro đem lại) chính vì không có tài sản để tự bảo hiểm nên nhiều hộ gia đình đã phải sống chung với nghèo đói.
Thiếu tài sản còn thể hiện ở các hộ gia đình không có hoặc không đáng kể các tư liệu sản xuất để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, họ thường phải sống ở trong những căn nhà lán, lều tạm bợ. Ngay cả ở thành phố một số gia đình nghèo vẫn phải sống trong các căn nhà ổ chuột, không đảm bảo được các điều kiện hợp vệ sinh. Đây chính là nguyên nhân gây ra các dịch bệnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của chính bản thân họ. Theo kết quả điều tra năm 1993 của Bộ Nông nghiệp và CNTP về tình trạng giàu nghèo trong nông thôn cho thấy: Nhà ở của hộ nghèo còn đơn sơ: mới chỉ có 15,7% số hộ có nhà ngói, 72% còn ở nhà tranh vách đất, 11,7% số hộ ở lều tạm. Đồ dùng sinh hoạt trong gia đình còn quá thiếu thốn, bình quân mỗi hộ có một chiếc giường gỗ hoặc tre, 0,3 chiếc xe đạp. Về tư liệu sản xuất bình quân 10 hộ mới có một con trâu hoặc bò, ngay cả cày, bừa bằng gỗ vẫn còn thiếu thốn. Trong lúc đó, các hô giàu đã tích luỹ khá lớn, đã mua sắm được nhiều loại máy móc phục vụ sản xuất kinh doanh, phương tiện sinh hoạt. Đã có 16,1% số hộ giàu có nhà ở mái bằng hoặc từ 2 tầng trở lên; 77% số hộ có nhà ngói, chỉ còn 6,9% ở nhà tranh. Số hộ có ti vi các loại là 17%, trong lúc đó 16,8% số hộ có ti vi mầu, 79% số hộ có radiô các loại, 87,8% số hộ có xe đạp.
Bảng 2.16: Tình hình nhà ở theo 5 nhóm hộ phân theo mức chi tiêu 1997-1998
Đơn vị tính: %
Chung
Theo nhóm
Khu vực
1 nghèo nhất
2
3
4
5 giàu nhất
Thành thị
Nông thôn
1. Nhà kiểu biệt thự
0,07
0,00
0,00
0,00
0,00
100,0
91,39
8,61
2. Nhà căn hộ cao tầng khép kín
3,98
1,53
1,81
2,10
7,65
86,92
86,07
13,93
3. Nhà căn hộ cao tầng không khép kín
2,19
0,63
11,72
10,24
34,08
43,34
97,38
52,62
4. Nhà căn hộ 1 tầng kiên cố khép kín
1,74
1,61
0,68
5,33
18,99
73,40
85,91
14,09
5. Nhà căn hộ 1 tầng kiên cố không khép kín
6,94
10,07
19,82
20,81
24,50
24,85
21,70
78,30
6. Nhà bán kiên cố
59,18
17,75
20,19
21,27
22,38
18,11
17,49
82,51
7. Nhà tạm khác
29,91
33,51
23,79
21,51
11,20
6,98
11,64
88,36
Nguồn: TCTK: VLSS 1998
Theo các số liệu điều tra ở trên ta thấy tỷ lệ hộ nghèo chủ yếu ở nhà bán kiên cố, nhà tạm vẫn còn cao (33,51 nhà tạm và 17,75 nhà bán kiên cố). Và hầu hết các hộ ở nông thôn hiện còn ở nhà bán kiên cố, nhà tạm. Qua đây ta thấy được bức tranh khái quát cuộc sống khó khăn, túng thiếu của họ. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho họ phải sống trong cảnh lam lũ, bần cùng, cơ hàn và nghèo đói.
Ngoài ra mức độ tiếp cận của các thành viên trong hộ với các loại tài sản cũng có tác động đáng kể đến tình trạng nghèo đói của bản thân họ.
Biểu 2.17: Giá trị tài sản bình quân theo đầu người
Đơn vị tính: 1000đ/người
Trị giá các loại tài sản
Không nghèo
Đói
Nghèo
Chung
1. Radio- Cassette
4,84
2,98
37,82
3,75
2. Tivi
7,78
1,68
3,88
4,08
3. Xe máy
3,2
1,50
2,32
2,3
4. Xe đạp
44,35
22,32
33,56
31,68
5. Bình bơm thuốc trừ sâu
2,48
2,34
0,99
1,16
6. Xe bò
8,18
4,68
8,40
6,58
7. Máy bơm nước
2,48
0,02
1,35
1,19
8. Nhà ở
736,03
373,13
560,93
527,84
9. Trâu
57,22
33,03
42,70
42,74
10. Bò
128,56
109,25
114,22
116,42
Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân Đình “Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” trang 176, NXB Nông nghiệp 2201.
Ta thấy chính giá trị bình quân của các tài sản, vận dụng phản ánh mức sống chung của các hộ. Đặc biệt là các hộ đói việc tiếp cận với các loại tài sản còn rất nhiều hạn chế. Ví dụ bình quân mỗi người trong hộ đói chỉ có 1500 đồng so với mỗi cái xe trị giá vài chục triệu để thấy khoảng cách của họ đến các phương tiện đi lại đắt tiền này còn xa vời, không biết trong đời có đạt được không. Qua đây ta thấy chính sự thiếu thốn các loại tài sản trên làm cho việc đi lại, nuôi trồng, sản xuất gặp nhiều khó khăn, là nguyên nhân phổ biến gây ra tình trạng nghèo đói ở nhiều nơi.
2.3.3. Các nhân tố xã hội
· Nhóm nhân tố giáo dục
Người nghèo thường có trình độ học vấn tương đối thấp, thiếu kỹ năng làm việc và thông tin, thiếu kinh nghiệm sản xuất, không có kinh nghiệm làm ăn, cho nên không có được các giải pháp để tự thoát nghèo. Dân trí thấp, tự ti, kém năng động, lại không đợc hướng dẫn cách thức làm ăn, đây là nguyên nhân làm cho nhiều hộ rơi vào cảnh đói nghèo triền miên, đặc biệt là các hộ vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc miền núi, ít người.
Thực tế đã chứng minh, các hộ nghèo đói thì chủ hộ thường có học vấn thấp. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên. Bảng 2.18 sẽ minh chứng rõ thêm điều này.
Bảng 2.18: Trình độ học vấn của các hộ
Đơn vị (%)
Chung
Các nhóm hộ
1 (rất nghèo)
2
3
4
5 (rất giàu)
Chung
100
19,98
20,00
20,01
20,01
20,00
- Chưa bao giờ đến trường
100
39,86
19,99
16,19
15,01
8,94
- Chưa tốt nghiệp cấp I
100
23,33
23,03
21,14
19,38
13,13
- Tốt nghiệp cấp I
100
21,27
21,24
19,75
19,60
18,11
- Chưa tốt nghiệp cấp II
100
17,63
20,96
23,57
20,87
16,97
- Chưa tốt nghiệp cấp III
100
10,54
13,03
20,33
19,55
36,55
- Nghề cơ sở
100
10,13
15,86
19,32
25,23
29,15
- THCN
100
6,98
14,31
15,41
23,60
39,69
- Đại học và cao đằng trở lên
100
1,45
4,57
3,59
20,21
70,15
Nguồn: TCTK : VLSS, 1998
Theo bảng trên, trong nhóm hộ nghèo nhất thì số người chưa bao giờ đến trường chiếm tỷ lệ cao nhất, đáng chú ý là trình độ từ cấp III trở lên chiếm tỷ lệ ít nhất. Người nghèo thường không được đào tạo nghề nghiệp. Đây là điều đáng lo ngại nhất đối với người nghèo, họ rất ít có các cơ hội để kiếm được việc làm tốt và tạo thu nhập cao, do đó nghèo đói là khó tránh khỏi.
Bảng 2.19: Trình độ học vấn của người nghèo (năm 1993)
Trình độ học vấn
Tỷ lệ nghèo (%)
Tỷ lệ trong tổng số người nghèo (%)
Tỷ lệ trong tổng số dân số (%)
- Không được đi học
57
12
8
- Tiểu học
42
39
35
- Phổ thông cơ sở
38
37
36
- Phố thông trung học
25
8
12
- Dạy nghề
19
3
6
- Đại học
4
0
3
- Tổng số
37
100
100
Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói - WB.
Như vậy, tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên, gần 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn tỷ lệ chưa hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học ở nhóm hộ nghèo cao nhất 57%, ngược lại, tỷ lệ tốt nghiệp đại học thuộc diện nghèo đói chỉ chiếm 4%. Ta thấy sự chênh lệch học vấn giữa người nghèo và người giàu là khá rõ ràng.
Bảng 20.2: Trình độ văn hoá của chủ hộ phân theo nhóm
Tỷ lệ (%)
Giàu
Nghèo
- Không biết chữ
0
24,3
- Học hết cấp I
28,1
53,6
- Học hết cấp II
44,2
20,3
- Học hết cấp III
27,7
1,8
Nguồn: Giàu - nghèo trong nông thôn hiện nay. NXB Nông nghiệp 1999.
Theo kết quả này thì nhóm hộ nghèo có tới 24,3% chưa biết chữ trên 53% chỉ có trình độ học vấn cấp I. Trong khi đó, nhóm hộ giàu phần lớn đạt trình độ học vấn cấp II, cấp III. Các hộ nghèo không có điều kiện học tập văn hoá, các con em họ không có nhiều cơ hội đến trường, nhất là con em vùng dân tộc ít người, miền núi vùng sâu, vùng xa, đây cũng là một trong các nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo dai dẳng, nghèo từ đời này sang đời khác, thực tế, bản thân các hộ nghèo cũng hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa khoá quan trọng để thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Tuy nhiên, các con số thống kê được đã chỉ ra rằng, vấn đề lớn liên quan đến việc tiếp thu các kỹ năng, các kiến thức chung, việc có được thông tin là đặc biệt quan trọng. Các hộ sẽ được xếp vào nhóm khá giả hơn nếu như những người trưởng thành trong gia đình có trình độ học vấn nhất định và trẻ em được đến trường. Theo phỏng vấn, đánh giá PPA ở thành phố Hồ Chí Minh, nhiều hộ cho rằng cần phải có trình độ cao hơn mức phổ thông cơ sở để có cơ hội kiếm được một công việc ổn định. Như vậy, đời sống mới bớt nhọc nhằn, khổ cực hơn.
· Nhóm nhân tố liên quan đến sức khoẻ
Hiện nay, cách đánh giá nghèo đói của WB không chỉ dựa vào thu nhập mà còn dựa vào khía cạnh sức khoẻ của người dân.
*** Hình 2.1. Đánh giá nghèo đói qua các khía cạnh đa chiều
Ghi chú: H: là ngưỡng được xác định là người khoẻ mạnh.
Y: là thu nhập của người nghèo theo thu nhập.
Ở bảng trên, đã biểu hiện được mối quan hệ giữa sức khoẻ và thu nhập, nó phản ánh đầy đủ hơn tình trạng nghèo khó của con người. Người dân có thu nhập thấp sẽ làm giảm khả năng cải thiện về sức khoẻ, thể hiện ở việc dễ ốm đau và ít có cơ hội điều trị bệnh. Ngược lại, sức khoẻ không tốt cũng gây những ảnh hưởng tiêu cực tới việc làm và thu nhập.
Ở Việt Nam, mức độ nghèo đói về sức khoẻ thể hiện rất rõ nét, nó thể hiện sự bần cùng hơn của những người nghèo khi không tiếp cận với các dịch vụ y tế. Điều này rất phổ biến ở khu vực nông thôn, ở những vùng sâu, vùng xa và nhất là ở nhóm các dân tộc thiểu số (hình 2,2)
Hình 2.2. Các nhóm thiẻu số ở Việt Nam ít được tiếp cận các dịch vụ y ế hơn các nhóm không thiểu số
Nguồn: Phỏng theo Van de Walle và Gunewardena 2000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tm130_4168.doc