Đồ án Sử dụng các công cụ tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát

Một số biện pháp góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam Về chính sách tiền tệ : mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng nội trên cơ sở kiểm soát lạm phát . Chúng ta đều biết vấn đề quan trọng là kiểm soát lạm phát chứ không phải triệt tiêu nó vì tỉ lệ lạm phát vừa phải sẽ có những tác động tích cực lên nền kinh tế. Trách nhiệm này thuộc về NHNN, thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ của mình NHNN sẽ phải cố gắng điều tiết mức cung tiền cho hợp lý. Vì vậy vấn đề nâng cao trình độ của các nhà hoạch định chính sách cũng rất quan trọng. Về chính sách tài khóa : đối với nước ta hiện nay thì vấn đề đặt ra là phải kiện toàn bộ máy nhà nước, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên của Chính phủ , trên cơ sở đó làm giảm bội chi ngân sách nhà nước. Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ những giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô như sau: - Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ để ổn định lãi suất nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trường hợp có nhiều yếu tố bất lợi làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vượt khỏi tầm kiểm soát, cần áp dụng kịp thời các giải pháp thắt chặt tiền tệ trên cơ sở sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát tín dụng, đồng thời tiếp tục sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong đó lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được điều chỉnh tăng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường để phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ thận trọng và thúc đẩy các tổ chức tín dụng tập trung huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. - Tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt bám sát cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, đảm bảo tỷ giá danh nghĩa bám sát tỷ giá thực, không để xảy ra các cú sốc đột biến về tỷ giá; tiếp tục phát triển các công cụ phòng chống rủi ro trên thị trường ngoại hối; phối hợp việc điều hành tỷ giá và điều hành lãi suất nhằm đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất VND – tỷ giá – lãi suất ngoại tệ tránh gây tác động xấu thị trường ngoại hối đối với phát triển kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần củng cố hoạt động hệ thống ngân hàng thương mại an toàn, lành mạnh, hiện đại và bền vững hơn thông qua việc sửa đổi các quy định về mở văn phòng, chi nhánh, về phân loại nợ đọng và trích lập rủi ro tín dụng - Sử dụng công cụ hạn ngạch, thuế để điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu mặt hàng có thể gây biến động giá trong nước như gạo, sắt thép, phân bón, chất dẻo ; đồng thời thực hiện tốt dự trữ các mặt hàng trên để can thiệp thị trường trong nước khi xảy ra những biến động do thiên tai, và giá cả thế giới lên cao. - Thực hiện tốt công tác kiểm tra, quản lý thị trường, hệ thống phân phối để tránh đầu cơ, đẩy giá lên cao, đồng thời tiếp tục chấn chỉnh, sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh, ban hành và tổ chức thực hiện quy chế kinh doanh đối với một số vật tư, hàng hoá quan trọng như xi măng, sắt thép, phân bón, điện, than, thuốc chữa bệnh để khắc phục tình trạng đầu cơ, lũng đoạn thị trường - Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc. - Đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá NHNN, nâng cao tính độc lập của NH trung ương trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền tệ và sự bền vững của hệ thống ngân hàng còn nhiều rủi ro; đẩy mạnh cải cách tài chính công theo hướng phân công, xác định trách nhiệm của các cơ quan, trách nhiệm giải trình đảm bảo công khai minh bạch; đẩy mạnh xã hội hóa kinh tế, xã hội. Ngoài ra, phải phát triểnthị trường vốn, tài chính phục vụ hiệu quả đầu tư phát triển, tăng cường kiểm soát chặt chẽ đầu tư gián tiếp, khuyến khích đầu tư dài hạn. - Việt Nam đang tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo xu hướng hội nhập, thực hiện các cam kết của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, AFTA, cam kết gia nhập WTO, nên thị trường trong nước diễn biến theo sát thị trường quốc tế. Trong quá trình đó, Việt Nam được hưởng lợi từ giá cả xuất khẩu các mặt hàng có khối lượng lớn, thì cũng bị ảnh hưởng của giá cả biến động tăng của những mặt hàng nhập khẩu. Thời gian tới đây giá cả thị trường thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp khó lường trước. Đó là tính tất yếu khách quan của các giao dịch buôn bán trên thị trường quốc tế. Vì vậy Việt Nam cần tôn trọng tính thị trường, tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, Chính phủ không nên làm thay thị trường. Đặc biệt là không nên sử dụng các biện pháp có tính bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước như: cấp bù lỗ, cấp bù lãi suất, khoanh nợ, khi mà thị trường trong nước có tính thông thương với thị trường thế giới. Cơ chế bao cấp qua giá một số mặt hàng có tính theo sát thị trường thế giới sê làm méo mó giá cả trong nước, tạo điều kiện cho tình trạng xuất lậu qua biên giới, tác động tiêu cực đến ngân sách quốc gia, tác động gây tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Việc sử dụng biện pháp tài chính hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong dự trữ và thu mua nông sản phẩm càng làm gia tăng cơ chế xin cho, kẽ hở cho nhiều loại tiêu cực khác, trong khi người nông dân, người sản xuất không được hưởng lợi trực tiếp. Cơ chế quản lý giá và quản lý thị trường cũng cần linh hoạt và đổi mới phù hợp với tình hình của nền kinh tế nước ta hiện nay. - Lạm phát ở ta cũng do một nguyên nhân quan trọng là Ngân sách Nhà nước liên tục ở mức thâm hụt. Hầu như từ khi thống nhất đất nước đến nay, chưa bao giờ ngân sách đạt được cân bằng thu chi, đặc biệt trong những thời kỳ khủng hoảng kinh tế vĩ mô trước thập kỷ 90. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, thâm hụt ngân sách tăng dần, từ mức 0,13% GDP năm 1998 lên đến 3,23% năm 2001, sau đó giảm xuống, nhưng vẫn còn đứng ở mức khá cao, trên 2% trong vòng 2 – 3 năm gần đây. Như vậy, kiềm chế thâm hụt tài khóa sẽ góp phần đáng kể vào việc kiềm chế lạm phát và do đó, làm giảm bớt tầm quan trọng của chính sách thắt chặt tiền tệ. Dường như lâu nay ở ta có một quan niệm sai lầm và nguy hại rằng lạm phát chủ yếu bắt nguồn từ các cơn sốt giá nguyên nhiên liệu chiến lược đầu vào. Một số ít người thì tỉnh táo hơn đã nhắc đến sự tăng trưởng tín dụng mạnh để kích cầu trong những năm trước là một nguyên nhân khác của xu hướng lạm phát tăng cao trong những năm gần đây. Thế nhưng hầu như không ai đả động đến một nguyên nhân cũng rất quan trọng là thâm hụt tài khóa đó và đang ở mức khá cao như hiện nay. Từ nhận thức đầy đủ về nguồn gốc lạm phát này, có thể thấy chính sách kiềm chế lạm phát nhờ thắt chặt tín dụng và kiềm chế giá của các nguyên nhiên liệu đầu vào không cho tăng lên là chưa đủ, chưa thật thích hợp, thậm chí là có hại Để cho chính sách tiền tệ có hiệu lực trong việc kiềm chế lạm phát, có một số điều kiện tiên quyết. Đó là một thị trường tài chính được tự do hóa, một Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ và một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, tiến gần đến cơ chế thả nổi hoàn toàn. ở Việt Nam, 3 điều kiện này chưa (hoàn toàn) được xác lập. Chúng ta mới bắt đầu tự do hóa thị trường tài chính qua một số động thái, trong đó có việc xóa bỏ trần lãi suất, nhưng hoạt động trong các ngành tài chính và ngân hàng chưa hoàn toàn dựa trên các nguyên tắc thị trường. Ngân hàng Nhà nước, với tư cách là một Ngân hàng Trung ương, vẫn là một thành viên của Chính phủ và chịu nhiều chi phối từ đây. Cơ chế tỷ giá vẫn rất cứng nhắc, hầu như là gắn chặt giá đồng nội tệ với USD.

doc26 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Sử dụng các công cụ tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một thời gian dài thực thi vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót và hạn chế . Việc tìm ra những thiếu sót và hạn chế đó để khắc phục và xây dựng hoàn thiện chính sách tiền tệ là điều quan trọng nhất cần phải làm. Nhận thức được vai trò quan trọng của chính sách tiền tệ đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước, em đã chọn đề tài nghiên cứu là " sử dụng các công cụ tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát". Qua đó sẽ giúp em nâng cao thêm sự hiểu biết của mình về các vấn đề kinh tế, môi trường kinh tế và các vấn đề có liên quan. Vì sự hiểu biết còn hạn chế, em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của thầy, cô giáo và các bạn PHẦN I: LẠM PHÁT VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG VIỆC KIỀM CHẾ LẠM PHÁT 1.Những quan điểm về lạm phát Quá trình hình thành các khái niệm và nhận thức bản chất kinh tế của lạm phát cũng là quá trình phát triển của tư duy đi từ đơn giản đến phức tạp, đi từ hiện tượng bề ngoài đến bản chất bên trong, đến các thuộc tính của lạm phát, là quá trình sàng lọc những hiểu biết sai và đúng, lẫm lộn giữa hiện tượng và bản chất, giữa nguyên nhân và kết quả để phản ánh đúng đắn quy luật của lạm phát. Theo trường phái lạm phát “lưu thông tiền tệ” họ cho rằng lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả hàng hóa tăng lên. Chúng ta đều biết rằng không pải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong lưu thông với nhịp điệu nhanh hơn sản xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà nước không giảm bớt nội dung vàng hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân sách. K.Max đã chỉ ra rằng ý nghĩa về lạm phát của học thuyết này là quá đơn giản. Những người theo học thuyết này đã dùng logic hinhg thức để kết hợp một cách máy móc hiện tương tăng số lượng tiền với hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất của lạm phát. Trường phái lạm phát” cân dư thừa tổng quát”( hay cầu kéo) mà đại diện là J.keynes cho rằng: lạm phát là:: “ cầu dư thừa tổng quát do phát hành tiền ra quá mức sản xuất dẫn đến mức giá chung tăng. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là” cầu dư thừa tổng quát” là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời kỳ CNTB phát triển mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát. Còn ở Việt Nam năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm phát giá cả và lạm phát tiền tệ. Tuy keynes tiến sâu hơn trường phái lạm phá lưu thông tiền tệ là không lấy hiện tượng bề ngoài, không coi điều kiện của lạm phát là nguyên nhân của lạm phát nhưng lại mắc sai lầm về mặt logic là đem kết quả của lạm phát quy vào bản chất của lạm phát. Khái niệm của keynes vẫn chưa nêu được dúng bản chất kinh tế xã hội của lạm phát. Trường phái lạm phát giá cả cho răng: lạm phát là sự tăng giá, thực chất của lạm phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những thời kỳ mà không có lạm phát như: thời kỳ cách mạng giá cả ở thế kỷ 16 ở châu Âu, thời kỳ hưng thịnh ở một chu kỳ sản xuất, những năm mất mua… tăng giá chỉ là hệ quả một tín hiệu dễ thấy của lạm phát nhưng có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xẩy ra là do nguyên nhân cảu nhiều yếu tố chứ không chỉ đơn thuần là do tăng giá. Vì vậy quan niệm cảu trường phái này lẫn lộn giũa hiện tượng và bản chất làm cho người ta lẫn lộn giữa tăng giá và lạm phát. K.Max đã cho rằng lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa , làm cho giá cả tăng vọt. Ông cho rằng lạm phát là người bạn đường cảu chủ nghĩa tư bản, ngoài việc bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nữa, do đó lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống. Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong mức giá cả chung. Theo ông lạm phát xảy ra khi mức chung của gái cả và chi phí tăng – giá bánh mỳ, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng. Còn Milton Fridmen thì quan niệm lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài. Ông cho rằng lạm phát luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ, ý kiến đó của ông đã được đa số các nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ và keynes tán thành. 2. nguyên nhân của lạm phát a. Cung ứng tiền tệ và lạm phát Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc các trường phái tiền tệ, khi cung ứng tiền tệ tăng lên kéo dài sẽ làm cho mức giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát b. Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số chính phủ các nước theo đuổi cũng gây nên lạm phát, đó là mục tiêu công ăn việc làm cao. Có hai loại lạm phát và kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một công ăn việc làm cao đó là lạm phát phí đẩy và lạm phát cầu kéo. Lạm phát phí đẩy xẩy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc do kết quả của những cuộc đấu tranh đòi tăng lương gây ra Lạm phát cầu - kéo do mục tiêu công ăn việc làm cao gây ra. c. thâm hụt ngân sách nhà nước và lạm phát: Thâm hụt ngân sách nhà nước cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao. Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bàng biện pháp phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường tài chính để vay vốn dân chúng, bù đắp cho phần thiếu hụt. biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ do đó không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Một biện pháp khác chính phủ có thể sử dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách là phát hành tiền biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó làm tăng cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển thị trường vốn còn chưa phát triển nên việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu gặp nhiều khó khăn, để khắc phục thì các quốc gia nay sẽ sử dụng biện pháp là in tiền, điều này sẽ làm cho lạm phát tăng. Đối với các quốc gia phát triển việc huy động trên thị trường vốn dễ dàng hơn, tuy nhiên nếu chính phủ tiếp tục phát hành trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn sẽ tăng cao, do đó lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi xuất thị trường, Ngân hàng Trung ương sẽ phải thu mua các trái phiếu điều này lại làm cho cung tiền tệ tăng. Do vậy trong mọi trường hợp, tình trang thâm hụt ngân sách nhà nước cao, kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung tiền tệ và gây ra lạm phát. d. Lạm phát theo tý giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát. Khi tỷ gia tăng, động nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của những người sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mưc tăng của tý giá hối đoái. Thứ hai khi tỷ giá tăng giá nguyên liệu, hàng hóa nhập khẩu cũng tăng 3. Tác động của lạm phát Trên thực tế, nhiều nước chứng tỏ không thể triệt tiêu được lạm phát trong kinh tế thị trường dù đạt trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất . Nếu giữ được lạm phát ở mức độ nền kinh tế chịu được, cho phép có thể mở thêm việc làm, huy động thêm các nguồn lực phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế, thì cũng là một thực tế điều hành thành công trong cuộc chống lạm phát ở nhiều nước. Nhưng mức độ lạm phát là bao nhiêu thì phù hợp. Nếu tỷ lệ tăng trưởng cao, tỷ lệ lạm phát quá thấp thì dẫn tới tình trạng các ngân hàng ứ đọng vốn, làm ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước. Vì thế trong trường hợp đó người ta phải cố gắng tăng tỷ lệ lạm phát lên. Khi chính phủ kiểm soát lạm phát ở mức độ mà nền kinh tế chịu được (tỷ lệ lạm phát dưới 10%) thì vừa không gây đảo lộn lớn, các hệ quả của lạm phát được kiểm soát, vừa sức che chắn hoặc chịu đựng được của nền kinh tế và của các tầng lớp xã hội. Hơn nữa, một sự hy sinh nào đó do mức lạm phát được kiểm soát đó mang lại được đánh đổi bằng sự tăng trưởng , phát triển kinh tế mở ra nhiều việc làm hơn, thu nhập danh nghĩa có thể được tăng lên cho mỗi người lao động nhờ có đủ việc làm hơn trong tuần, trong tháng hoặc tăng thêm người có việc làm, có thu nhập trong gia đình và cả tầng lớp lao động do giảm thất nghiệp . Đến lượt nó, thu nhập bằng tiền tăng lên thì tăng thêm sức kích thích của nhu cầu của tiền tệ và sức mua đối với đầu tư, tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP). Nhưng khi tỷ lệ lạm phát đến 2 con số trở lên (lạm phát phi mã hoặc siêu lạm phát) thì hầu như tác động rất xấu tới nền kinh tế như sự phân phối và phân phối lại một cách bất hợp lý giữa các nhóm dân cư hoặc các tầng lớp trong xã hội và các chủ thể trong các quan hệ về mặt tiền tệ trên các chỉ tiêu mang tính chất danh nghĩa (chỉ tiêu không tính đến yếu tố lạm phát, không tính đến sự trượt giá của đồng tiền). Mặt khác tỷ lệ lạm phát cao phá hoại và đình đốn nền sản xuất xã hội do lúc đó độ rủi ro cao, không ai dám tính toán đầu tư lâu dài, những hoạt động kinh tế ngắn hạn từng thương vụ, từng đợt, từng chuyến diễn ra phổ biến, Trong xã hội xuất hiện tình trạng đầu cơ tích trữ, dẫn tới khan hiếm hàng hoá . Điều đó lại làm giá càng tăng, và xã hội rơi vào vòng luẩn quẩn, lạm phát càng tăng dẫn tới mất ổn định về chính trị xã hội. Tỷ lệ lạm phát cao còn có ảnh hưởng xấu tới quan hệ kinh tế quốc tế. Tóm lại khi lạm phát cao tới mức hai con số (ở Việt nam giữa những năm 80 đã xảy ra tình trạng lạm phát tới mức 3 con số) trở lên, thì có ảnh hưởng xấu tới xã hội. Do đó chính phủ phải có giải pháp khắc phục, kiềm chế, và kiểm soát lạm phát. Có rất nhiều giải pháp để kiểm soát lạm phát nhưng ở đề tài này tôi chỉ nêu ra giải pháp sử dụng chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát. 4. Khái niệm về chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kỳ tới (thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá . Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính chỉ tập trung vào thành phần. Kết cấu các mức chi phí thuế khoá của nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền KTQD, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tần cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế , tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hệ thống các ngân hàng thương mại, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại và kinh tế ngoại thương nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá . Chính vì vậy chính sách tiến tệ tác động nhạy bén tới lạm phát và đây là giải pháp khá hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát. 5. Vai trò của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát. Để thấy rõ tác động của chính sách tiền tệ tới tỷ lệ lạm phát ta sẽ đi tìm hiểu từng công cụ một của chính sách tiền tệ. 5.1. Dự trũ bắt buộc. Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thương mại có khả năng biến những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này, ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải trích một phần tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào ngân hàng trung ương không được hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các ngân hàng thương mại. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần khống chế (bị "vô hiệu hoá" về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và khả năng tín dụng của các ngân hàng thương mại. Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Như vậy công cụ DTBB mang tính hành chính áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực và cực kỳ quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng không ổn định cho các ngân hàng.Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít đưọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nước phát triển , có nền kinh tế ổn định) 5.2. Tái chiết khấu Tái chiết khấu là phương thức để ngân hàng trung ương đưa tiền vào lưu thông, thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, ngân hàng trung ương đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thông thanh toán. Tái chiết khấu là đầu mối tăng tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính sách tiền tệ. Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ thuộc yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính sách "nới lỏng" hay "thắt chặt" tín dụng mà ngân hàng trung ương quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời kỳ phải có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó. Khi ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương mại cũng phải nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên, giảm "cầu" về tín dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi). Do đó đầu tư giảm đi dẫn tới tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Trường hợp ngược lại tức là ngân hàng trung ương kích thích tăng cung cầu tiền tệ và làm cho giá tăng (tỷ lệ lạm phát tăng). ở các nước công cụ nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thương phiếu, hoặc các loại tín phiếu là những công cụ rất thông dụng trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn nhưng ở nước ta chưa có công cụ truyền thống để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu. Mặt khác công cụ tái chiết khấu vừa có khả năng giải quyết khả năng thanh toán vừa có khả năng mở rộng khối lượng tín dụng cho nền kinh tế. Cho nên có thể ví công cụ tái chiết khấu là cáí bơm hai chiều vừa hút vừa đẩy. Khi bơm đảy ra là cung thêm tiền cho nền kinh tế, khi có hiện tượng thiểu phát. Và bơm hút vào thu hồi lượng tiền khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát. Tuy nhiên khi NHTW ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức nào đó sẽ xảy ra những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu vì khi đó lãi suất cho vay thay đổi. Những biến động này dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó thay đổi trong cung ứng tiền tệ làm cho việc kiểm soát cung ứng tiền tệ vất vả hơn. Đây chính là hạn chế của công cụ tái chiết khấu trong việc kiểm soát lạm phát. 5.3. Hoạt động thị trường mở. Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu... đến để xin "tái cấp vốn" thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều khiển khối lượng tiền, qua đó đã kiểm soát được lạm phát. Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền trung ương vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại trái phiếu ngân hàng quốc gia nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các NHTM và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ chúng ta. Khi nghiên cứu phần trước đã biết rằng khối lượng tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát , việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.Trong nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương điều khiển cả khối lượng tiền tệ và lãi suất tín dụng thông qua "giá cả" mua và bán trái phiếu. Tất cả những cuộc can thiệp vào khối lượng tiền bằng công cụ thị trường mở đều được tiến hành dường như là lặng lẽ và vô hình, "không can thiệp thô bạo", điều khiển mạnh mà không chứa đựng "một chút mệnh lệnh". Một mặt nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại. Khi có một sai lầm trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, như khi thấy cung tiền tệ tăng hoặc giảm quá nhanh ngân hàng thương mại có thể lập tức đảo ngược lại bằng cách bán trái phiếu hoặc mua trái phiếu và ngược lại. Đây là công cụ cực kỳ quan trọng của nhiều NHTW, và được coi là vũ khí sắc bén nhất đem lại sự ổn định kinh tế nói chung, ổn định lạm phát nói riêng.Nhưng ở nước ta đang ở trong thời kỳ đặt nền móng. Bởi vì nghiệp vụ này đòi hỏi phải có môi trường pháp lý nhất định. Trong thời kỳ lạm phát đến 3 con số, Việt nam đã áp dụng chính sách lãi suất để đẩy lùi lạm phát rất nhanh chóng. (nhờ vào đặc điểm riêng biệt của lạm phát ở Việt nam). Chúng ta sẽ nghiên cứu xem chính sách lãi suất tác động tới lạm phát như thế nào. 5.4. Lãi suất. Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Nó được áp dụng nhất quán trong một lãnh thổ và được ngân hàng nhà nước điều hành chặt chẽ và mềm dẻo tuỳ theo từng thời kỳ cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng lãi suất tácđộng làm thay đổi cầu tiền tệ trong dân cư, và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát. Thật vậy, khi có lạm phát. Ngân hàng nhà nước sẽ tăng lãi suất tiền gửi. Chính vì thế người dân và các công ty sẽ đầu tư vào ngân hàng (gửi tiền vào ngân hàng) có lợi hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Như vậy cầu tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu giảm dẫn tới giá giảm. Nhưng chúng ta biết rằng in= ii + ir trong đó in là tỷ lệ lãi suất danh nghĩa, il: tỷ lệ lãi suất thực tế và ii là tỷ lệ lạm phát, do đó khi có lạm phát cao, áp dụng chính sách lãi suất ở đây chính là việc tăng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát (để duy trì lãi suất thực dương) qua đó mới tạođược cầu tiền danh nghĩa tương ứng với cầu tiền thực tế. Tóm lại khi lãi suất tiền gửi cao thì động viên được nhiều người gửi tiền vào NHTM và ngược lại. NHTM mua tín phiếu NHNN với lãi suất kinh doanh có lãi thì sẽ giảm được khối lượng tín dụng. Nếu lãi suất tiền (cho vay) cao sẽ làm nản lòng người vay vì kinh doanh bằng vốn vay NHTM không có lợi nhuận. Như vậy dùng công cụ lãi suất có thể tăng hoặc giảm khối lượng tín dụng của NHTM để đạt được mục đích của chính sách tiền tệ (ổn định tỷ lệ lạm phát). Tuỳ từng thời điểm mà chính sách lãi suất được áp dụng thành công trong việc chống lạm phát. Ở Việt nam đã áp dụng rất thành công chính sách lãi suất vào những năm cuối thập kỷ 80 trong việc giảm tỷ lệ lạm phát từ 3 con số xuống còn một con số do nền kinh tế ở nước ta lúc đó là nền kinh tế tuy đã mở cửa nhưng chưa mở hẳn, do đó chỉ có tác động trong nước đầu tư bằng Việt nam đồng chứ quốc tế ít đầu tư vào. Chính vì thế ngày nay không thể áp dụng chính sách lãi suất với tỷ lệ lãi suất rất cao để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến mối quan hệ giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài . Trong việc kiểm soát lạm phát đây là công cụ cổ điển, các nước ngày càng ít sử dụng hơn. Tuy đây là một công cụ rất quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát và huy động vốn cũng như cung cấp vốn. 5.5. Hạn mức tín dụng: Ngoài những công cụ cơ bản trên, ngân hàng nhà nước còn sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để điều hành, làm cho khối lượng tín dụng đối với NHTM không vượt quá mức cho phép để từ đó bảo đảm mức lạm phát đã được phê duyệt. Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTW có thể cung ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ. Đây là một chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp đến khối lượng tiền trung ương được cung ứng thêm (hay giảm bớt) đối với các NHTM. Khi hạn mức tín dụng giảm, dẫn tới cung tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm làm cho tổng cầu giảm và cuối cùng là giá giảm. Với mục tiêu ổn định đồng tiền và chống lạm phát được coi là mục tiêu số 1, thì công cụ hạn mức tín dụng là cần thiết. Song việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng cũng là vấn đề khó khăn không nhỏ cho các ngân hàng thương mại. Tiền gửi của nhân dân không thể không thu nhận hàng ngày hàng giờ. Nếu nhận tiền gửi mà không được cho vay thì chẳng khác nào có đầu vào mà không có đầu ra. Như vậy đầu ra của vốn huy động bị bế tắc bởi hạn mức tín dụng. Việc xác định hạn mức tín dụng là rất cần thiết, để thực hiện mục tiêu chống lạm phát. Song nó cũng có những mặt trái gây khó khăn cho NHTM. Cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn đó PHẦN II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NHẰM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT NHỮNG NĂM QUA Ở VIỆT NAM. 1. Giai đoạn 1986 - 1992 a. tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát Năm 1985, Gorbacher đó nên nắm chính quyền tại Liên xô, cùng với sự sụp đổ của các nước Đông Âu cũ,Việt Nam bị cắt giảm nguồn viện trợ từ nước ngoài và đến năm 1991 thỡ bị cắt hẳn. Do đó,nguyên vật liệu đầu vào như sắt thép, dầu hỏa, máy móc thiết bị….Việt Nam hoàn toàn phải mua với giá cao làm cho chi phí sản xuất tăng nhanh. Lạm phát chi phí đẩy xảy ra. Khi lạm phát chi phí đẩy xảy ra, càng đẩy các doanh nghiệp sản xuất gặp khó khăn và để hỗ trợ nền sản xuất trong nước, đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh, Chớnh phủ Việt Nam lại in thờm tiền làm tăng mức cung ứng tiền trong nền kinh tế lại dẫn đến lạm phát tiền tệ, điều đó càng đẩy tỉ lệ lạm phát lên cao. Đồng thời năm 1985, Việt Nam thực hiện cuộc cải cách giá, tiền lương, tiền mà đỉnh cao là sự kiện đổi tiền vào tháng 9 và lạm phát cũng bùng nổ ngay sau đó. Năm 1986 chúng ta đó rơi vào tỡnh trạng siờu lạm phátt với ba chữ số 775% vào năm 1986 trong khi đó tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,33%. Đến năm 1987 do thiên tai, sản lượng lương thực cuối năm giảm 3,5% và đầu năm 1988 một số địa phương miền Bắc bị đói, giá cả lên cao, lạm phát chi phí đẩy lại tiếp diễn. .Đứng trước tỡnh hỡnh đó, dân chúng tích trữ hàng lúa , lương thực, vàng và đô la càng nhiều và lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu giả tạo, giá cả tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát là 223,1%, mức tăng trưởng GDP chỉ là 3,78%. Từ năm 1989 đến năm 1991, lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn cũn khỏ cao với mức tăng 67% liên tiếp trong hai năm 1990 và 1991, phải từ năm 1992 trở đi tỡnh hỡnh mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995. Như vậy, trong giai đoạn này lạm phát xảy ra ban đầu là do chi phí đẩy, sau đó là do tăng mức cung ứng tiền , năm 1987 lại là lạm phát chi phí đẩy, tiếp tục sau đó lạm phát cầu kéo xảy ra. Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 Tăng trưởng(%) 2,33 3,78 5,1 8 0,1 6 8,6 Lạm phỏt(%) 748 223,1 394 34,7 67,4 67,6 17,6 Bảng tỉ lệ tăng trưởng và tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1986-1992 b. các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này Theo bảng trên chúng ta thấy tình hình kinh tế của nước ta từ năm 1988 đó có những bước khả quan hơn, lạm phát đó giảm từ mức siêu lạm phát xuống còn hai chữ số, đặc biệt từ năm 1992 giảm xuống 17,6% và đến năm 1993 tỉ lệ lạm phát giảm xuống một chữ số là 5,2%. Điều này cho thấy nước ta đó có những biện pháp tương đối có hiệu quả để kiềm chế và kiểm soát lạm phát cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . Chính sách về lãi suất:thực hiện chính sáh lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa-tỉ lệ lạm phát ), tức là nâng lãi suất tiết kiệm lớn hơn tỉ lệ lạm phát nhằm thu hồi lượng tiền trong lưu thông về. Lúc này cách giải quyết thất nghiệp ở nước ta là NHNN từng bước giảm dần la cho vay thông qua việc giảm dần la huy động từ 12% xuống 9% rồi 6%/năm; 1,4% xuống 0,9% rồi 0,85%/ tháng. Chính sách về tỉ giá hối đoái: NHNN có bước tiến quan trọng trong điều chỉnh tỉ giá hối đoái cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Tỉ giá hối đoái trước đây chỉ sử dụng cho mực đích kế toán chứ không phản ánh đúng các khoản chi phí thực tế. Việc áp dụng tỉ giá hối đoái thực tế đó làm cho người dân không còn tích trữ hàng húa , vàng, đô la mà bắt đầu tích lũy bằng đồng nội tệ. Từ năm 1990, NHNN đó cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ . Đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp với múc tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát . 2. Giai đoạn 1994-1998 Vào năm 1993 , mặc dù lạm phát đã giảm xuống một chữ số nhưng những tiến bộ vượt bậc đó đó không thể duy trì được và củng cố bằng những chính sách tài chính và chính sách tiền tệ thận trọng nên đến năm 1994 tỉ lệ lạm phát lại tăng lên mức 14,4%. a. Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát Tình hình kinh tế trong giai đoạn này đó có những thay đổi đáng kể , vì vậy lạm phát xảy ra đã phản ánh được hậu quả tất yếu của tình hình lúc bấy giờ. Trước hết , lạm phát xảy ra là do hiện tượng cầu kéo : Đến năm 1993, cùng với việc đầu tư nước ngoài tăng cao (tăng 85,6% so với năm 1992) là việc các hãng nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước , do đó cầu ngoại tệ tăng cao làm cho giá USD tăng, đồng tiền Việt Nam bị giảm giá từ 10.600 đồng/1USD vào năm 1993 đến 11.050đồng/1USD năm 1995. điều này tác động làm cán cân thương mại được cải thiện , do đó tổng cầu trong nền kinh tế tăng. Đồng thời năm 1998 Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được thông qua tương đối thông thoáng khiến cho đầu nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh . Chi tiêu của Chính phủ trong thời gian này cũng tăng mạnh, trong đó có chi thường xuyên và chi cơ bản. Cụ thể là: Cải cách chế độ tiền lương, trợ cấp đối với các đối tượng chính sách xã hội. Đồng thời trợ cấp cho các đối tượng bộ đội chuyển ngành và nghỉ, trợ cấp thôi việc cho một số cán bộ công nhân viên chức do một số cơ quan nhà nước đóng cửa và không thể thích ứng được với cơ chế thị trường đồng thời chi thường xuyên của ngân sách tăng nhanh. Cũng từ năm 1992-1994, ngân sách nhà nước chi cho đường dây cao áp 500KV chiếm phần lớn chi tăng thêm cho xây dựng cơ bản. Từ năm 1993-1995 đầu tư xã hội tăng mạnh, trong đó có đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho nền kinh tế mới phát triển. Tất cả những điều này đẩy đường tổng cầu lên cao, làm giá cả tăng cao. Lạm phát thời kỳ này xảy ra còn do chi phí đẩy : Vào thời kỳ này, giá cả một số mặt hàng được điều chỉnh như giá xi măng, giá điện, giá xăng, làm cho chi phí đầu vào tăng mạnh, cung giảm , đẩy giá cả lên cao, gây lên lạm phát chi phí dẩy. b. Các biện pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này: Trong giai đoạn này, các chính sách tiền tệ mà NHNN áp dụng để nhằm kiềm chế và kiểm soát lạm phát đều nhằm mục đích giảm mức cung tiền tệ . Cụ thể NHNN đã áp dụng một số các biện pháp sau đây: NHNN đã bán trái phiếu , tín phiếu 2000 tỷ VNĐ kỳ hạn 2-3 tháng mà người mua là các ngân hàng thương mại(NHTM) đồng thời cũng để khuyến khích các NHTM tích cực huy động vốn.. NHNN hạ mức tín dụng và kiểm soát chặt chẽ hạn mức tín dụng tái cấp vốn đối với các NHTM và hạn mức của NHTM đối với nền kinh tế . buộc các TCTD phải thực hiện dự trữ bắt buộc mở rộng, năm 1995 quy định tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền thanh toán được thống nhất vào một tài khoản, tỉ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho tất cả các TCTD là 10% cho các loại tiền gửi dưới một năm, và trong cơ cấu tiền gửi bắt buộc phải có 70% gửi tại NHNN vàcác TCTD phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc tại NHNN theo từng ngày, kiên quyết xử phạt đối với những TCTD không chấp hành theo quy định này. Tăng cường quản lý ngoại hối. NHNN điều hành tốt việc cung ứng tiền phục vụ cho mục tiêu mua bán ngoại tệ nên nhìn chung tỉ giá ngoại tệ ổn định, cầu giả tạo về ngoại tệ, vàng, một số mặt hàng khác giảm xuống làm cho nhiều mặt hàng giảm xuống, lạm phát được kiểm soát . nâng lãi suất chiết khấu làm giảm việc vay của các NHTM. Tất cả đều làm mức tăng cung tiền tệ bị hạn chế mạnh mẽ và lãi suất tăng lên, chi tiêu giảm, cầu giảm , giá cả giảm. Đồng thời NHNN cũng áp dụng một số biện pháp khác, nhờ vậy tốc độ lạm phát đó giảm xuống từ 12,7% năm 1996 xuống còn 4,6% năm 1997 và 3,65% năm 1998. 3. Giai đoạn 1999-2001 a. Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 làm cho nước ta chịu sức ép ngày càng tăng. Kinh tế trải qua hiện tượng giảm giá liên tục, sức mua giảm sút, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm , sản xuất trong nước rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hóa ứ đọng nhiều, tỉ lệ thất nghiệp ra tăng … Một trong những biểu hiện của sự suy giảm nền kinh tế là hiện tượng giảm phát. Vậy giảm phát là gì? Giảm phát là sự giảm giá liên tục của mức giá chung theo thời gian. *Tình hình kinh tế: - Giá cả thị trường có xu hướng giảm + Năm 1999 giá cả thị trường có nhiều diễn biến bất thường : giá cả liên tục giảm trong 8 tháng liền, từ tháng 3 đến tháng 12. Đặc biệt tháng 10 năm 1999 CPI giảm 0,8% so với tháng 12 năm 1998. Chỉ số giá lương thực tháng 10 năm 1999 sút giảm 10,5% so với tháng 12 năm 1998 , sự sụt giảm giá lương thực làm cho CPI chung hầu như không tăng ( do tỉ trọng của hàng lương thực trong rổ hàng hóa lớn). + Năm 2000, CPI cả năm giảm 0,6% so với năm 1999. + Sáu tháng đầu năm 2001 CPI vẫn giảm , CPI tháng 6/2001 giảm 0,3% so với tháng 6/2000 và giảm 0,7% so với tháng 12/2000. CPI giảm liên tục trong 3 tháng liên tiếp,tháng 3 giảm 0,7%, tháng 4 giảm 0,5%, tháng 5 giảm 0,2%. Kết quả là đến cuối năm 2001 nhờ nhiều nỗ lực , chúng ta đã đẩy được tỉ lệ lạm phát lên 0,8%. - Tình trạng ứ đọng sản phẩm, sản xuất cầm chừng xảy ra ở một số sản phẩm và một số khu vực, đặc biệt là khu vực nhà nước : + Số hàng tồn kho của Tổng công ty 90-91 trong 6 tháng đầu năm 1999 đó lên tới 60.000 tỷ đồng. + Theo báo cáo của IMF có đến 60% doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ, trong đó 16% là thua lỗ triền miên. Tình trạng các công ty tư nhân cũng không có gì khá hơn. Trong năm 1998 và 6 tháng đầu năm 1999 có hàng ngàn xí nghiệp thua lỗ phải đóng cửa, các xí nghiệp lớn thỡ hoạt động cầm chừng. + Tỉ lệ thất nghiệp năm 1999 ở Hà Nội là 10,3% và ở thành phố Hồ Chí Minh là 7,04%… - Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm : từ tốc độ tăng trưởng GDP năm 1996 là 9,34% xuống còn 8,15% năm 1997, 5,8% năm 1998, 4,8% năm 1999 và 6,75% năm 2000. *Nguyên nhân: - giá hàng nông sản giảm mạnh, đặc biệt là giá lương thực, cà phê, hạt tiêu, hạt điều làm giảm thu nhập của nông dân, ảnh hưởng tới sức mua hàng công nghiệp. Từ năm 1998 đến 6 tháng đầu năm 2001 chiư số giá lương thực liên tục giảm : năm 1999 giảm 7,8%, năm 2000 giảm 7,9%, 6 tháng đầu năm 2001 giảm 5,7%. Giá những hàng hóa trên giảm không chỉ làm cho CPI chung giảm mà nó còn gián tiếp làm cho sức mua và giá cả đầu vào các hàng hóa và dịch vụ khác giảm theo - Nhìn chung hàng húa và dịch vụ của Việt Nam chất lượng thấp, giá thành cao nên không có điều kiện cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, đặc biệt là hàng nhập khẩu trốn lậu thuế, do đó giá cả hàng hóa công nghiệp và dịch vụ đang có xu hướng giảm giá để có thể cạnh tranh được với hàng hóa nhập khẩu. - cơ cấu tăng trưởng kinh tế giữa khu vực công nghiệp và nông nghiệp là không hợp lý, làm cho thu nhập và theo đó là sức mua của nông dân, là bộ phận dân cư lớn nhất nước không tăng lên được . - tình trạng vốn ứ đọng ở các ngân hàng phản ánh người có tiền không muốn bỏ vốn vào đầu tư. Nợ khó đòi và nợ quá hạn ở các ngân hàng lớn. - đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh. Tốc độ giảm trung bình khoảng 24%/ năm trong giai đoạn 1997-2000 - tỉ lệ tăng trưởng giá trị xuất khẩu giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á . - trong khi nước ta đang duy trì ổn định tỉ giá thì các đồi tác thương mại trong khu vực phá giá đồng tiền làm cho nhiều mặt hàng trong nước đắt hơn hàng ngoại, chúng ta lâm vào thế cạnh tranh không thuận lợi so với bên ngoài. - hậu quả của hiệu ứng lây lan do suy thoái và giảm phát khu vực. - sự chậm trễ trong việc cải tiến những chính sách vĩ mô của Chính phủ , làm cho nước ta đạt được ít kết quả trong cạnh tranh. Vai trò điều tiết của nhà nước còn rất nhiều hạn chế. * Sử dụng chính sách tiền tệ Nếu lấy cuối năm 1997 làm mốc thì NHNN liên tục cắt giảm trần lãi suất cho vay. Năm 1999, NHNN 5 lần điều chỉnh lãi suất cho trung và dài hạn từ 1,25%/ tháng xuống còn 0,85%/ tháng, 4 lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ 1,1%/ tháng xuống còn 0,55/ tháng, 2 lần điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng từ mức 7% xuống còn 5%. Năm 2000, NHNN bỏ lãi suất trần, chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản, tạo điều kiện cho cung- cầu về vốn theo cơ chế thị trường và các NHTM chủ động hơn trong kinh doanh. Ngày 24/5/2001 TTCP đó ban hành Nghị quyết số 05/NQ-CP quy định lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giảm xuống còn 5,4%/ năm. Riêng lãi suất cho vay ngân hàng phục vụ người nghèo đồi với khu vức III là 5,4%/năm và đối với khu vực khác là 6%/năm . Lãi xuất tiền gửi của hệ thống ngân hàng cũng liên tục giảm xuống đến mức thấp nhất từ trước đến nay. Chính phủ và NHNN ban hành các văn bản nhằm nới lỏng các điều kiện vay vốn cho khu vực nông thôn Cùng với việc ngân hàng hạ lãi suất cho vay, thì một loạt các tỉnh và thành phố dành một phần vốn ngân sách của mình hỗ trợ vay vốn ngân hàng cho một số dự án, một số doanh nghiệp, một số chương trình kinh tế trọng điểm của địa phương… 4. Giai đoạn 2002 đến nay Tình hình kinh tế năm 2002 có nhiều sự khởi sắc mới , nhờ có sự cố gắng , nỗ lực của các nghành, các cấp năm 2002 chúng ta đó đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế . Mặc dù năm 2002 tình hình kinh tế thế giới cú nhiều khó khăn, nhưng nước ta vẫn đạt tỉ lệ tăng trưởng kinh tế là 7,04%, tỉ lệ tăng trưởng cao thứ hai trong khu vực Châu á chỉ sau có Trung Quốc(8%), các chỉ tiêu kinh tế khác chúng ta hầu hết đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Lạm phát trong năm 2002 là 4%, một tỉ lệ lạm phát chấp nhận được mặc dù cao hơn so với mục tiêu 35 của chúng ta đó đề ra. Tình hình giá cả đầu năm 2002 của chúng ta đó tăng lên tương đối nhanh, 6 tháng đầu năm giá cả đã tăng 2,9%, khi đó rất nhiều nhà kinh tế đã lo ngại rằng nếu chúng ta không kiểm soát được lạm phát thì rất có thể tỉ lệ lạm phát của nước ta sẽ lên tới 6%. Trước tình hình đó nhà nước đã có những chính sách nhằm ổn định giá cả trên thị trường một cách hợp lý , nhờ đó, đến cuối năm tỉ lệ lạm phát của chúng ta chỉ là 4%. Hơn hai tháng đầu năm 2003, tình hình kinh tế , chính trị trên thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là sự kiện Mỹ chủ trương lật đổ chính quyền đương thời để lập nên một chính quyền mới ở Irắc, nguy cơ một cuộc chiến tranh vùng vịnh xảy ra , đó khiến cho tình hình thế giới rơi vào tình trạng hầu hết các mặt hàng trên thế giới đều tăng cao. Đặc biệt là giá xăn dầu, giá vàng tăng mạnh. Một sự kiện xảy ra trong thời gian vừa qua đó là việc một số cửa hàng xăng dầu ở các thành phố lớn đã đóng cửa không bán xăng cho người tiêu dùng, đó chính là dấu hiệu của sự đầu cơ, có thể gây những ảnh hưởng bất lợi cho nền kinh tế . Trước tình hình đó, Bộ thương mại đó cú những chấn chỉnh kịp thời yêu cầu tât cả các cửa hàng xăng dầu phải mở cửa bán hàng trở lại và xử phạt các cửa hàng đã đóng cửa bán hàng trong khi vẫn có xăng trong cửa hàng. Giá vàng cũng tăng mạnh, thậm chí có ngày trong một buổi sáng giá vàng tăng ba lần. Trước tình hình đó, nguy cơ giá cả tăng cao rất đễ xảy ra, thực tế trong hai tháng đầu năm 2003 giá cả các mặt hàng của chúng ta đã tăng 3%,vì vậy có nhiều người lo ngại là chúng ta không thể đạt được mục tiêu về lạm phát đó đề ra là tỉ lệ lạm phát không quá 5%. Hiện tại, giá dầu và giá vàng, giá rất nhiều mặt hàng khác trên thế giới vẫn tiếp tục tăng, ở nước ta giá vàng còn cao hơn trên thế giới , vì vậy trong những ngày vừa qua chúng ta vẫn tiếp tục nhập vàng về để tìm cách ổn định thị trường vàng trong nước . Việc giá cả tiếp tăng trong thời gian tới là điều không tránh khỏi , vì vậy Chính phủ cần thiết phải đưa ra được những chính sách nhằm mục đích có thể kiểm soát được tình hình lạm phát hiện nay. 5. Đánh giá tình hình kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. a Những thành công Trong giai đoạn 1986-1993, nhờ những áp dụng các công cụ của chính sách tiền tệ và chính sách tài chính một cách hợp lý chúng ta đã từ việc không kiểm soát được siêu lạm phát sang hoàn toàn kiềm chế và kiểm soát được nó. Từ tỉ lệ siêu lạm phát 775% năm 1986 xuống tỉ lệ lạm phát 5,2% năm 1993 quả là một kỳ tích, điều đó đó thể hiện chính sách đúng đắn của nhà nước trong việc tìm kiếm biện pháp kiểm soát lạm phát . Trong giai đoạn 1994-1998, lạm phát bùng phát trở lại mức 14,4% năm 1994,trước tình hình đó, NHNN đã thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm làm giảm mức cung tiền, nhờ đó mà tỉ lệ lạm phát đã giảm , đặc biệt là trong giai đoạn 1996-1998 các công cụ này phát huy tác dụng, tỉ lệ lạm phát đã giảm từ 12,7% năm 1996 xuống còn 4,6% năm 1997 và 3,6% năm 1998. Trong giai đoạn 1999-2001 chúng ta lại rơi vào tình trạng giảm phát, giá cả liên tục giảm . Do vậy, chúng ta đã thực hiện các chính sách nhằm kích cầu và tăng mức cung ứng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường . Và kết quả đạt được sau khi đã thực hiệ các biện pháp trên là: đã chặn được giảm sút về tăng trưởng kinh tế ; mức tổng cầu đã tăng lên đáng kể, đầu tư cho phát triển kinh doanh đã được phục hồi nhanh: năm 2000 đã tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội lên 14,6% so với năm 1999;chi tiêu của Chính phủ thể hiện qua ngân sách nhà nước cũng tăng lên rõ rệt; nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên khá nhanh. Nếu 6 tháng đầu năm 1999 khi chưa thực thi chính sách thì tổng mức bán lẻ và dịch vụ chỉ tăng 1,5% thì năm 2000 chỉ tiêu này là 9,1%; Xuất khẩu đã tăng từ 2% năm 1998 lên 23,3% năm 1999 và 25% năm 2000, năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 15,1 tỷ đô la tăng 45% so với năm 2000; tình trạng ứ đọng hàng hóa , không tiêu thụ được trong năm 1998 đã được đẩy lùi; sản xuất có bước chuyển biến tích cực cả trong công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ ; vốn đầu tư nước ngoài có dấu hiệu phục hồi, năm 2000 có vốn đăng ký là 1,973 tỷ USD tăng so với 1,568 tỷ USD năm 1999, năm 2001 tổng số vốn đăng ký đó tăng lên con số 3 tỷ USD; tình trạng vốn ứ đọng trong các ngân hàng đó phần nào được giải quyết. Năm 2002 đến nay được coi là một năm khá thành công trong tất cả các lĩnh vực của đất nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tất cả các nghành đều có mức tăng cao, trong đó phải kể đến ngành dịch vụ mà đặc biệt là ngành du lịch. Chúng ta cũng đã kiểm soát được lạm phát ở mức 4%. b. Hạn chế và nguyên nhân Mặc dù, nhìn một cách tổng thể trong thời gian vừa qua chúng ta đã có thể kiềm chế và từng bước kiểm soát lạm phát , nhưng bên cạnh đó các chính sách của chúng ta vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định. Trong giai đoạn 1986-1993 chúng ta đã thực thi các chính sách tiền tệ và chính sách tài chính một cách có hiệu quả , song chúng ta cũng phải thừa nhận là sau đó chúng ta đó không thực hiện các chính sách đó một cách thận trọng và phù hợp với tình hình mới Và hậu quả lạm phát lại bùng nổ trở lại vào năm 1994. Trong giai đoạn 1999-2001, việc thực hiện biện pháp kích cầu đó mang lại nhiều kết quả tốt đẹp, xu hướng phát triển là tích cực, song chưa thực sự vững chắc, nền kinh tế còn bộc lộ nhiều tồn tại và yếu kém: đà sút giảm kinh tế đó chặn lại được , nhịp tăng lên khá nhưng vẫn cũn thấp hơn mức tăng trưởng bình quân trong 10 năm qua; mức thu nhập và tiêu dùng của dân cư còn thấp, chưa đủ tạo sức bật mới; môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện hơn nhưng chưa được lành mạnh một cách thực sự; lãi suất tiền gửi giảm song tiền gửi vẫn tăng ,người dân vẫn không muốn tăng tiêu dùng và đầu tư, kích cầu tiêu dùng đạt kết quả còn hạn chế . Một số nguyên nhân của những hạn chế trên : trước hết đó là do bộ máy quản lý còn kém hiệu quả; vai trò điều tiết của nhà nước còn nhiều hạn chế: chưa cung cấp những thông tin cần thiết về diễn biến cung cầu trên thị trường nội địa và quốc tế, dẫn đến sản xuất nhiều khi còn tự phát, không gắn với thị trường . các biện pháp nới lỏng tiền tệ kích cầu diễn ra trong thời kỳ đang chiếm lĩnh kỷ cương lành mạnh hóa các NHTM nên các NHTM tỏ ra thận trọng khi cho vay, người dân đa số có xu hướng tiết kiệm để chi tiêu vào việc gì đó chứ không phải nhằm mục đích đầu tư. PHẦN III: GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHẠT Ở VIỆT NAM Một số biện pháp góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam Về chính sách tiền tệ : mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng nội trên cơ sở kiểm soát lạm phát . Chúng ta đều biết vấn đề quan trọng là kiểm soát lạm phát chứ không phải triệt tiêu nó vì tỉ lệ lạm phát vừa phải sẽ có những tác động tích cực lên nền kinh tế. Trách nhiệm này thuộc về NHNN, thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ của mình NHNN sẽ phải cố gắng điều tiết mức cung tiền cho hợp lý. Vì vậy vấn đề nâng cao trình độ của các nhà hoạch định chính sách cũng rất quan trọng. Về chính sách tài khóa : đối với nước ta hiện nay thì vấn đề đặt ra là phải kiện toàn bộ máy nhà nước, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên của Chính phủ , trên cơ sở đó làm giảm bội chi ngân sách nhà nước. Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ những giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô như sau: - Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ để ổn định lãi suất nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trường hợp có nhiều yếu tố bất lợi làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vượt khỏi tầm kiểm soát, cần áp dụng kịp thời các giải pháp thắt chặt tiền tệ trên cơ sở sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát tín dụng, đồng thời tiếp tục sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong đó lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được điều chỉnh tăng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường để phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ thận trọng và thúc đẩy các tổ chức tín dụng tập trung huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. - Tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt bám sát cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, đảm bảo tỷ giá danh nghĩa bám sát tỷ giá thực, không để xảy ra các cú sốc đột biến về tỷ giá; tiếp tục phát triển các công cụ phòng chống rủi ro trên thị trường ngoại hối; phối hợp việc điều hành tỷ giá và điều hành lãi suất nhằm đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất VND – tỷ giá – lãi suất ngoại tệ tránh gây tác động xấu thị trường ngoại hối đối với phát triển kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần củng cố hoạt động hệ thống ngân hàng thương mại an toàn, lành mạnh, hiện đại và bền vững hơn thông qua việc sửa đổi các quy định về mở văn phòng, chi nhánh, về phân loại nợ đọng và trích lập rủi ro tín dụng… - Sử dụng công cụ hạn ngạch, thuế… để điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu mặt hàng có thể gây biến động giá trong nước như gạo, sắt thép, phân bón, chất dẻo…; đồng thời thực hiện tốt dự trữ các mặt hàng trên để can thiệp thị trường trong nước khi xảy ra những biến động do thiên tai, và giá cả thế giới lên cao. - Thực hiện tốt công tác kiểm tra, quản lý thị trường, hệ thống phân phối để tránh đầu cơ, đẩy giá lên cao, đồng thời tiếp tục chấn chỉnh, sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh, ban hành và tổ chức thực hiện quy chế kinh doanh đối với một số vật tư, hàng hoá quan trọng như xi măng, sắt thép, phân bón, điện, than, thuốc chữa bệnh… để khắc phục tình trạng đầu cơ, lũng đoạn thị trường… - Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc. - Đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá NHNN, nâng cao tính độc lập của NH trung ương trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền tệ và sự bền vững của hệ thống ngân hàng còn nhiều rủi ro; đẩy mạnh cải cách tài chính công theo hướng phân công, xác định trách nhiệm của các cơ quan, trách nhiệm giải trình đảm bảo công khai minh bạch; đẩy mạnh xã hội hóa kinh tế, xã hội. Ngoài ra, phải  phát triểnthị trường vốn, tài chính phục vụ hiệu quả đầu tư phát triển, tăng cường kiểm soát chặt chẽ đầu tư gián tiếp, khuyến khích đầu tư dài hạn. … - Việt Nam đang tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo xu hướng hội nhập, thực hiện các cam kết của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, AFTA, cam kết gia nhập WTO, nên thị trường trong nước diễn biến theo sát thị trường quốc tế. Trong quá trình đó, Việt Nam được hưởng lợi từ giá cả xuất khẩu các mặt hàng có khối lượng lớn, thì cũng bị ảnh hưởng của giá cả biến động tăng của những mặt hàng nhập khẩu. Thời gian tới đây giá cả thị trường thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp khó lường trước. Đó là tính tất yếu khách quan của các giao dịch buôn bán trên thị trường quốc tế. Vì vậy Việt Nam cần tôn trọng tính thị trường, tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, Chính phủ không nên làm thay thị trường. Đặc biệt là không nên sử dụng các biện pháp có tính bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước như: cấp bù lỗ, cấp bù lãi suất, khoanh nợ,… khi mà thị trường trong nước có tính thông thương với thị trường thế giới. Cơ chế bao cấp qua giá một số mặt hàng có tính theo sát thị trường thế giới sê làm méo mó giá cả trong nước, tạo điều kiện cho tình trạng xuất lậu qua biên giới, tác động tiêu cực đến ngân sách quốc gia, tác động gây tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Việc sử dụng biện pháp tài chính hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong dự trữ và thu mua nông sản phẩm càng làm gia tăng cơ chế xin cho, kẽ hở cho nhiều loại tiêu cực khác, trong khi người nông dân, người sản xuất không được hưởng lợi trực tiếp. Cơ chế quản lý giá và quản lý thị trường cũng cần linh hoạt và đổi mới phù hợp với tình hình của nền kinh tế nước ta hiện nay. - Lạm phát ở ta cũng do một nguyên nhân quan trọng là Ngân sách Nhà nước liên tục ở mức thâm hụt. Hầu như từ khi thống nhất đất nước đến nay, chưa bao giờ ngân sách đạt được cân bằng thu chi, đặc biệt trong những thời kỳ khủng hoảng kinh tế vĩ mô trước thập kỷ 90. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, thâm hụt ngân sách tăng dần, từ mức 0,13% GDP năm 1998 lên đến 3,23% năm 2001, sau đó giảm xuống, nhưng vẫn còn đứng ở mức khá cao, trên 2% trong vòng 2 – 3 năm gần đây. Như vậy, kiềm chế thâm hụt tài khóa sẽ góp phần đáng kể vào việc kiềm chế lạm phát và do đó, làm giảm bớt tầm quan trọng của chính sách thắt chặt tiền tệ. Dường như lâu nay ở ta có một quan niệm sai lầm và nguy hại rằng lạm phát chủ yếu bắt nguồn từ các cơn sốt giá nguyên nhiên liệu chiến lược đầu vào. Một số ít người thì tỉnh táo hơn đã nhắc đến sự tăng trưởng tín dụng mạnh để kích cầu trong những năm trước là một nguyên nhân khác của xu hướng lạm phát tăng cao trong những năm gần đây. Thế nhưng hầu như không ai đả động đến một nguyên nhân cũng rất quan trọng là thâm hụt tài khóa đó và đang ở mức khá cao như hiện nay. Từ nhận thức đầy đủ về nguồn gốc lạm phát này, có thể thấy chính sách kiềm chế lạm phát nhờ thắt chặt tín dụng và kiềm chế giá của các nguyên nhiên liệu đầu vào không cho tăng lên là chưa đủ, chưa thật thích hợp, thậm chí là có hại Để cho chính sách tiền tệ có hiệu lực trong việc kiềm chế lạm phát, có một số điều kiện tiên quyết. Đó là một thị trường tài chính được tự do hóa, một Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ và một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, tiến gần đến cơ chế thả nổi hoàn toàn. ở Việt Nam, 3 điều kiện này chưa (hoàn toàn) được xác lập. Chúng ta mới bắt đầu tự do hóa thị trường tài chính qua một số động thái, trong đó có việc xóa bỏ trần lãi suất, nhưng hoạt động trong các ngành tài chính và ngân hàng chưa hoàn toàn dựa trên các nguyên tắc thị trường. Ngân hàng Nhà nước, với tư cách là một Ngân hàng Trung ương, vẫn là một thành viên của Chính phủ và chịu nhiều chi phối từ đây. Cơ chế tỷ giá vẫn rất cứng nhắc, hầu như là gắn chặt giá đồng nội tệ với USD. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26854.doc
Tài liệu liên quan