KẾT LUẬN
Sau một thời gian nghiên cứu và tiến hành thực nghiệm đề tài, thu được những
kết quả sau :
1. Đã xác định rằng để tách cặn dầu ra khỏi nước và thu hồi có hiệu quả cao
cần phải sử dụng chất tẩy rửa.
2. Đã xác định thành phần cặn dầu gồm 0,068 % hàm lượng tạp chất cơ học +
cacbonit, 0,7% hàm lượng nước, 9,568% hàm lượng cặn cacbon condrason,
0,15% hàm lượng tro. Các thành phần này gây ảnh hưởng xấu tới nhiên liệu do
đó cần nghiên cứu phương pháp để xử lý.
3. Đã khảo sát các phương pháp khác nhau để tách cặn dầu :
Phương pháp để lắng, hiệu suất thu hồi cặn dầu lớn nhất khi thực hiện ở
nhiệt độ 600C : 91,12%.
Phương pháp sục khí, hiệu suất thu hồi cặn dầu lớn nhất khi thực hiện với
tốc độ sục khí là 1,5l/phút : 91,55%
Phương pháp sử dụng chất điện ly, hiệu suất thu hồi cặn dầu lớn nhất khi
thực hiện với chất điện ly là H2SO4 5% : 95,88%
Phương pháp sử dụng chất điện ly, có sục khí, hiệu suất thu hồi cặn dầu
lớn nhất khi sử dụng chất điện ly là H2SO4 5% và sục khí tốc độ
1,5l/phút : 97,18%
Từ đó, thấy rằng để tách tối đa cặn dầu, cần sử dụng chất tẩy rửa. Thực hiện
lắng tách có sử dụng chất điện ly là H2SO4 5%, sục khí với tốc độ 1,5l/phút và
thời gian 4h
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
55 trang | 
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 948 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Thu hồi cặn dầu từ hỗn hợp sau quá trình tẩy rửa bồn bể chứa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đường bộ, 
đường thuỷ, đường sắt, đường ống, xà lan, tầu chở dầu, ôtô xitec, tuyến 
ống dẫn dầu. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 26 HD1001 
Hình 1.4. Sơ đồ biểu diễn mối nguồn gốc phát sinh cặn dầu 
a. Sự tạo thành cặn dầu trong quá trình chế biến dầu mỏ 
 Trong quá trình chế biến dầu mỏ, phần cặn dầu tồn tại chủ yếu ở dạng dầu cặn 
FO hay bitum, trong đó bitum là loại sản phẩm nặng nhất thu được từ dầu mỏ 
bằng con đường chưng cất hay oxy hoá tất cả các loại cặn sinh ra trong quá trình 
chế biến dầu mỏ. Do vậy, có thể xem như quá trình chế biến dầu mỏ thành các 
sản phẩm khác nhau không sinh ra cặn dầu trực tiếp mà cặn dầu chỉ sinh ra trong 
quá trình vận chuyển tồn chứa dầu thô trước khi đưa vào chế biến. 
b. Sự tạo thành cặn dầu trong quá trình vận chuyển, tồn chứa dầu mỏ, xăng 
dầu thương phẩm trong hệ thống bồn bể chứa [1,2] 
 Trong quá trình vận chuyển và tồn chứa, phẩm chất của dầu mỏ cũng như các 
sản phẩm dầu có thể bị kém đi do mất các phần nhẹ (bay hơi), do nhiễm bẩn 
khác nhau trong khi nhập vào các phương tiện chưa tháo cặn và chưa rửa sạch, 
hoặc trong khi bơm chuyển tiếp các loại sản phẩm khác nhau trong cùng một 
đường ống, do lẫn nước, hoá nhựa dưới tác dụng của oxy không khí và nhiệt độ. 
 Cho dù là tồn chứa, vận chuyện dầu dưới hình thức nào đi nữa (đường bộ, 
đường sắt, đường thuỷ, tuyến ống) thì sau một thời gian nhất định, tuỳ theo 
phẩm chất các sản phẩm đó, thời gian, nhiệt độ tồn chứa vòng lưu chuyển mà 
hiện tượng tích tụ, lắng đọng ngày càng tăng. 
 Hai nguyên nhân chính làm xuất hiện cặn dầu trong quá trình tồn chứa và vận 
chuyển là do thiếu tính ổn định của nhiên liệu trong quá trình bảo quản và do 
Khai thác, chế biến 
Tầu chở dầu 
Các kho xăng dầu 
Trạm xăng dầu 
Cặn 
Cặn 
Cặn 
Bồn chứa dầu sáng 
Bồn chứa dầu FO 
Phương tiện vận 
chuyển, ôtô, 
xitec, 
Cặn 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 27 HD1001 
quá trình xuất nhập của nước, tạp chất cơ học lẫn theo sản phẩm dầu vào bồn bể 
chứa. 
 Sự ổn định của nhiên liệu trong quá trình tồn chứa 
 Trong bất cứ quá trình vận chuyển hay tồn chứa các sản phẩm dầu mỏ, tính 
chất ổn định của sản phẩm dầu mỏ là một chỉ tiêu rất quan trọng của nhiên liệu, 
nó biểu thị ở thành phần, tính chất luôn luôn cố định của nhiên liệu. Đây cũng 
chính là nguyên nhân tạo ra các lớp cặn dầu không mong muốn, bám dính trên 
các bề mặt bồn bể chứa đường ống hay tầu chở dầu. 
 Yêu cầu đề ra cho các loại nhiên liệu dầu mỏ đó không những được quy định 
bằng những điều kiện sử dụng chúng trong động cơ, mà bằng nhiều yếu tố sử 
dụng khác nữa, trước hết là những điều kiện bảo quản. Điều quan trọng nhất là 
phải làm sao cho từ lúc sản xuất ra nhiên liệu cho đến khi đem sử dụng vào động 
cơ, nhiên liệu vẫn giữ được các phẩm chất ban đầu của chúng, có nghĩa là sự ổn 
định về lý tính và hoá tính không được thay đổi trong suất quá trình vận chuyển 
và tồn chứa lâu dài. 
 Đối với nhiên liệu lỏng, sự ổn định về lý tính thể hiện ở sự cố định thành phần 
cất và áp suất hơi, muốn thế phải đảm bảo độ kín khít của phương tiện chứa 
đựng, không để mất những phần nhẹ. 
 Sự ổn định hoá học của nhiên liệu có nghĩa là khả năng giữa vững các chỉ tiêu 
chất lượng của chúng dưới sự tác động của các yếu tố bên ngoài khác nhau (như 
oxy không khí, nhiệt độ, ảnh hưởng xúc tác của kim loại, ánh sáng). Trong 
quá trình vận chuyển, vấn đề tiếp xúc giữa sản phẩm dầu với oxi không khí là 
vấn đề không thể tránh khỏi, và như vậy trong những điều kiện nhất định, sẽ xảy 
ra phản ứng oxy hoá của sản phẩm dầu. Kết quả của phản ứng oxy hoá dẫn đến 
các tính chất hoá lý của sản phẩm dầu sẽ bị thay đổi và chính điều đó sẽ làm cho 
phẩm chất của sản phẩm kém hẳn đi. Tốc độ oxy hoá, mức độ oxy hoá cũng như 
tính chất của các sản phẩm oxy hoá đều phụ thuộc vào các yếu tố dưới đây: 
 + Bản chất hoá học của chính loại sản phẩm đó, cụ thể là tính chất của các 
hợp chất hoá học có trong sản phẩm, hàm lượng của các hợp chất đó trong hỗn 
hợp và quan hệ của chúng với sự tác động của oxy trong không khí. 
 + Các điều kiện bên ngoài như nhiệt độ, áp suất và bề mặt tiếp xúc giữa sản 
phẩm với oxy. 
 + Có lẫn các chất có khả năng làm tăng nhanh hoặc giảm chậm quá trình oxy 
hoá. 
 Sự ổn định về hoá học của nhiên liệu chủ yếu được xác định bởi cấu tạo 
phân tử của chúng, trong cấu tạo phân tử có nhiều hydrocacbon chưa no thì tính 
ổn định kém, nhiên liệu bị oxy hoá và trùng hợp rất nhanh, tạo nên các chất 
nhựa và axit, đồng thời làm biến đổi luôn thành phần hoá học của chúng. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 28 HD1001 
 + Quá trình oxy hoá nhiên liệu (tạo thành nhựa) xảy ra dần dần. Có thể coi 
những sản phẩm ban đầu của quá trình oxy hoá chính là những peroxit. 
 Đây là những hợp chất kém bền vững, có khuynh hướng biến chủng nhanh. 
Yếu tố chủ yếu có ảnh hưởng nhất tới sự hình thành phản ứng bậc hai của các 
peroxit là nhiệt độ, tốc độ của quá trình tự phản ứng sẽ tăng nhanh nếu nhiệt độ 
tăng. Dưới tác động của nhiệt độ cao, áp suất cao và tác động của oxy không 
khí, sẽ xuất hiện nhiều nhựa, asphanten, axit và các sản phẩm của hiện tượng 
oxy hoá nặng hơn như cacben và cacboit không tan trong dầu. 
 Trong số tất cả các nhiên liệu dầu mỏ thương phẩm, đặc biệt chỉ có loại xăng 
chế tạo theo phương pháp cracking có chứa nhiều hydrocacbon không no và 
nhiều hợp chất kém bền vững khác có khả năng gây phản ứng oxy hoá, tạo nên 
những sản phẩm khác nhau có tính chất giống như nhựa. 
 Người ta chia các loại nhựa ra làm hai loại: Nhựa thực tế (hay nhựa hoà tan) 
và nhựa ẩn (là loại nhựa có thể tạo thành khi xăng bị oxy hoá trong quá trình tồn 
chứa). Loại nhựa ẩn chỉ hoà tan rất ít, còn phần lớn kết tủa, đóng cặn dưới đáy 
bể chứa và trong ống dẫn. Nhìn bề ngoài, các chất nhựa tồn tại từ thể lỏng loãng 
cho đến thể rắn và có màu từ vàng nhạt cho đến màu nâu sẫm. Trong giai đoạn 
đầu của quá trình tạo nhựa, do có hàm lượng không lớn lắm nên các chất nhựa 
hoà tan hoàn toàn trong nhiên liệu. Đến một giai đoạn nhất định nào đó của quá 
trình oxy hoá, tuỳ thuộc vào điều kiện tồn chứa, tính chất của các hỗn hợp không 
no có trong nhiên liệu và yếu tố khác nữa mà tính hoà tan của các chất nhựa sẽ 
giảm xuống tới mức chúng bắt đầu tách ra khỏi nhiên liệu. 
 Khuynh hướng tạo nhựa của các nhiên liệu phần lớn phụ thuộc vào nhiệt độ, 
bề mặt tiếp xúc với không khí và tác động của xúc tác kim loại và áng sáng. 
 Các hợp chất không phải là hydrocacbon có nhiều trong nhiên liệu được tạo 
thành trong quá trình oxy hoá nhiên liệu cũng ảnh hưởng tới hiện tượng tạo 
nhựa. Nếu trong nhiên liệu có các hợp chất lưu huỳnh và hợp chất nitơ thì sự tạo 
nhựa trong quá trình tồn chứa càng mạnh thêm. 
 Các sản phẩm của quá trình oxy hoá như peroxit và các chất nhựa có tính axit 
càng thúc đẩy quá trình oxy hoá. Các chất nhựa trung tính có tác dụng kìm hãm 
quá trình oxy hoá nhiên liệu. 
 Người ta đánh giá khuynh hướng tạo nhựa của các loại xăng ôtô trong quá 
trình tồn chứa lâu dài theo thời kỳ cảm ứng, có nghĩa là theo số phút không bị 
hấp phụ oxy của một mẫu thử xăng trong các điều kiện thí nghiệm (có nhiệt độ 
1000
0C và áp suất cao). 
 Ngoài những yếu tố đã kể trên, tác động xúc tác của kim loại, nhất là đồng, 
cũng làm ảnh hướng tới tính chất ổn định của xăng. Tác động này thể hiện dưới 
dạng quá tình oxy hoá khử giữa kim loại với các muối của nó và giữa các 
peroxit với các sản phẩm oxy hoá khác hoặc với chất chống oxy hoá. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 29 HD1001 
 Trong quá trình tồn chứa, phẩm chất của các loại nhiên liệu đều bị biến đổi rất 
nhiều. Cùng với lượng nhựa tăng lên trong quá trình tồn chứa, độ axit và màu 
sắc của nhiên liệu diezen cũng bị biến đổi. Đó là dấu hiệu đầu tiên của sự mất 
phẩm chất. Muốn giảm bớt sự tạo nhựa do tác động của không khí, tốt nhất nên 
tồn chứa các sản phẩm dầu sáng, đặc biệt là xăng, dưới một lớp bột cách ly bền 
vững hoặc dưới một lớp màng hoạt tính bề mặt. 
 Việc đánh giá tính chất ổn định của nhiên liệu trong quá trình tồn chứa dựa 
trên cơ sở xác định hiệu quả tác động của oxy không khí lên loại nhiên liệu đó 
trong điều kiện nhiệt độ cao, có chất xúc tác hoặc không có chất xúc tác. Hiệu 
quả đó thường thể hiện ở sự tạo nhựa, sự tạo các chất kết tủa và các sản phẩm ăn 
mòn hoà tan trong sản phẩm thí nghiệm. 
 Khuynh hướng tạo nhựa của nhiên liệu trong quá trình tồn chứa được biểu thị 
bằng chỉ số iốt và giai đoạn cảm ứng. 
 Cặn dầu sinh ra trong quá trình xuất, nhập 
 Ngoài ra, trong quá trình vận chuyển tồn chứa, dầu mỏ và các sản phẩm dầu 
thường bị lẫn nước cũng như bị nhiễm bẩn nhiều loại tạp chất cơ học như bụi, 
cát, gỉ sắt 
 Tại các mỏ dầu, dầu mỏ được để lắng cẩn then, mặc dù vậy một phần nước và 
tạp chất vẫn còn lẫn trong dầu đi vào đường ống và các bể chứa của nhà máy. Số 
lượng các tạp chất phục thuộc vào thế nằm của túi dầu trong tầng đất mỏvà 
phương pháp khai thác dầu mỏ. Trong quá trình tồn chứa dầu mỏ, phần lớn các 
tạp chất đọng lại trong bể chứa và trong bộ phận lắng bùn của thiết bị lắng. 
Những phần tử tạp chất nhỏ nhất có thể vẫn còn lại trong dầu dưới dạng huyền 
phù (đặc biệt là loại dầu mỏ có nhiều nhựa), rồi sau đó trong quá trình chưng 
cất, một phần tạp chất sẽ kết bám trên thành thiết bị và thành lò ống, đẩy nhanh 
quá tình tạo cốc của dầu mỏ. 
II.3. Thành phần của cặn dầu [2,8] 
 Tính chất và thành phần của cặn đáy trong bể phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác 
nhau như loại sản phẩm được tồn chứa, các điều kiện và thời hạn tồn chứa. 
 a) Cặn dầu mỏ. 
 Cặn trong các bể chứa dầu mỏ nguyên khai, xét về tính chất của nó thì gồm 
hỗn hợp các hợp chất hữu cơ và vô cơ. 
 Dầu mỏ như ta đã biết là một hỗn hợp nhiều hydrocacbon có phân tử lượng 
khác nhau. Trong thời gian tồn chứa tại bể, ở những điều kiện nhất định (áp suất, 
nhiệt độ), những hydrocacbon cao phân tử loại xêrêzin và paraffin dưới dạng các 
tinh thể chứa sẽ bắt đầu tác ra khỏi dầu mỏ, chúng có thể lẫn trong dung môi 
hoặc lắng xuống bể. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 30 HD1001 
 Đồng thời trong các cặn đáy tại các bể chứa dầu mỏ nguyên khai còn có lẫn 
các phần tử nham thạch từ lòng đất theo dầu mỏ chảy vào, cùng với nước và các 
tạp chất khác, các tinh thể paraffin do đông tụ thành những phức hệ riêng có 
đường kính tới 0,5 – 1mm nên lắng xuống đáy bể, ở đây chúng dần dần kết chặt 
với các tinh thể cát và các tạp chất khác nhau tạo thành một lớp cặn bền vững, 
gây hậu quả xấu cho việc sử dụng các bể chứa. Trong quá trình tồn chứa dầu mỏ 
tại các bể chứa, sau khi bơm chuyển hết dầu theo đường ống hoặc chuyển tải hết 
theo đường ống hoặc chuyển tới các wagon xitec ta sẽ thấy dưới đáy bể còn 
đọng lại chủ yếu là paraffin, cặn hắc ín và nhựa asphanten. 
 Cùng với cát, vảy gỉ sắt và các tạp chất cứng khác tạo thành một khối kết chặt. 
Phần cặn nào chưa kịp lắng kết chặt thì sẽ dễ dàng tan ra khi có dòng dầu mỏ 
mới phu tiếp vào nên xuất hiện khối lắng kết không đều dưới đáy bể như mức 
cặn lắng tại vùng có ống xuất. 
 Theo tài liệu của hai công ty quản lý đường ống dẫn dầu Tatarxki và Barkiaxki 
thì trong các bể chứa dầu mỏ dung tích là 5000m3 thì độ cao trung bình của lớp 
cặn trong 1 năm là 500 – 800mm. 
Bảng 1.3. Thành phần cặn trong bể chứa dầu mỏ 
Thành phần % khối lượng 
Nước 18 
Thành phần cơ học 12 
Parafin 21 
Dầu mỏ, các chất nhựa 49 
 b) Cặn nhiên liệu đốt lò ( FO ) 
 Nhiên liệu đốt lò (Fuel oil, viết tắt là FO) là sản phẩm của quá trình chưng 
cất, thu được từ phân đoạn dầu thô có nhiệt độ sôi trên 30000C. Tuy nhiên, nhiên 
liệu đốt lò cũng có thể nhận được từ phần chưng cất nhẹ hơn, hoặc từ phần cặn 
của các công đoạn chế biến sâu (cracking, reforming), hoặc được pha trộn với 
những thành phần nhẹ và sử dụng cho các lò đốt nồi hơi, cho động cơ diezen tàu 
thuỷ và các quá trình công nghệ khác Vì vậy, khái niệm nhiên liệu đốt lò (FO) 
cũng bao hàm các loại nhiên liệu nhẹ hơn, có nhiệt độ cất trung bình, màu hổ 
phách như nhiên liệu diezen, dầu hỏa thắp đèn khi chúng được sử dụng làm 
nhiên liệu đốt lò. 
 Nhiên liệu FO nặng hơn nhiên liệu DO và xăng. Do đó, quá trình lắng tách và 
đông tụ các hydrocacbon cao phân tử xuống đáy bồn bể chứa nhiên liệu FO xảy 
ra mạnh hơn. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 31 HD1001 
Bảng 1.4. Thành phần của cặn DO và FO ( thời gian tồn chứa là 5 năm ) 
Loại cặn Hàm lượng chất, % khối lượng 
Nước Tạp chất 
cơ học + 
cacboit 
Asphanten Nhựa Dầu mỡ Parafin 
DO 17.31 22.27 6.27 11.12 46.05 25.95 
FO 18.69 30.62 13.58 12.27 31.80 18.45 
 Ngoài ra, sản phẩm dầu càng nặng càng chứa nhiều hợp chất của nitơ, lưu 
huỳnh hoạt tính nên thúc đẩy hiện tượng ăn mòn điện hoá, gây phá huỷ thành và 
đáy thiết bị tồn chứa, tạo ra gỉ sắt và tạp chất cơ học nhiều hơn. Đồng thời đây 
cũng là nguyên nhân thúc đẩy quá trình tạo nhựa và asphanten trong nhiên liệu 
FO nhanh hơn so với các loại nhiên liệu khác. 
 Như vậy, trong cùng thời gian và điều kiện tồn chứa, phụ thuộc vào bản chất 
của nhiên liệu, nếu nhiên liệu càng nặng thì trong cặn càng chứa nhiều nhựa, 
asphanten, cacboit và tạp chất cơ học. 
 c) Các sản phẩm dầu sáng. [2] 
 Tính chất của các loại cặn đáy trong các bể chứa dầu sáng có khác đôi chút so 
với cặn đáy, ở đây nó bao gồm các sản phẩm ăn mòn và các tạp chất cơ học. Các 
sản phẩm ăn mòn nằm lẫn trong khối sản phẩm dầu dưới dạng các hạt cực nhỏ 
trong suất quá trình sử dụng bể. Trong đó các sản phẩm của quá trình oxy hoá 
chiếm chủ yếu (đặc biệt là trong các sản phẩm chế tạo bằng phương pháp xúc 
tác). 
 Cặn trong các bể chứa dầu nhờn cũng gồm các sản phẩm ăn mòn các tạp chất 
cơ học và loại nhũ tương lẫn trong nước. 
 d) Cặn gudron. 
 Cặn mazut là phần còn lại của dầu mỏ sau khi đã tách các phân đoạn các sản 
phẩm trắng (xăng, kerosene, gas-oil) bằng cách chưng cất ở áp suất thường. 
 Cặn gudron là phần cặn còn lại của dầu mỏ sau khi đã tách phân đoạn gasoil 
nặng bằng chưng cất ở áp suất chân không. Loại cặn này có nhiệt độ sôi lớn hơn 
5000
0C, gồm các hợp chất có số nguyên tử cacbon lớn hơn C41, giới hạn cuối 
có thể đến C80. 
 Nhóm chất dầu. 
 Nhóm chất dầu bao gồm các hydrocacbon có phân tử lượng lớn, tập trung 
nhiều các hợp chất thơm có độ ngưng tụ cao, cấu trúc hỗn hợp nhiều vòng giữa 
thơm và naphten, đây là nhóm hợp chất nhẹ nhất, có tỷ trọng xấp xỉ bằng 1, hoà 
tan trong xăng, n-pentan, CS2, nhưng không hoà tan trong cồn. Trong phân 
đoạn cặn, nhóm dầu chiếm khoảng 46%. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 32 HD1001 
 Nhóm chất nhựa (còn gọi là nhóm malten) 
 Nhóm này ở dạng keo quánh, gồm hai nhóm thành phần, đó là chất trung tính 
và các chất axit. 
 Các chất trung tính có màu đen hoặc nâu, nhiệt độ hoá mềm nhỏ hơn 1000 0C, 
tỷ trọng lớn hơn 1, dễ dàng hoà tan trong dung môi như xăng. Chất trung tính 
tạo cho nhựa có tính dẻo dai và tính kết dính. Hàm lượng của nó ảnh hưởng trực 
tiếp đến độ kéo dài của nhựa, chiếm khoảng 10 – 15% khối lượng của cặn 
gudron. 
 Các chất axit là các chất có nhóm – COOH, màu nâu sẫm, tỷ trọng lớn hơn 1, 
dễ hoà tan trong clorofrom và rượu etylic, chất axit tạo cho nhựa có tính hoạt 
động bề mặt. Khả năng kết dính của bitum phụ thuộc vào hàm lượng chất axit có 
trong nhựa, nó chỉ chiếm 1% trong cặn dầu mỏ. 
 Nhóm asphanten 
 Nhóm asphanten là nhóm chất rắn màu đen, cấu tạo tinh thể, tỷ trọng lớn hơn 
1, chứa phần lớn các hợp chất dị vòng có khả năng hoà tan mạnh trong cacbon 
disufua (CS2). Đun nóng ở 30000C không bị nóng chảy mà bị cháy thành tro. 
 Ngoài 3 loại chất chính nói trên, trong cặn gudron còn có những hợp chất cơ 
kim của kim loại nặng, các chất cacben, cacboit rắn, giống như cốc, màu sẫm, 
không tan trong các dung môi thông thường, chỉ tan trong pyridin. 
III. Tổng quan về chất điện ly. 
III.1. Mối quan hệ giữa độ tẩy rửa và điện thế Zeta. 
 Điện thế zeta là một đại lượng quan trọng để đánh giá độ bền vững của các hạt 
nhũ tương trong dung dịch chất tẩy rửa. Người ta thường xác định điện thế zeta 
của dung dịch chất tẩy rửa qua việc đo tốc độ điện di của dung dịch chất tẩy rửa 
đó. 
 Đối với chất tẩy rửa, thì độ tẩy rửa và độ điện di có quan hệ chặt chẽ với nhau. 
Khi dung dịch chất tẩy rửa có độ điện di lớn thì điện thế trên bề mặt của hạt nhũ 
cũng lớn hơn, và độ bền của các hạt nhũ trong dung dịch sẽ tăng, dẫn đến khả 
năng cuốn trôi cặn dầu của các hạt nhũ, và tăng độ tẩy rửa. 
 Theo các kết quả nghiên cứu, độ tẩy rửa tỉ lệ thuận với giá trị điện thế zeta, tức 
là điện thế zeta càng lớn (hệ nhũ càng bền) thì độ tẩy rửa của dung dịch càng lớn 
và ngược lại. Tuy nhiên, tẩy rửa bằng dung dịch chất tẩy rửa có hệ nhũ tương 
kém bền thì việc xử lý nước thải sau tẩy rửa sẽ hiệu quả và an toàn cho môi 
trường hơn, vậy nên tiến hành tẩy rửa với dung dịch chất tẩy rửa có hạt nhũ 
tương kém bền (có điện thế zeta từ 20mV đến 30mV). 
III.2. Ảnh hƣởng của chất điện ly đến điện thế zeta. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 33 HD1001 
 Trong hỗn hợp sau tẩy rửa dầu tồn tại ở hai dạng. Dạng thứ nhất là dầu tích tụ 
lại thành từng đám nổi lên trên. Dạng thứ hai chúng tồn tại là nhũ tương 
dầu/dung dịch chất tẩy rửa, các giọt dầu có kích thước rất nhỏ nằm lơ lửng trong 
dung dịch chất tẩy rửa. Nhũ tương dầu/ dung dịch chất tẩy rửa trong hỗn hợp 
khá bền vững và có độ ổn định cao. Khi hai giọt dầu tiến đến gần nhau, do các 
lớp vỏ ion lồng vào nhau, lực đẩy sẽ xuất hiện giữa các ion nghịch của bề mặt 
tiếp xúc tạo nên sự sắp xếp lại các ion đó trong không gian. 
 Như vậy thế của lớp điện tích kép, hay cụ thể là điện thế zeta có thể đặc trưng 
cho độ bền của nhũ tương. Khi đưa thêm vào hệ một chất điện ly, sự biến đổi 
nồng độ các chất phân tán, độ pH sẽ làm thay đổi điện thế zeta. 
 Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, độ ổn định của nhũ tương dầu/ dung dịch 
chất tẩy rửa nằm trong các vùng cực mà điện thế zeta lớn nhất. Mặt khác để phá 
đi độ ổn định của nhũ tương này thì độ pH phải nằm ở gần độ cách điện của giọt 
nhũ tương. 
 Giọt dầu trong vùng axit có điện tích bề mặt dương, giọt dầu trong vùng trung 
tính đến vùng kiềm có điện tích bề mặt âm. 
 Trong môi trường axit ở độ pH = 3 thì sự tăng của điện thế zeta khi tăng nồng 
độ chất đa điện phân nhỏ. 
 Trong môi trường trung tính pH = 7 và môi trường bazơ pH = 10 thì sự tăng 
nồng độ chất đa điện phân ion + làm tăng liên tục điện thế zeta. Nhưng để đạt 
đến điểm cách điện thì độ pH = 10 cần chất đa điện ly ion + lớn hơn. 
 Lớp đôi của giọt dầu được nén bởi số lượng ion sau sự cho thêm của chất điện 
ly và làm giảm bớt độ rộng của chất phân tán. Sự nén của lớp đôi điện cho phép 
giữ một khoảng cân bằng nhỏ của giọt dầu. Nếu sau sự nén của lớp đôi điện tích, 
khi có sự chạm tĩnh điện học đủ lớn và không có nhân tố ổn định tiếp theo thì 
quá trình đông tụ sẽ xảy ra. 
 Để chọn hoá chất phá nhũ tương dầu/dung dịch chất tẩy rửa ta cần xác định 
thế điện tích zeta của giọt dầu. Nếu thế điện tích zeta âm ta sẽ chọn chất hoạt 
động bề mặt ion dương làm chất kết tụ và ngược lại nếu thế điện tích zeta dương 
ta sẽ chọn chất hoạt động bề mặt ion âm là chất kết tụ. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 34 HD1001 
CHƢƠNG II: THỰC NGHIỆM 
I. Tách cặn dầu từ dung dịch chất tẩy rửa. 
I.1. Nguyên tắc. [14] 
 Tẩy rửa cặn dầu là quá trình xảy ra theo 2 cơ chế chính là hoà tan và cuốn trôi, 
cụ thể như sau : 
 Ban đầu khi dung dịch chất tẩy rửa tiếp xúc với bề mặt cặn dầu thì các phân tử 
dầu nằm sát bề mặt nhiễm bẩn sẽ bị hoà tan vào dung dịch chất tẩy rửa. Sau đó, 
các phân tử chất hoạt động bề mặt hấp thụ lên bề mặt cặn dầu, làm giảm sức 
căng bề mặt của chúng và làm giảm góc thấm ướt của cặn dầu với bề mặt cần 
tẩy rửa, và khi đó chỉ cần một lực tác động cơ học nhỏ cũng làm cặn dầu tách ra 
khỏi bề mặt rắn và nổi lên trên. Cặn dầu sau khi tách ra, chúng phân tán vào 
trong dung dịch chất tẩy rửa dưới dạng nhũ tương, khi cặn dầu tách ra và tăng 
lên, chúng sẽ tập hợp lại và nổi lên trên. 
 Quá trình hoà tan gồm hoà tan bằng dung môi hữu cơ và hoà tan bằng các 
mixen. Dung môi hữu cơ được sử dụng ở đây là dầu thông. Dầu thông được 
phân tán vào trong dung dịch chất tẩy rửa dưới dạng nhũ tương nhờ các chất 
hoạt động bề mặt. Khi các hạt nhũ tiếp xúc với phân tử cặn dầu, do cả hai đều là 
phân tử không cực nên dầu thông sẽ hoà tan các phân tử cặn dầu. Khi dung dịch 
chất tẩy rửa đạt đến nồng độ mixen tới hạn thì trong dung dịch chất tẩy rửa xuất 
hiện các mixen, đầu ưa nước sẽ hướng ra ngoài còn đầu kị nước sẽ quay vào 
trong. Khi các mixen tiếp xúc với các phân tử dầu thì các phân tử dầu sẽ hội 
nhập vào trong các mixen và xảy ra quá trình hoà tan hoá. 
 Hai quá trình hoà tan này không xảy ra lần lượt mà xảy ra đồng thời và hỗ trợ 
nhau. 
 Trong đồ án này, tôi khảo sát hiệu suất tách cặn dầu trong các điều kiện khác 
nhau sau đây: 
 Tách cặn dầu bằng phương pháp lắng có gia nhiệt từ 400C – 800C 
 Tách cặn dầu bằng phương pháp lắng có sục khí 
 Tách cặn dầu bằng phương pháp lắng dùng chất điện ly 
 Tách cặn dầu bằng phương pháp lắng có sục khí, có chất điện ly 
I.2. Hoá chất và dụng cụ. 
I.2.1. Hoá chất 
 Cặn dầu FO lấy từ kho xăng dầu Đức Giang 
 Chất tẩy rửa BK 
 Chất điện ly (NH4)2SO4, H2SO4, Na2SO4 
 Nước cất 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 35 HD1001 
I.2.2. Thiết bị và dụng cụ 
Dụng cụ: 
 1 cốc thuỷ tinh dung tích 200ml 
 1 ống đong dung tích 100ml 
 1 phễu chiết dung tích 200ml độ chia chính xác đến 0,5ml 
 Cân phân tích, chính xác đến 3 chữ số sau dấu phẩy 
Thiết bị: 
 Hệ thống máy khuấy: cánh khuyâý có đường kính dk = 4cm có bộ phận 
điều chỉnh tốc độ 0 – 2000 vòng/ phút 
 Máy thổi khí có lưu lượng thổi khí từ 0 – 3000ml/ phút, thiết bị đo lưu 
lượng, van điều chỉnh lưu lượng, bộ phận phân phối không khí 
 Hộp ổn nhiệt, có điều chỉnh nhiệt độ 
I.3. Cách tiến hành. 
 Đặt cốc thuỷ tinh 200ml lên cân phân tích, trừ bì sau đó cho 20g cặn dầu vào 
cốc (sai số trong khoảng 0,01g). 
 Pha hỗn hợp chất tẩy rửa (CTR) đến nồng độ Mixen tới hạn (3%): Dùng pipet 
lấy 3ml chất tẩy rửa cho vào cốc có dung tích 200ml, cho 97ml nước cất vào 
cốc. Khuấy đều hỗn hợp này. 
 Dùng ống đong lấy 100ml chất tẩy rửa đã pha cho vào cốc thuỷ tinh đã chứa 
cặn dầu ở trên. 
 Dùng máy khuấy để khuấy hỗn hợp CTR và cặn dầu đã pha được ở trên với 
tốc độ 600 vòng/ phút trong vòng 30 phút. Sau đó, gạt hết cặn dầu còn bám dính 
trên cánh khuấy. 
 Hỗn hợp sau khi khuấy được rót vào phễu chiết 200ml. 
 Tiến hành xác định lượng cặn dầu lắng tách trong những điều kiện khác nhau 
sau đây. 
I.3.1 Khảo sát hiệu suất tách theo nhiệt độ. 
 Sau khi tiến hành các bước như trên để thu được hỗn hợp CTR và cặn dầu, ta 
đặt phễu chiết vào hộp ổn nhiệt, sau đó tiến hành gia nhiệt từ 40 – 900C để khảo 
sát khả năng lắng tách dầu ở tại những nhiệt độ khác nhau. 
I.3.2 Khảo sát hiệu suất tách theo tốc độ sục khí khác nhau. 
 Cũng tiến hành tương tự như trên, nhưng ta tiến hành khảo sát tốc độ gia nhiệt 
ở nhiệt độ thường, chỉ thay đổi tốc độ sục khí vào hỗn hợp CTR và cặn dầu. 
I.3.3. Khảo sát hiệu suất tách khi sử dụng các chất điện ly khác nhau. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 36 HD1001 
Sau khi tạo hỗn hợp chất tẩy rửa và cặn dầu. Dùng ống đong lấy 10ml chất điện 
ly rót vào hỗn hợp trên 
Dùng đũa thuỷ tinh khuấy đều nhẹ cho chất điện ly phân bố đều vào hỗn hợp sau 
đó tiến hành ổn nhiệt, sục khí khảo sát sự ảnh hưởng của chúng đến quá trình 
lắng tách. 
I.3.4. Khảo sát hiệu suất tách khi sục khí và sử dụng các chất điện ly khác 
nhau. 
 Tiến hành tương tự như trường hợp I.3.3 và có sục khí 
Sau các bước a,b,c hỗn hợp trong phễu chiết phân tách thành 2 lớp: 
Phân lớp phía trên: cặn dầu, riêng đối với trường hợp I.3.3 và I.3.4 phân lớp phía 
trên còn 1 phần nhỏ chất điện ly lẫn vào. 
Phân lớp phía dưới: hỗn hợp chất tẩy rửa và phần rất nhỏ cặn dầu, riêng với 
trường hợp I.3.3 và I.3.4 phân lớp phía dưới còn có chất điện ly. 
 Ta tiến hành chiết lấy phần cặn dầu vào cốc inox 50ml đã cân để xác định khối 
lượng mcốc, với trường hợp I.3.3 và I.3.4 sau khi đã chiết phân lớp dưới ta dùng 
50ml nước cất đã đun nóng tới 600C để rửa hết lượng chất điện ly còn dư. 
 Gia nhiệt cốc đựng cặn dầu đã tách ở 1100C đến khối lượng không đổi, sau đó 
để nguội ở nhiệt độ phòng rồi đem cân để xác định khối lượng cặn dầu đã tách 
được. 
 Sơ đồ các thí nghiệm được minh hoạ chi tiết ở các hình dưới đây: 
Hình 2.1. Khuấy trộn hỗn hợp chất tẩy rửa và cặn dầu 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 37 HD1001 
Hình 2.2. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất quá trình lắng tách 
cặn dầu 
II. Xác định thành phần cặn dầu bằng phƣơng pháp hoá học. 
 Đối tượng nghiên cứu là cặn dầu FO được lấy từ kho xăng dầu Đức Giang. Sơ 
đồ xác định thành phần cặn dầu được đưa ra ở hình 2.3 
Hình 2.3. Sơ đồ tách các thành phần trong cặn dầu 
II.1. Chƣng cất tách nƣớc 
 Tiến hành theo TCVN 2692 – 1995 và hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn 
ASTM D95 – 90. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 38 HD1001 
II.1.1. Nguyên tắc 
 Đun nóng mẫu thử trong bộ cất có sinh hàn hồi lưu với dung môi không tan 
trong nước và dung môi đó cùng được cất ra với nước có trong mẫu. Dung môi 
ngưng tụ và nước liên tục được tách ra trong ống ngưng, nước lắng xuống trong 
phần chia độ của ống hứng, còn dung môi chảy ngược lại bình cất. 
 Dung môi – chất mang lỏng : có thể sử dụng dung môi hydrocacbon bất kỳ 
không chứa nước và có nhiệt độ sôi trong khoảng 100 – 2000C (không dùng 
dung môi thơm vì có khả năng tách các hợp chất asphanten) 
II.1.2. Dụng cụ và hoá chất 
Bình cất bằng thuỷ tinh dung tích 500ml, loại cổ ngắn và có khớp nối phù hợp 
để giữ được ống hồi lưu của ống ngưng ; 
Bếp điện : nguồn gia nhiệt 
ống ngưng thuỷ tinh được chia độ, có kích thước phù hợp với lượng nước chứa 
trong mẫu thí nghiệm, chọn loại ống ngưng có dung tích 25ml, mỗi vạch chia là 
0,2ml. Nếu lượng nước thu được lớn hơn 25ml, thì nên sử dụng ống ngưng 25ml 
có khoá để tháo phần nước dư chảy vào phần ống đong có chia độ ; 
ống hồi lưu, ống ngưng thẳng, được làm lạnh bằng nước có chiều dài 400ml 
xylen – ISO 5280 – 1979 
II.1.3. Quy trình tiến hành 
+ Cân 100g mẫu với độ chính xác là 0,1g, cho vào bình cất rồi thêm 100ml dung 
môi xylen. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 39 HD1001 
1. ống ngưng 2. ống hứng 
3. Bình cất thuỷ tinh 4. Bếp điện 
Hình 2.4. Sơ đồ thiết bị chưng cất xác định hàm lượng nước 
+ Lắp các chi tiết của thiết bị như hình 2.2 làm kín tất cả các chỗ nối hơi và chất 
lỏng, ống hồi lưu và ống ngưng cần được làm sạch bằng hoá chất để đảm bảo 
rằng nước hoàn toàn chảy xuống đáy ống ngưng. Nhét một miếng bông xốp vào 
đầu ống sinh hàn hồi lưu để ngăn sự xâm nhập hơi ẩm của môi trường. Cho 
nước làm lạnh chảy tuần hoàn trong ống hồi lưu. 
+ Tăng nhiệt cho bình cất, điều chỉnh tốc độ sôi sao cho phần cất ngưng tụ chảy 
xuống ống ngưng với tốc độ 2,5 giọt/ giây. 
+ Cất liên tục cho đến khi không nhìn thấy nước bám ở bất kỳ phần nào của thiết 
bị trừ ống ngưng và thể tích nước của ống ngưng không thay đổi trong 5 phút. 
+ Khi phép xác định nước kết thúc, để nguội ống ngưng đến nhiệt độ phòng. 
Dùng đũa thuỷ tinh gạt tất cả những giọt nước còn dính ở thành ống ngưng chảy 
xuống lớp nước ở đáy ống ngưng. Đọc thể tích nước trong ống ngưng theo thang 
chia độ của ống. 
II.1.4 Tính toán kết quả 
 Hàm lượng nước có trong cặn dầu (%kl) được tính như sau: 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 40 HD1001 
 % .100%
om
W
M
Trong đó: 
 mo: là khối lượng nước trong ống ngưng (g) 
 M: khối lượng cặn dầu ( 100g ) 
Lặp lại 3 lần thí nghiệm và kết quả đối với mẫu cặn dầu là giá trị trung bình của 
3 lần đo. 
II.2. Xác định các tạp chất cơ học và cacbonit bằng phƣơng pháp trích ly 
Thực hiện theo tiêu chuẩn ASTM D473 – 81. 
II.2.1. Định nghĩa 
 Hàm lượng tạp chất cơ học và cacbonit của cặn dầu là phần trăm khối lượng 
của các hợp phần không tan trong bất cứu dung môi nào trong ác điều kiện thí 
nghiệm. 
II.2.2. Nguyên tắc 
 Mẫu nghiên cứu được chiết nóng với n-heptan, sau đó những chất không tan 
chủ yếu là các tạp chất asphanten, cacbonit và tạp chất cơ học được tách ra bằng 
cách lọc. Chúng được chiết rửa với n-heptan nóng cho đến khi sạch hết vết dầu 
mỡ rồi sau đó đem hoà tan trong benzene nóng. Phần không tan chính là 
cacbonit và tạp chất cơ học. Làm khô dung môi và sấy đến khối lượng không 
đổi. 
II.2.3. Dụng cụ và hoá chất 
Bộ chiết soxlet 200ml, bếp cách cát, cốc thuỷ tinh, bình nón thuỷ tinh, phễu thuỷ 
tinh, bình tam giác, sinh hàn, giấy lọc băng xanh, chén cân chịu nhiệt độ cao, 
cân phân tích, tủ sấy, máy khuấy. 
N-heptan tinh khiết, benzene tinh khiết; 
Mẫu nghiên cứu: cặn dầu FO 
II.2.4. Quy trình tiến hành 
+ Làm sạch tất cả các dụng cụ thuỷ tinh bằng cách ngâm trong sulfocromic 
trong khoảng 12 giờ. Rửa, tráng bằng nước cất rồi bằng cồn 90 độ. Sấy ở 100 – 
110 độ C khoảng 30 phút, sau đó cho vào bình hút ẩm đến khối lượng không 
đổi, rồi cân. Đặt giấy lọc vào phễu lọc. 
+ Mẫu được lắc đều để tránh hiện tượng lắng của tạp chất. Cân 10g mẫu ( chính 
xác đến 0,1g trong một bình nón ), sau đó cho n-heptan vào bính nón với tỉ lệ 
30ml/1g mẫu, lắp sinh hàn và đun sôi mẫu trong khoảng 1giờ. Ngừng đun và để 
nguội bính nón, đậy nắp bình và đặt trong chỗ tối ít nhất 2 giờ để kết tủa 
asphanten. Sau đó lọc asphanten, tạp chất cơ học và cácbonit trên giấy lọc băng 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 41 HD1001 
xanh mịn cẩn then để tránh làm mất chúng (chú ý không khuấy). Tráng sạch 
bình nón thuỷ tinh bằng n-heptan nóng, chuyển nhẹ lên phễu lọc bằng đũa thuỷ 
tinh. Cặn trên giấy lọc được rửa sạch bằng cách chiết với khoảng 50ml n-heptan 
cho tới khi dung môi chảy qua lớp giấy lọc trong suất không màu. 
+ Trên giấy lọc có chứa tạp chất cơ học, cacbonit, asphanten được chuyển vào 
ống giấy lọc, cho vào bộ chiết soxlet và tiến hành chiết bằng dung môi benzene 
cho đến khi dung môi chảy ra khỏi bộ chiết soxlet không màu thì ngừng đun. 
Phần hoà tan trong bezen nóng chính là asphanten, phần còn lại trên giấy lọc là 
tạp chất cơ học và cacbonit. Để nguội, lấy ống giấy lọc ra đem sấy ở nhiệt độ 
115 – 120 độ C cho tới khi khối lượng không đổi. Làm nguội trong bính hút ẩm 
30 phút trước khi cân ( sai lệch giữa hai lần cân liên tiếp không quá 0,2mg ) 
II.2.5. Tính toán kết quả 
 Hàm lượng tạp chất được tính theo công thức: 
1
% .100%
m
S
M
Trong đó: 
%S: hàm lượng tạp chất tính theo % khối lượng 
 m1: khối lượng tạp chất cơ học và cacbonit (g) 
M : khối lượng mẫu cặn dầu (10g) 
Lặp lại thí nghiệm 3 lần và kết quả là giá trị trung bình của 3 lần đo. 
II.3. Xác định asphanten 
II.3.1. Nguyên tắc 
 Hàm lượng asphanten của một số sản phẩm dầu là phần trăm khối lượng các 
hợp phần không tan trong n-heptan ở điều kiện thí nghiệm, nhưng lại tan trong 
benzen nóng. Dựa vào tính chất không hoà tan asphanten trong hydrocacbon nhẹ 
để xác định chúng. Khi hoà tan mẫu vào dung môi nói trên asphanten sẽ kết tủa. 
Ngoài ra còn kết tủa nhựa có khối lượng phân tử lớn vì chúgn có cấu tạo hoá 
học gần giống nhau. Vì vậy chọn dung môi hợp lý là một vấn đề rất quan trọng. 
ở đây, ta chọn n-heptan. Phần asphanten tan trong benzene nóng được đem đi 
cất loại dung môi và sấy đến khối lượng không đổi. 
II.3.2. Quy trình tiến hành 
 Chuyển dung dịch benzene có chứa asphanten thu được từ quá trình chiết 
soxlet vào cốc cân ( đã làm sạch ), sấy ở nhiệt độ 100 – 110 độ C trong thời gian 
30 phút. Làm lạnh cốc cân và asphanten trong bình hút ẩm trong khoảng 0,5 – 
1,0 giờ và cân, sai lệch giữa hai lần cân liên tiếp không quá 0,2mg. Ghi khối 
lượng asphanten thu được m2 
II.3.3. Tính toán kết quả 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 42 HD1001 
Hàm lượng asphanten trong mẫu cặn dầu (%KL) được tính như sau: 
2
% .100%
m
A
M
Trong đó: 
 m2: khối lượng của asphanten thu được (g) 
M: Khối lượng cặn dầu (10g) 
Lặp lại thí nghiệm 3 lần và kết quả được đưa ra ở bảng 3.1 
II.4. Xác định hàm lƣợng nhựa 
II.4.1. Nguyên tắc 
 Để xác định hàm lượng nhựa, cần tách nó ra khỏi các cấu tử dầu mỡ và nhận 
dạng sạch để cân. Dựa trên khả năng bám hút lớn của nhựa trên bề mặt của 
silicagel và khả năng tách khỏi chất hấp phụ bằng dung môi. 
II.4.2. Quy trình tiến hành 
 Phần cặn sau khi đã loại asphanten + tạp chất cơ học + cacboit, cất loại dung 
môi và dội qua cột hấp phụ chứa silicagel hoạt tính, các chất nhựa sẽ hấp phụ 
trong silicagel còn các chất dầu mỡ đi qua. 
 Phần nhựa được giải hấp phụ bằng dung dịch cồn-benzen (tỉ lệ 1: 1), bằng 
cách dùng bộ chiết soxlet cho tới khi dung dịch chảy xuống có màu trong. Cất 
loại dung môi và sấy ở nhiệt độ 105 độ C khoảng 1 giờ, đem hạ nhiệt độ trong 
bình hút ẩm đến khối lượng không đổi và cân (khối lượng xác định giữa hai lần 
cân liên tiếp sai lệch không quá 0,2mg). Ghi khối lượng nhựa thu được là m3. 
II.4.3. Tính toán kết quả 
3
% .100%
m
Nh
M
Trong đó: 
 m3: khối lượng nhựa thu được (g) 
M: khối lượng cặn (10g) 
Lặp lại thí nghiệm 3 lần và kết quả là giá trị trung bình của 3 lần đo 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 43 HD1001 
CHƢƠNG III: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
I. Thành phần của cặn dầu. 
 Cặn dầu FO được lấy từ kho xăng dầu khu vực 1 (Petrolimex Region 1) - Đức 
Giang - Long Biên - Hà Nội. Sau khi phân tích ta thu được kết quả sau. 
Bảng 3.1: Kết quả phân tích thành phần của cặn FO 
STT Tên chỉ tiêu Đơn vị Phương 
pháp thử 
Mẫu cặn 
FO 
1 Khối lượng riêng Kg/l D1298 < 0,991 
2 Độ nhớt động học ở 
50
o
C 
Cst D445 < 180 
3 Hàm lượng tạp chất cơ 
học + cacboit 
% KL D473 0,068 
4 Nhiệt độ bắt cháy cốc 
kín 
Độ C D93 69,2 
5 Hàm lượng nước % T/tích D95 0,7 
6 Nhiệt trị KJ/Kg D240 - 
7 Cặn cacbon Condrason %KL D189 9,568 
8 Hàm lượng tro %KL D482 <0,15 
I.1. Kết luận về thành phần cặn dầu. 
 Như vậy, trong quá trình tồn chứa dầu FO đã xảy ra quá trình oxi hoá chậm, 
một phần dầu chuyển thành nhựa, nhựa chuyển thành asphanten, ngoài ra còn có 
cacben và cacboit được xem như là sản phẩm ngưng tụ sâu của asphanten dưới 
ảnh hưởng của nhiệt độ và không khí. Thời gian tồn chứa càng dài, phản ứng 
oxy hoá xảy ra càng mạnh nên lượng cặn dầu tạo ra càng nhiều. Ngoài ra, nhiệt 
độ chớp cháy thấp cũng làm tăng nguy cơ gây hoả hoạn ở các bồn bể chứa nhiên 
liệu. 
I.2. Ảnh hƣởng của cặn dầu đến bản chất nhiên liệu. 
 Từ số liệu của bảng kết quả, ta thấy được mức độ ảnh hưởng của cặn dầu đến 
chất lượng của nhiên liệu trong bồn bể chứa. 
 Tỷ trọng và độ nhớt của mẫu tương đối lớn, chúng ảnh hưởng đến quá 
trình tồn chứa và bảo quản nhiên liệu. Cặn dầu có chứa nhiều hợp chất 
nitơ, lưu huỳnh hoạt tính, thúc đẩy hiện tượng ăn mòn điện hoá, phá huỷ 
thành và đáy thiết bị tồn chứa, tạo hợp chất cơ học nhiều hơn. 
 Hàm lượng tro tương đối lớn, chứng tỏ hàm lượng kim loại tổng (Fe, Zn, 
Mg, Ca) khá lớn. Nhiên liệu đốt lò chứa nhiều tro sẽ làm giảm hiệu quả sử 
dụng, giảm khả năng truyền nhiệt, gây tắc lò. ở nhiệt độ cao, một số kim 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 44 HD1001 
loại như Vanadi có thể kết hợp với Fe tạo thành hợp kim có nhiệt độ nóng 
chảy thấp gây thủng lò. 
 Hàm lượng cặn cacbon Condrason gây trở ngại khá lớn cho quá trình cháy 
của nhiên liệu, làm tăng hàm lượng bụi và chất thải rắn trong dòng khí 
thải. 
 Nước trong nhiên liệu làm tăng khả năng oxy hoá của dầu, làm giảm khả 
năng toả nhiệt của nhiên liệu. Ngoài ra nước còn hoà tan các muối khoáng 
axit, bazơ có trong nhiên liệu, gây hiện tượng ăn mòn, tạo gỉ ở các chi tiết 
kim loại và bồn bể chứa dầu. 
II. Vai trò, ý nghĩa của việc thu hồi cặn dầu. 
 Theo số liệu của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, hiện tại, lượng cặn dầu từ quá 
trình xúc rửa các tàu chứa dầu, tầu chở dầu, hoặc các bồn bể chứa là từ 4000 - 
6000 tấn mỗi năm. Lượng cặn dầu sẽ tăng trong những năm tiếp theo cùng với 
sự gia tăng của đội tàu chuyên chở của PVT, PTSC cũng như từ các kho xăng 
dầu. Tới năm 2020, lượng cặn dầu dự tính sẽ là 11900 tấn/năm và nhu cầu xử lý 
là 40 tấn mỗi ngày. 
 Hỗn hợp sau quá trình tẩy rửa chính là nước thải có chứa dầu. Đây là nguồn 
gây ô nhiễm rất lớn cho nguồn nước và chất lượng đất. Các nhà môi trường đã 
gọi dầu mỏ là kẻ thù của biển. Do vậy, để đảm bảo nước thải không gây ô nhiễm 
môi trường, đạt đủ các tiểu chuẩn để thải vào môi trường tự nhiên chúng ta cần 
thu hồi lượng dầu có lẫn trong nước một cách tối đa. Không những thế, lượng 
cặn dầu thu được còn là nguyên liệu cho các quá trình công nghệ khác như sản 
xuất bitum, cracking tạo nhiên liệu.v.v. 
 Tóm lại, thu hồi cặn dầu vừa mang ý nghĩa to lớn về môi trường, vừa mang lại 
lợi ích kinh tế lớn cho quá trình xây dựng đất nước. 
III. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu suất tách dầu. 
III.1. Biện luận về sự cần thiết của việc sử dụng chất tẩy rửa. 
 Sau khi súc rửa bồn bể chứa xăng dầu, tàu dầu, đường ống dẫn dầu bằng chất 
tẩy rửa BK sẽ tạo thành một hỗn hợp nhũ tương dầu – nước. Nếu hiệu suất lắng 
tách dầu càng cao thì phần nước thải sau khi lắng tách sẽ được xử lý càng đơn 
giản và lượng cặn dầu thu được để sử dụng càng lớn. Nhận thấy, sau khi khuấy, 
hỗn hợp cặn dầu và chất tẩy rửa được phân thành 2 lớp rõ rệt. Lớp dưới là lớp 
nhũ tương giữa dung dịch chất tẩy rửa và cặn dầu (phần lớn là dung dịch chất 
tẩy rửa) có màu nâu nhạt, lớp trên là nhũ tương giữa cặn dầu và dung dịch chất 
tẩy rửa (phần lớn chứa cặn dầu, do cặn dầu có tỷ trọng nhỏ hơn nước nên nổi lên 
trên) và có màu nâu đậm. 
 Kết luận: Khi sử dụng chất tẩy rửa, ta dễ dàng thu hồi lượng cặn dầu nổi lên 
trên hỗn hợp sau quá trình tẩy rửa. Lượng cặn dầu còn dư tạo nhũ với dung dịch 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 45 HD1001 
chất tẩy rửa dễ dàng được tách ra do điện thế zetal của nhũ tương dầu/ chất tẩy 
rửa tương đối nhỏ. 
III.2. Khảo sát các phƣơng pháp thu hồi cặn dầu. 
Công thức tính hiệu suất lắng tách cặn dầu: 
 % 100%
m
h
M
Trong đó: 
+ m: là khối lượng cặn dầu thu được khi khảo sát 
+ M: là khối lượng cặn dầu trước khi khảo sát 
III.2.1. Thu hồi cặn dầu bằng phương pháp để lắng. 
 Kết quả khảo sát hiệu suất lắng tách dầu theo nhiệt độ được thể hiện trong 
bảng 3.2 - 3.5. 
Bảng 3.2. Khảo sát hiệu suất tách dầu tại nhiệt độ 250C 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 100 78,90 
2 2 100 80,20 
3 3 100 78,90 
4 4 100 82,25 
5 5 100 82,25 
Bảng 3.3. Khảo sát hiệu suất tách dầu tại nhiệt độ 400C 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 100 83,27 
2 2 100 85,15 
3 3 100 86,32 
4 4 100 86,32 
5 5 100 86,32 
Bảng 3.4. Khảo sát hiệu suất tách dầu tại nhiệt độ 600C 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 46 HD1001 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 100 87,14 
2 2 100 89,21 
3 3 100 90,15 
4 4 100 91,12 
5 5 100 91,12 
Bảng 3.5. Khảo sát hiệu suất tách dầu ở 800C 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 100 90,02 
2 2 100 88,28 
3 3 100 87,17 
4 4 100 83,10 
5 5 100 78,65 
 Từ các số liệu trên, ta xây dựng được đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của thời 
gian và nhiệt độ đến hiệu suất tách dầu. ( Hình 3.1 ) 
78
80
82
84
86
88
90
92
0 2 4 6
Thời gian khảo sát (h)
H
iệ
u
 s
u
ấ
t 
tá
c
h
 d
ầ
u
 (
%
)
25 độ C
40 độ C
60 độ C
80 độ C
Hình 3.1 Hiệu suất thu hồi dầu bằng phƣơng pháp lắng 
 Kết luận: Ta nhận thấy, khi tăng dần nhiệt độ từ 25 - 400C, hiệu suất tách dầu 
tăng dần nhưng sau một khoảng thời gian nhất định thì không tăng nữa ( chỉ đạt 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 47 HD1001 
tối đa là gần 87% ). Tại 600C, sau 4 giờ, hiệu suất tách dầu thu được là lớn nhất ( 
91,09% ) so với các nhiệt độ khảo sát từ 25 - 800C. Điều này là do khi tăng nhiệt 
độ, chuyển động nhiệt của các hạt dầu tăng, làm dầu tách ra khỏi nước nổi lên 
trên. Nhưng tại nhiệt độ trên 800C, các chuyển động này mạnh hơn rất nhiều, 
gây xáo trộn trong lòng chất lỏng, do đó, quá trình lắng tách hệ dầu - nước 
không hiệu quả. 
 Tuy nhiên, để phù hợp với thực tế, ta chọn phương án tách dầu ở ngay nhiệt độ 
thường, sục khí và có bổ sung chất điện ly. 
III.2.2. Thu hồi cặn dầu bằng phương pháp sục khí. 
 Kết quả khảo sát hiệu suất thu hồi cặn dầu bằng phương pháp sục khí, nhiệt độ 
thường, được thể hiện trong bảng 3.6; 3.7 và 3.8 
Bảng 3.6. Khảo sát hiệu suất tách dầu với tốc độ sục khí 1l/phút. 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 100 79,95 
2 2 100 82,30 
3 3 100 85,15 
4 4 100 85,15 
5 5 100 85,15 
Bảng 3.7. Khảo sát hiệu suất tách dầu với tốc độ sục khí 1,5l/phút. 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 100 83,35 
2 2 100 87,40 
3 3 100 89,15 
4 4 100 91,55 
5 5 100 91,55 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 48 HD1001 
Bảng 3.8. Khảo sát hiệu suất tách dầu với tốc độ sục khí 2l/phút. 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 100 79,35 
2 2 100 80,40 
3 3 100 82,20 
4 4 100 83,25 
5 5 100 83,25 
 Từ số liệu trên, ta xây dựng được đồ thị biểu diễn sự ảnh hưởng của tốc độ sục 
khí đến việc lắng tách dầu. 
78
80
82
84
86
88
90
92
94
0 2 4 6
Thời gian khảo sát (h)
H
iệ
u
 s
u
ấ
t 
lắ
n
g
 t
á
c
h
 (
%
)
1l/phút
1,5l/phút
2l/phút
Hình 3.2 Hiệu suất thu hồi cặn dầu bằng phƣơng pháp sục khí 
 Kết luận: Ta nhận thấy, khi sục khí với tốc độ nhỏ ( 1l/phút ), hiệu quả phá 
nhũ kém nên sự lắng tách không hiệu quả. Ngược lại, khi sục khí với tốc độ lớn 
( 2l/phút ), hỗn hợp chất tẩy rửa và cặn dầu bị xáo trộn mạnh nên việc lắng tách 
cũng không hiệu quả. Vậy rút ra, tốc độ sục khí tối ưu cho quá trình lắng tách 
cặn dầu là 1,5l/phút. 
III.2.3. Thu hồi cặn dầu bằng phương pháp sử dụng chất điện ly, không sục 
khí. 
 Lần lượt khảo sát khả năng tách dầu với các chất điện ly khác nhau H2SO4, 
(NH4)2SO4, NaCl. Kết quả thực nghiệm được đưa ra tại bảng 3.9, 3.10, 3.11 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 49 HD1001 
Bảng 3.9. Khảo sát hiệu suất tách dầu ở nhiệt độ thường, có bổ sung chất 
điện ly là H2SO4 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa + dd 
H2SO4 (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 110 92,60 
2 2 110 94,55 
3 3 110 95,88 
4 4 110 95,88 
5 5 110 95,88 
Bảng 3.10. Khảo sát hiệu suất tách dầu ở nhiệt độ thường, chất điện ly là 
(NH4)2SO4 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa + dd 
(NH4)2SO4 (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 110 89,16 
2 2 110 90,89 
3 3 110 93,55 
4 4 110 94,15 
5 5 110 94,15 
Bảng 3.11. Hiệu suất tách dầu khảo sát ở nhiệt độ thường, chất điện ly là 
NaCl 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa + dd 
NaCl (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 110 90,20 
2 2 110 92,89 
3 3 110 94,58 
4 4 110 94,58 
5 5 110 94,58 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 50 HD1001 
 Từ các số liệu trên, ta xây dựng được đồ thị ảnh hưởng của chất điện ly đến 
hiệu suất thu hồi cặn dầu. 
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
0 2 4 6
Thời gian khảo sát (h)
H
iệ
u
 s
u
ấ
t 
lắ
n
g
 t
á
c
h
 (
%
)
sulfuric acid
ammonium sulfate
NaCl
Hình 3.3 Hiệu suất thu hồi cặn dầu bằng phƣơng pháp dùng chất điện ly 
 Kết luận: Từ đồ thị, ta nhận thấy, khi bổ sung chất điện ly thì hiệu suất tách 
dầu cao hơn hẳn. Lý do, hệ dầu - dung dịch chất tẩy rửa là một hệ nhũ tương 
mang điện. Các chất điện ly có tác dụng phá vỡ hệ keo bền vững này, thúc đẩy 
sự phân tách giữa dầu và nước, làm quá trình lắng tách đạt hiệu quả cao. 
 Trong 3 chất điện ly khảo sát thì H2SO4 cho hiệu suất lắng tách lớn nhất : 
H2SO4 > NaCl > (NH4)2SO4. 
III.2.4. Thu hồi cặn dầu bằng phương pháp sử dụng chất điện ly, có sục khí. 
 ở đây, ta chọn tốc độ sục khí là 1,5l/phút. Lý do, khi sục khí với tốc độ lớn ( 
trên 1,5l/phút ), hỗn hợp chất tẩy rửa và cặn dầu bị xáo trộn mạnh nên việc lắng 
tách dầu không hiệu quả. Lần lượt khảo sát khả năng tách dầu với các chất điện 
ly khác nhau H2SO4, (NH4)2SO4, NaCl. Kết quả thực nghiệm được đưa ra tại 
bảng 3.12, 3.13, 3.14 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 51 HD1001 
Bảng 3.12. Khảo sát hiệu suất tách dầu ở nhiệt độ thường, tốc độ sục khí 
1,5l/phút, có bổ sung chất điện ly là H2SO4 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa + dd 
H2SO4 (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 110 93,60 
2 2 110 95,35 
3 3 110 96,68 
4 4 110 97,18 
5 5 110 97,18 
Bảng 3.13. Khảo sát hiệu suất tách dầu ở nhiệt độ thường, tốc độ sục khí là 
1,5l/phút, chất điện ly là (NH4)2SO4 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa + dd 
(NH4)2SO4 (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 110 90,16 
2 2 110 91,89 
3 3 110 94,55 
4 4 110 95,55 
5 5 110 95,55 
Bảng 3.14. Hiệu suất tách dầu khảo sát ở nhiệt độ thường, tốc độ sục khí là 
1,5l/phút, chất điện ly là NaCl 
STT Thời gian (h) V dung dịch 
chất tẩy rửa + dd 
NaCl (ml) 
Hiệu suất tách 
dầu (%) 
1 1 110 91,26 
2 2 110 93,89 
3 3 110 95,25 
4 4 110 96,25 
5 5 110 96,25 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 52 HD1001 
 Từ các số liệu trên ta nhận thấy, các chất điện ly ảnh hưởng đến quá trình lắng 
tách dầu không giống nhau. Đồ thị hình 3.2 minh hoạ rõ nét sự khác nhau này. 
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
0 1 2 3 4 5 6
Thời gian khảo sát (h)
H
iệ
u
 s
u
ấ
t 
lắ
n
g
 t
á
c
h
 (
%
)
sulfuric acid
ammonium fulfate
NaCl
Hình 3.4 Hiệu suất thu hồi cặn dầu bằng phƣơng pháp sục khí, bổ sung 
chất điện ly 
 Từ đồ thị, nhận thấy, khi sục khí và bổ sung chất điện ly thì hiệu suất tách dầu 
cao hơn hẳn, có thể đạt tới 97,18%. Lý do, hệ dầu - dung dịch chất tẩy rửa là 
một hệ nhũ tương mang điện. Các chất điện ly có tác dụng phá vỡ hệ keo bền 
vững này, thúc đẩy sự phân tách giữa dầu và nước. Việc phá nhũ cũng xảy ra 
triệt để hơn do sục khí. Do đó quá trình lắng tách đạt hiệu quả cao. 
 Như vậy, tại điều kiện nhiệt độ thường với tốc độ sục khí 1,5l/phút, sử dụng 
chất điện ly là H2SO4 5% thì sau 3h, thu được hiệu suất tách dầu là lớn nhất 
(97,18%). 
III.2.5. Kết luận về các phương pháp thu hồi cặn dầu. 
 Từ các kết quả trên ta thấy: 
 Phương pháp để lắng ở nhiệt độ thường có hiệu suất lắng tách dầu không 
cao, nhiệt độ tối ưu cho quá trình này là 600C không thể ứng dụng trong 
thực tiễn. 
 Phương pháp sục khí có ưu điểm là đơn giản, dễ thực hiện nhưng hiệu 
suất lắng tách không cao, lượng dầu trong nước thải sau quá trình xử lý 
vẫn còn nhiều, nước thải không đủ chỉ tiêu môi trường. 
 Phương pháp sử dụng chất điện ly có hiệu suất lắng tách khá cao, tuy 
nhiên đây vẫn chưa phải là phương pháp tối ưu 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 53 HD1001 
 Phương pháp tốt nhất là sử dụng chất điện ly, có sục khí. Phương pháp 
này đơn giản, hiệu suất thu hồi cặn dầu lớn, nước thải sau quá trình xử lý 
đủ chỉ tiêu môi trường về hàm lượng dầu trong nước. 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 54 HD1001 
KẾT LUẬN 
 Sau một thời gian nghiên cứu và tiến hành thực nghiệm đề tài, thu được những 
kết quả sau : 
 1. Đã xác định rằng để tách cặn dầu ra khỏi nước và thu hồi có hiệu quả cao 
cần phải sử dụng chất tẩy rửa. 
 2. Đã xác định thành phần cặn dầu gồm 0,068 % hàm lượng tạp chất cơ học + 
cacbonit, 0,7% hàm lượng nước, 9,568% hàm lượng cặn cacbon condrason, 
0,15% hàm lượng tro. Các thành phần này gây ảnh hưởng xấu tới nhiên liệu do 
đó cần nghiên cứu phương pháp để xử lý. 
 3. Đã khảo sát các phương pháp khác nhau để tách cặn dầu : 
 Phương pháp để lắng, hiệu suất thu hồi cặn dầu lớn nhất khi thực hiện ở 
nhiệt độ 600C : 91,12%. 
 Phương pháp sục khí, hiệu suất thu hồi cặn dầu lớn nhất khi thực hiện với 
tốc độ sục khí là 1,5l/phút : 91,55% 
 Phương pháp sử dụng chất điện ly, hiệu suất thu hồi cặn dầu lớn nhất khi 
thực hiện với chất điện ly là H2SO4 5% : 95,88% 
 Phương pháp sử dụng chất điện ly, có sục khí, hiệu suất thu hồi cặn dầu 
lớn nhất khi sử dụng chất điện ly là H2SO4 5% và sục khí tốc độ 
1,5l/phút : 97,18% 
Từ đó, thấy rằng để tách tối đa cặn dầu, cần sử dụng chất tẩy rửa. Thực hiện 
lắng tách có sử dụng chất điện ly là H2SO4 5%, sục khí với tốc độ 1,5l/phút và 
thời gian 4h 
Đồ án tốt nghiệp 
Nguyễn Thị Ngọc Hương 55 HD1001 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 Tài liệu tiếng Việt 
1. PGS.TS Đinh Thị Ngọ (2001), Hoá học dầu mỏ và khí, nhà xuất bản KH và 
KT, Hà Nội. 
2. PGS.TS Đinh Thị Ngọ, TS Nguyễn Khánh Diệu Hồng (2008), Nhiên liệu 
sạch và các quá trình xử lý trong hoá dầu, nhà xuất bản KH và KT, Hà Nội 
3. Kiều Đình Kiểm (2000), Các sản phẩm dầu mỏ và hoá dầu, nhà xuất bản KH 
và KT, Hà Nội. 
4. Bộ khoa học Công nghệ (1995), TCVN 2692 - 1995 (ASTM D95-90). Sản 
phẩm dầu mỏ và bitum, xác định hàm lượng nước, phương pháp chưng cất, Hà 
Nội. 
5. Khoa CN Hoá học, Bộ môn tổng hợp hữu cơ hoá dầu (1999), Bài thí nghiệm 
dầu mỏ, Trường ĐHBK Hà Nội. 
6. Trần Mạnh Trí (1979), Hoá học dầu mỏ và khí, ĐHBK Hà Nội. 
7. Nguyễn Hữu Phú, Phạm Ngọc Thạch, Đinh Văn Hoan (1976), Hoá lý và hoá 
keo, Khoa tại chức, Trường ĐHBK Hà Nội. 
8. Nguyễn Lệ Tố Nga (2002), xác định thành phần cặn dầu và phương pháp tẩy 
rửa chúng. Luận văn thạc sĩ ngành Công nghệ hữu cơ hoá dầu, Trường ĐHBK 
Hà Nội. 
9. Huỳnh Anh Hoàng: Luận án thạc sỹ KHKT. Đề tài: Khảo sát nguồn cặn dầu 
tại VN, nghiên cứu đề xuất giải pháp xử lý cặn dầu từ quá trình vệ sinh tàu dầu. 
12 – 1999. 
10. Bộ vật tư, Tổng công ty xăng dầu (1974), Bảo quản phẩm chất xăng dầu 
trong quá trình tồn chứa và vận chuyển, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội. 
 Tài liệu tiếng Anh 
11. American Society for Testing and Martials (1981), ASTM D473-81 
(Reapporoved 1995), Philadelphia. 
12. American Society for Testing and Martials (2000), ASTM D65-00, 
Philadelphia. 
13. Wolfgang Gerhartz(1985), Ullman’s encyclopedia of industial chemistry, 
Vol A3, interscience Encyclopedia, New York. 
14. OS.M.M Van, Haak J.R; Rupert L.A.M, Physico - Chemical properties of 
Selected Anionic, Cationic and Nonionic Surfactants, Amst Elsevier, 1993. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
5.NguyenThiNgocHuong_HD1001.pdf