Công nghệ đường hầm là một phương pháp sử dụng cơ sở hạ tầng sẵn có của mạng ipv4 để thực hiện các kết nối ipv6 bằng cách sử dụng các thiết bị mạng có khả năng hoạt động dual-stack tại hai điểm đầu và cuối nhất định. Các thiết bị này “bọc”gói tin ipv6 trong gói tin có header ipv4 và truyền tải đi trong mạng ipv4 tại điểm đầu và gỡ bỏ ipv4 header, nhận lại gói tin ipv6 ban đầu tại điểm đích cuối đường truyền ipv4
– Giá trị của trường Protocol Field trong ipv4 header luôn được xác lập có giá trị 41 để xác định đây là gói tin ipv6 được bọc trong gói tin ipv4. Nếu trên đường kết nối có sử dụng firewall, firewall này cần phải được thiết lập để cho phép gói tin có giá trị Protocol 41 đi qua.
– Điểm kết thúc tunnel có thể được xác định tại host hoặc router tạo nên kết nối như sau:
• Router-tới-Router
• Host-tới-Router hoặc Router-tới-Host
• Host-tới-Host
– Một số công nghệ đường hầm tunnel:
• Tunnel bằng tay (Configured) :công nghệ TunnelBroker
Trong cấu hình này đòi hỏi phải có cấu hình bằng tay các điểm kết thúc tunnel. Trong tunnel cấu hình bằng tay, các điểm kết cuối đường hầm này sẽ không được suy ra từ các địa chỉ nằm trong địa chỉ nguồn và địa chỉ đích của gói tin.
• Tunnel tự động (Automatic) :Địa chỉ ipv4 của điểm bắt đầu và kết thúc tunnel được rút ra sử dụng giao diện ảo tunnel, tuyến (route), địa chỉ nguồn và địa chỉ đích của gói tin Ipv6.
– Nguyên tắc hoạt động của việc tạo đường hầm:
• Xác định thiết bị kết nối tại các điểm đầu và cuối đường hầm. Hai thiết bị này phải có khả năng hoạt động dual-stack.
• Xác định địa chỉ ipv4 và địa chỉ ipv6 nguồn và đích của giao diện tunnel (hai đầu kết thúc tunnel)
• Trên hai thiết bị kết nối tại đầu và cuối tunnel, thiết lập một giao diện tunnel (giao diện ảo, không phải giao diện vật lý) dành cho những gói tin IPv6 sẽ được bọc trong gói tin IPv4 đi qua.
• Gắn địa chỉ ipv6 cho giao diện tunnel.
• Tạo tuyến (route) để các gói tin ipv6 đi qua giao diện tunnel. Tại đó, chúng được bọc trong gói tin ipv4 có giá trị trường Protocol 41 và chuyển đi dựa trên cơ sở hạ tầng mạng IPV4 và nhờ định tuyến ipv4.
40 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Tìm hiểu về Địa chỉ ip version 6, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thủ công.
• Cấu trúc định tuyến tốt hơn :cấu trúc định tuyên IPv6 hoàn toàn phân cấp.
• Hỗ trợ tốt hơn Multicast: Multicast là một tùy chọn của địa chỉ IPv4, tuy nhiên khả năng hỗ trợ và tính phổ dụng chưa cao.
• Hỗ trợ bảo mật tốt hơn: IPv4 được thiết kế tại thời điểm chỉ có các mạng nhỏ, biết rõ nhau kết nối với nhau. Do vậy bảo mật chưa phải là một vấn đề được quan tâm. Song hiện nay, bảo mật mạng internet trở thành một vấn đề rất lớn, là mối quan tâm hàng đầu.
• Hỗ trợ tốt hơn cho di động: Thời điểm IPv4 được thiết kế, chưa tồn tại khái niệm về thiết bị IP di động. Trong thế hệ mạng mới, dạng thiết bị này ngày càng phát triển, đòi hỏi cấu trúc giao thức Internet có sự hỗ trợ tốt hơn.
1. 4. Triển khai IPv6 toàn cầu
Tiêu chuẩn hóa và quản lý địa chỉ IPv6:
Tiêu chuẩn hóa IPv6:
- Ý tưởng về việc phát triển giao thức Internet mới được giới thiệu tại cuộc họp IETF 25 tháng 7 năm 1994, trong RFC1752
– The Recommendationforthe IP Next Generation Protocol (giới thiệu thủ tục IP phiên bản mới).
Quá trình phát triển, xem xét, sửa đổi, hoàn thiện hóa các thủ tục Internet phiên bản 6 được thực hiện bởi nhóm làm việc IETFIPv6 WorkingGroup.
Sau nhiều năm nghiên cứu, những hoạt động cơ bản của thế hệ địa chỉ này đã được định nghĩa và công bố năm 1998 trong một chuỗi tài liệu tiêu chuẩn từ RFC2460 tới RFC2467. Trong đó nổi bật nhất là tiêu chuẩn hóa địa chỉ IPv6 RFC 2460-Internet Protocol, Version6 (IPv6) và hai thủ tục thiết yếu trong hoạt động của IPv6, hỗ trợ cho IPv6: RFC 2461-mô tả thủ tục IPv6 Neighbor Discovery Protocol, là thủ tục mới của IPv6 và RF 2463 mô tả ICMPv6.
√ Đồng thời, rất nhiều RFC khác được công bố, định nghĩa tiêu chuẩn hóa cho những chức năng của IPv6, mô tả phiên bản mới hỗ trợ IPv6 cho các dịch vụ như DNS, DHCP…
√ Thời điểm hiện nay, những tiêu chuẩn cơ bản cho hoạt động của giao thức Internet phiên bản 6 đã được hoàn thiện. Tuy nhiên, chúng sẽ tiếp tục được sửa đổi nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế, song song với việc phát triển đầy đủ những đặc tính mới trong giao thức IPv6.
- Quản lý địa chỉ IPv6:
Cũng như không gian địa chỉ IPv4, địa chỉ IPv6 được quản lý bởi hệ thống phân cấp các tổ chức quản lý địa chỉ toàn cầu. Trong đó cấp quản lý cao nhất là IANA (Internet Assigned Numbers Authority), tiếp đó là các tổ chức quản lý địa chỉ khu vực (RIR– Regional Internet Registry):
- Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: APNIC apnic. net
- Khu vực Châu Âu : RIPE NCC ripe. net
- Khu vực Bắc Mỹ:ARIN arin. net
- Khu vực Mỹ Latinh và biển Caribe: LACNIC lacnic. net
Phần 2:Lý thuyết về địa chỉ IP version 6
2. 1. Tổng quan về địa chỉ IP v6
Địa chỉ thế hệ mới của Internet –IP v6 (IP address version 6) được nhóm chuyên trách về kĩ thuật IETF (Internet Engineering Task Force) của Hiệp hội Internet đề xuất thực hiện kế thừa trên cấu trúc và tổ chức của Ipv4.
Ipv4 có 32 bit địa chỉ với khả năng lý thuyết có thể cung cấp một không gian địa chỉ là 232 =4 294 967 296 địa chỉ. Còn Ipv6 có 128 bit địa chỉ hơn 4 lần so với Ipv4 nhưng khả năng lý thuyết có thể cung cấp một không gian địa chỉ là 2128 =340 282 366 920 463 463 374 607 431 768 211 456 địa chỉ, nhiều hơn không gian địa chỉ của Ipv4 là khoản 8 tỷ tỷ tỷ lần vì 232 lấy tròn số là 4. 109 còn 2128 lấy tròn số là 340. 1036
Đây là không gian địa chỉ cực lớn với mục đích không chỉ cho internet mà còn cho tất cả các mạng máy tính, hệ thống viễn thông,. . . . . Người ta nói rằng từng chiếc điều hoà tử lạnh …. của từng gia đình một cũng sẽ mang một địa chỉ Ipv6 để chủ nhân của chúng có thể kết nối và ra lệnh từ xa. Nhu cầu hiện tại chỉ cần 15% không gian địa chỉ Ipv6 còn 85% dự phòng trong tương lai.
Biểu diễn địa chỉ IPv6
-Các hệ số thập phân, nhị phân, hexa decimal. Chữ số chúng ta sử dụng trong cuộc sống thường nhật được gọi là số thập phân. Phép tính thực hiện với các con số thập phân được gọi là cơ số 10. Mọi chữ số chỉ có thể biểu diễn được mười giá trị từ 0 đến 9. Đối với con người, những con số hệ số thập phân vô cùng quen thuộc.
Hệ thập phân (cơ số 10)
2024 = 4x100 + 2x101 + 0x102 + 2x103 = 2024
- Tuy nhiên, trong lĩnh vực kỹ thuật, máy móc lại sử dụng phổ biến hai hệ số khác, như con người quen thuộc với hệ số thập phân: đó là hệ nhị phân ( binary– cơ số 2)và hệ số hexa decimal (cơ số 16).
-Các máy tính lưu trữ và xử lý thông tin bằng một tập hợp những đoạn thông tin với hai tình trạng đơn giản “có” và “không”. Hệ nhị phân chỉ bao gồm hai số “1” và “0” tương ứng tình trạng này. Các giá trị bao gồm dãy các chữ số 0 và 1. Với cơ số 2, con số nhị phân sẽ được quy đổi ra giá trị thập phân như sau:
Hệ nhị phân (cơ số 2):
1101 = 1x20 + 0x21 + 1x 22 + 1x23 = 13
Con số 13 của hệ số thập phân tương ứng với dãy số 1101 biểu diễn trong hệ nhị phân.
- Nếu chuyển đổi một dãy số 32 bít nhị phân “11001011101000100011100110110111” sang dạng số thập phân theo quy tắc như trên, giá trị thập phân nhận được sẽ vô cùng lớn và khó nhớ. Do vậy, người ta thường hay sử dụng cách thức nhóm các số nhị phân, có thể theo 4 số (octet) hay 8 số (byte). Chuỗi số 32 bít trên có thể phân ra như sau: “1100. 1011. 1010. 0010. 0011. 1001. 1011. 0111”
- Nếu phân từng nhóm 4 số nhị phân, mỗi nhóm sẽ có 16 giá trị thập phân từ 0 đến 15. Hoàn toàn có thể xây dựng một hệ số có 16 giá trị. Hệ số đó được gọi là hệ số hexadecimal, còn gọi tắt là hexa, cơ số 16.
Hexa decimal (cơ số 16)
0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, A, B, C, D, E, F F= 15 (thập phân) = 1111 (nhị phân)
CA82 = 2x160 + 8x161 + 10x162 + 12x163 = 51842
- Cách viết địa chỉ IPv4:
Địa chỉ IPv4 gồm 32 bit nhị phân, được chia thành các nhóm 8 bít phân cách nhau bằng dấu chấm và chuyển thành giá trị thập phân cho dễ nhớ.
Địa chỉ Ipv4
1100 1011 1010 0010 0011 1001 1011 0111(32 bit)
à 11001011 10100010 00110001 10110111(32 bit)
à 203. 162. 57. 183
-Nếu 32 bít nay thay vì phân thành các nhóm 8 bít như trên, được phân thành các nhóm 4 bít và chuyển sang số hexa. Rồi lại tiếp tục nhóm 4 chữ số hexa thành một nhóm phân cách nhau bằng dấu “:” khi đó địa chỉ IPv4 sẽ được biểu diễn thành số hexadecimal
- Địa chỉ IPv6 được viết dưới dạng số hexa decimal. Địa chỉ IPv6 có độ dài 128 bít nhị phân. 128 bít nhị phân này được chia thành các nhóm 4 bít, chuyển đổi viết theo số hexadecimal và nhóm 4 số hexa thành một nhóm phân cách nhau bằng dấu “:”. Kết quả, địa chỉ ipv6 được biểu diễn thành một dãy số gồm 8 nhóm số hexa cách nhau bằng dấu “:”, mỗi nhóm gồm 4 chữ số hexa:
Địa chỉ Ipv6 :128 bit
0010 0000…. 00…. . 1100 1011 1010 0010 0011 1001 1011 0111
à 32 cụm 4 bit -32 chữ số hexa-8 cụm 4 chữ số hexa
à 2000:0000:0000:0000:0000:0000:CBA2:3987
- Rút gọn cách viết địa chỉ IPv6:
Không như địa chỉ IPv4, địa chỉ ipv6 có rất nhiều dạng. Trong đó có những dạng chứa nhiều chữ số 0 đi liền nhau. Nếu viết toàn bộ và đầy đủ những con số này thì dãy số biểu diễn địa chỉ IPv6 thường rất dài. Do vậy, có thể rút gọn cách viết địa chỉ ipv6 theo hai quy tắc sau đây:
+ Quy tắc 1: Trong một nhóm 4 số hexa, có thể bỏ bớt những số 0 bên trái. Ví dụ cụm số “0000” có thể viết thành “0”, cụm số “09C0” có thể viết thành “9C0”
+ Quy tắc 2: Trong cả địa chỉ ipv6, một số nhóm liền nhau chứa toàn số 0 có thể không viết và chỉ viết thành “::”. Tuy nhiên, chỉ được thay thế một lần như vậy trong toàn bộ một địa chỉ ipv6. Điều này rất dễ hiểu. Nếu chúng ta thực hiện thay thế hai hay nhiều lần các nhóm số 0 bằng “::”, chúng ta sẽ không thể biết được số các số 0 trong một cụm thay thể bởi “::” để từ đó khôi phục lại chính xác địa chỉ IPv6 ban đầu
2. 2. Cấu trúc địa chỉ IP version 6
Địa chỉ IP v4 chia ra làm 5 lớp A, B, C, D còn IP v6 lại chia làm 3 lớp chính sau:
2. 2. 1. Unicast Address.
Địa chỉ đơn hướng. Là địa chỉ dùng để nhận dạng từng Node một (Node = điểm nút là tập hợp các thiết bị chuyển mạch nằm ở trung tâm như Router chẳng hạn ), cụ thể là một gói số liệu được gửi tới một địa chỉ đơn hưóng sẽ đựoc chuyển tới Node mang địa chỉ đơn hưóng –Unicast đó.
Trong loại địa chỉ này lại có rất nhiều kiểu, chúng ta hãy xem một số kiểu chính sau đây.
a)Local –use unicast address:Là địa chỉ đơn hưóng dùng nội bộ, đựoc sử dụng cho một tổ chức có mạng máy tính riêng (dùng nội bộ ) chưa nối với mạng Internet toàn cầu hiện tại nhưng sẵn sàng nối được khi cần.
Địa chỉ này được chia thành 2 kiểu Link local-nhận dạng đường kết nối nội bộ và Site Local -nhận dạng trong phạm vi nội bộ có thể có nhiều nhóm Node –Subnet.
-Mẫu địa chỉ cho Link local. Hình vẽ 1
10 bit 54 bit 64 bit
1111111010
00000. . . . . 0000
Interface ID
Hình 1 :Cấu trúc địa chỉ của Link Local
-Mẫu địa chỉ cho Site local 2:
10 bit 38 bit 16 bit 64 bit
1111111011
00000. . 0
Subnet ID
Interface ID
Hình 2 : Cấu trúc địa chỉ của Site Local
Các bit đầu tiên (trường hợp này là 10 bit ) tương tự như các bit nhận dạng lớp địa chỉ (Class bit ) của Ipv4 nhưng ở Ipv6 được gọi là Prefix dùng để phân biệt các loại, các kiểu địa chỉ khác nhau trong Ipv6.
Trong cả hai trường hợp nêu trên trường Interface ID để nhận dạng thiết bị như Node hay Router nhưng đều sử dụng cùng tên miền.
b) IPX Address :Internetwork Packet eXchange :Là trao đổi các gói số liệu giữa mạng – các giao thức cơ bản trong hệ điều hành Novell netware. Địa chỉ IPX được chuyển sang Ipv6 theo dạng sau.
7 bit 121 bit
0000010
To be define
Tự định nghĩa
Hình 3 :Cấu trúc địa chỉ IPX
c)Ipv6 Address with embedded Ipv4: Địa chỉ Ipv6 gắn kèm Ipv4.
Đây là một cấu trúc quan trọng trong bược chuyển tiếp đổi từ địa chỉ cũ sang địa chỉ mới trên Internet. Có hai kiểu sau :
- Kiểu địa chỉ Ipv4 tương thích địa chỉ Ipv6 : Những Node mang địa chỉ Ipv6 sử dụng kiểu địa chỉ này để tải địa chỉ Ipv4 ở 32 bit sau như vậy mới kết nối được với các Node mạng địa chỉ Ipv4. Hình vẽ 4:
80 bit 16 bit 32 bit
000……………. 000
0000
Ipv4 Address
Hình 4 : Cấu trúc địa chỉ Ipv4 tương thích với IP v6
-Kiểu địa chỉ Ipv4 giả làm Ipv6 : Những Node mang địa chỉ Ipv4 sử dụng kiểu địa chỉ này để tương thích với Ipv6 có vậy mới kết nối được với Node mang địa chỉ Ipv6. Hình vẽ 5 :
80 bit 16 bit 32 bit
000………………. 000
F F F F
Ipv4 Address
Hình vẽ 5 :Cấu trúc của địa chỉ Ipv4 giả là Ipv6
Sự khác nhau của hai kiểu địa chỉ này là 16 bit của kiểu thứ nhất giá trị tất cả các bit khác đều = 0, còn kiểu thứ hai giá trị tất cả các bit đều = 1 (Mã Hexal là FFFF)
d) Addggregate Global Unicast Address. Địa chỉ đơn hướng trên mạng toàn cầu. Kiểu địa chỉ này được thiết kế cho cả ISP hiện tại và tương lai. ISP trong tương lai có quy mô lớn, như là các Interner Carrier. Trường hợp này được gọi là các Trung tâm chuyển đổi (Exchange ) trên Internet, cung cấp khả năng truy nhập và dịch vụ Internet cho cả khách hàng lẫn ISP, hiện tại một số công ty lớn của Mỹ đã có quy mô này. Hình 6:
3 bit 13 bit 32 bit 16 bit 64 bit
FP
TLA ID
NLA ID
SLA ID
Interface ID
Hình 6 : Cấu trúc địa chỉ đơn hướng trên mạng toàn cầu
FP:Format Prefix :Nhận dạng kiểu địa chỉ
Interface ID:Nhận dạng Node.
SLA ID –Site Level Aggregate :Nhận dạng cấp vùng
NLA ID-Next Level Aggregate :Nhận dạng cấp tiếp theo
TLA ID –Top Level Aggregate :Nhận dạng cấp cao nhất
2. 2. 2. Anycast Adderss. Địa chỉ bất kỳ hướng nào.
Là địa chỉ dùng để nhận dạng một “Tập hợp Node” bao gồm nhiều Node khác nhau hợp thành, cụ thể là một gói số liệu đựoc gửi tới một địa chỉ “Bất cứ hướng nào” sẽ đựoc chuyển tới một Node gần nhất trong Tập hợp Node mang địa chỉ Anycast đó.
Kiểu địa chỉ này cũng tương tự như Unicast, nếu địa chỉ phân cho một Node thì đó là Unicast, cùng địa chỉ đó phân cho nhiều Node thì đó lại là Anycast. Vì địa chỉ Anycast để phân cho một nhóm Node bao gồm nhiều Node hợp thành (một Subnet). Một gói số liệu gửi tới một địa chỉ Anycast sẽ được chuyển tới một Node (Router )gần nhất trong Subnet mang địa chỉ đó.
N Bit (128-n) Bit
Subnet Prefix
000000………………000
Hình 7:Cấu trúc địa chỉ Anycast
2. 2. 3. Multicast Adderss.
Địa chỉ đa hướng. Là địa chỉ dùng để nhận dạng một “Tập hợp Node” bao gồm nhiều Node khác nhau hợp thành, cụ thể là một gói số liệu được gửi tới một địa chỉ “đa hướng “ sẽ được chuyển tới tất cả các Node trong tập hợp Node mang địa chỉ Multicast đó.
Địa chỉ đa hướng của Ipv6 để nhận dạng một Tập hợp Node nói cách khác một nhóm Node. Từng Node một trong nhóm đều có cùng địa chỉ như nhau :
8 Bit 4 Bit 4 Bit 112 Bit
11111111
Figs
Scop
Group ID
Hình 8:Cấu trúc địa chỉ đa hướng
8 bit Prefix đầu tiên để nhận dạng kiểu địa chỉ đa hướng, 4 bit tiếp theo (Flags) cho 4 cờ giá trị
0 0 0 T
Ba bit đầu còn chưa dùng đến nên = 0, còn bit thứ 4 có giá trị T. Nếu T=1 có nghĩa đây là địa chỉ tạm thời. Nếu T=0 có nghĩa địa chỉ này đã được NIC phân cố định.
Bốn bit tiếp theo (Scop) có giá trị thập phân từ 0 đến 15, tính theo Hexal là từ 0 đén F. Nếu giá trị của Scop =1 :cho Node Local
Nếu giá trị của Scop =2:cho Link Local
Nếu giá trị của Scop =5:cho Site Local
Nếu giá trị của Scop =8:Organizition Local
Nếu giá trị của Scop =E:Glocal scop -Địa chỉ Internet toàn cầu
Còn lại đều đang dự phòng.
Ví dụ :các mạng LAN đang dùng theo chuẩn IEEE 802 MAC (Media Access Control) khi dùng Ipv6 kiểu đa hướng sẽ sử dụng 32 bit cuối trong tổng số 112 bit dành cho nhận dạng Node (Group ID) để tạo ra địa chỉ MAC, 80 bit còn lại chưa dùng tới phải đặt =0. Hình 9:
8 bit 4 bit 4bit 80 bit 32 bit
11111111
Figs
Scop
00000…00
MAC Address
Hình 9:Cấu trúc địa chỉ MAC của LAN
2. 3. Cấu trúc và đặc điểm các dạng địa chỉ Ipv6
2. 3. 1. Giới thiệu chung
a)Cấu trúc chung của địa chỉ Ipv6
Địa chỉ Ipv6 có chiều dài 128 bits, có thể định dạnh cho một giao diện cụ thể hoặc một tập các giao diện (điều này khác với Ipv4, một địa chỉ Ipv4 chỉ định danh duy nhất cho một giao diện trên mạng). Tất cả các loại địa chỉ Ipv6 được gán tới những giao diện, không gán cho các Node. Vì mỗi giao diện có thể thuộc về một Node đơn, nên bất kỳ kiểu địa chỉ unicast của 1 giao diện có thể sử dụng để định danh node đó trên mạng. Một giao diện có thể được chấp nhận với bất kỳ loại địa chỉ nào.
b)Phân loại địa chỉ Ipv6
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của Ipv6 là mở rộng cấu trúc địa chỉ. Với thiết kế mới, Ipv6 cho phép tăng chiều dài một địa chỉ IP từ 32 bits lên 128 bits. Với kiến trúc địa chỉ mới này, không gian địa chỉ tăng lên một con số vô cùng lớn. Do vậy, khắc phục hạn chế số lượng địa chỉ của Ipv4. Tuy nhiên số lượng địa chỉ và cấu trúc địa chỉ lớn cũng làm cho cơ chế phân bố và quản lý địa chỉ trở nên phức tạp hơn so với Ipv4. Các đặc tả về kiến trúc địa chỉ Ipv6 được mô tả trong tại liệu RFC1933. Theo kiến trúc địa chỉ của Ipv6, có 3 loại như sau :
-Địa chỉ Unicast: Địa chỉ này được gán vào mỗi giao diện đơn. Một gói tin có địa chỉ này sẽ được chuyển đến một giao diện cụ thể.
-Địa chỉ Anycát : Địa chỉ này đuợc gán cho một nhóm các giao diện (thông thường là những nodes khác nhau), và những gói tin có địa chỉ này sẽ được chuyển đổi giao diện gần nhất có địa chỉ này. Khái niệm gần nhất ở đay dựa vào khoảng cách gần nhất xác định qua giao thức định tuyến sử dụng.
-Địa chỉ Multicast : Địa chỉ này được gán cho một nhóm các giao diện (thông thường là những nodes khác nhau). Một gói tin có địa chỉ multicast sẽ được chuyển tới tất cả các giao diện có gán địa chỉ multicast này.
Loại địa chỉ “anycast “ cũng sử dụng để định dạng một nhóm các host hoặc các giao diện trên mạng. Sự khác nhau giữa “anycast” và “multicast” là quá trình chuyển gói dữ liệu. Thay vì chuyển tới tất cả các thành viên trong nhóm, các gói được gửi từ một địa chỉ “anycast” chỉ được phát cho một điểm là thành viên gần nhất của nhóm. Khái niệm gần nhất ở đây được xác định thông qua giao thức định tuyến sử dụng.
Không có loại địa chỉ boardcast như trong Ipv4 ; vì chức năng của loại địa chỉ này đã bao gồm trong nhóm địa chỉ multicast.
c)Phân bổ địa chỉ Ipv6
Kích thước của địa chỉ Ipv6 có chiều dài gấp 4 lần kích thước của địa chỉ trong Ipv4 (32*4=128). Do đó là có khoảng 4 x 4 tỉ không gian địa chỉ, khoảng :340, 282, 366, 920, 938, 463, 374, 607, 431, 768, 211, 456 địa chỉ. Đây là một khoảng không gian vô cùng lớn. Theo ước tính lý thuyết có khoảng 655, 570, 793, 348, 866, 943, 898, 599 địa chỉ trên một met vuông bề mặt trái đất. Tuy nhiên, không phải toàn bộ các địa chỉ này đều được sử dụng, những yêu cầu trong thực tế về gán và định tuyến địa chỉ yêu cầu tạo một kiến trúc phân tầng làm cho giảm hiệu quả của việc sử dụng không gian địa chỉ. Theo thống kê. địa chỉ 128 bit của Ipv6 là một điều không tưởng.
Việc xác định loại địa chỉ dựa vào các bit đầu tiên của địa chỉ đó. Cơ chế này gọi là định dạng tiền tố FP (format Prefix). Phân bố của FP như sau:
Phân bố
Tiền tố
Chiếm tỉ trọng trong không gian địa chỉ
Dự trữ
00000000
1/256
Chưa định danh
00000001
1/256
Dự trữ phân bổ cho NSAP
0000001
1/128
Dự trữ cho phân bổ IPX
0000010
1/128
Chưa gán
0000011
1/128
Chua gán
00001
1/32
Chưa gán
0001
1/16
Chưa gán
001
1/8
Địa chỉ Unicast dành cho các TLA
010
1/8
Chưa gán
011
1/8
Dự trữ cho các mạng ảo
100
1/8
Địa chỉ Unicast
100
1/8
Chưa gán
101
1/8
Chưa gán
101
1/8
Chưa gán
101
1/8
Chưa gán
101
1/8
Chưa gán
101
1/8
Chưa gán
101
1/8
Chưa gán
101
1/8
Địa chỉ Link-Local Unicast
111111110 10
1/1024
Địa chỉ Site-local Unicast
111111110 11
1/1024
Địa chỉ Multicast
111111111
1/256
Bảng 1: Phân bố các Prefix
Theo sự phân bố này, có một phần được dành cho địa chỉ NSAP, địa chỉ IPX và địa chỉ trong các mạng ảo (VPN). Phần còn lại của không gian địa chỉ chưa được gán sẽ được sử dụng trong tương lai. Những phần này có thể được sử dụng để mở rộng những địa chỉ đang sử dụng (như thêm các nhà cung cấp địa chỉ) hay những người sử dụng mới (ví dụ những mạng cục bộ hay những người dùng đơn lẻ ). Chú ý rằng nhóm địa chỉ anycast không được chỉ ra ở trong bảng phân bổ này vì sự phân bổ của chúng đã đựoc bao trùm bởi không gian địa chỉ loại unicast.
Theo dự đoán có khoảng 15% không gian địa chỉ sẽ được sử dụng vào giai đoạn đầu, còn lại khoảng 85% sẽ được dự trữ cho tương lai.
Để quản lý không gian địa chỉ hiệu quả và hợp lý, các nhà thiết kế giao thức Ipv6 đã đưa ra 2 cơ chế cấp phát địa chỉ như sau:
Cơ chế cấp phát chung:
Rút kinh nghiệm từ việc phân bổ địa chỉ của Ipv4, các nhà thiết kế Ipv6 đã xây dựng một cơ chế phân bổ địa chỉ hoàn toàn mở, nghĩa là nó không phụ thuộc vào giai đoạn ban đầu, hoàn toàn có thể thay đổi tuỳ thuộc vào những biến động trong tuơng lai về việc cấp phát và sử dụng địa chỉ cho các dịch vụ, các vùng khác nhau. Mặt khác, những người thiết kế Ipv6 đã dự đoán trước những khả năng có thể phải sửa đổi một vài điểm như cấu trúc các loại địa chỉ, mở rộng một số loại địa chỉ…. . trong tương lai. Điều này là hoàn toàn đúng đắn với một giao thức đang trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện.
Phân loại địa chỉ Ipv6 không phải chỉ để cung cấp đầy đủ các dạng khuôn mẫu và dạng tiền tố của các loại địa chỉ khác nhau. Việc phân loại địa chỉ theo các dạng tiền tố một mặt cho phép các host nhận dạng các ra loại địa chỉ theo các dạng tiền tố một mặt cho phép các host nhận dạng ra các địa chỉ :mà ứng với mỗi loại địa chỉ cho các loại ứng xử khác nhau. Ví dụ:Vói địa chỉ có dạng tiền tố FE80::/16 host sẽ nhận dạng đó là địa chỉ link-local chỉ để kết nối các host trong cùng một mạng …
Cấp phát địa chỉ theo nhà cung cấp
Theo cấu truc bảng phân bổ địa chỉ ở trên, một trong số những loại địa chỉ Ipv6 quan trọng nhất là dạng địa chỉ Global Unicast. Dạng địa chỉ này cho phép định danh một giao diện trên mạng internet (mạng Ipv6) có tính duy nhất trên toàn cầu, ý nghĩa loại địa chỉ này cũng giống như loại địa chỉ Ipv4 định danh một host trong mạng hiện nay. Không gian của mạng địa chỉ Global Unicast là rất lớn ; để quản lý và phân bổ hợp lý các nhà thiết kế Ipv6 đã đưa ra mô hình phân bổ địa chỉ theo cấp các nhà cung cấp dịch vụ Internet.
Dạng địa chỉ này gồm 3 bit tiền tố 010 theo sau bởi 5 thành phần mà mỗi thành phần này đuợc quản lý bởi các nhà cung cấp dịch vụ theo các cấp độ khác nhau. Tuỳ theo việc phân bổ địa chỉ các thành phần này có một chiều dài biến đổi- điều này một lần nữa cho thấy tính “động” trong việc cấp phát và quản lý địa chỉ Ipv6
d)Các cách viết địa chỉ Ipv6
Địa chỉ Ipv6 có chiều dài 128 bit, nên vấn đề nhớ địa chỉ là hết sức khó khăn ; Nếu viết theo dạng thông thường của địa chỉ Ipv4 thì một địa chỉ Ipv6 có 16 nhóm địa chỉ hệ cơ số 10. Do vậy các nhà thiết kế đã chọn cách viết 128 bit địa chỉ thành 8 nhóm, mỗi nhóm chiếm 2 bytes, mỗi bytes biễu diễn bằng 2 hệ số 16 ; mỗi nhóm ngăn cách nhau bởi dấu hai chấm. Ví dụ :
FEDL:BA98:7654:FEDC:BA98:3210:ABCD
Ký hiệu Hexa có lợi là gọn gàng và nhìn đẹp hơn. Tuy nhiên cách viết này cũng gây những phức tạp nhất định cho người quản lý hệ thống mạng. Nhìn chung, mọi người thường sử dụng theo tên các host thay bằng các địa chỉ (điều này đuợc áp dụng từ Ipv4 khi mà địa chỉ còn đơn giản hơn rất nhiều)
Một cách làm đơn giản khác là các quy tắc cho phép viết tắt. Vì khởi điểm ban đầu chúng ta sẽ không sử dụng tất cả 128 bit chiều dài địa chỉ do đó sẽ có rất nhiều số 0 ở các bit đầu.
Một cải tiến đầu tiên là được phép bỏ qua những số không đứng trước thành phần hệ số 16, viết 0 thay vì viết đầy đủ 0000, ví dụ viết 8 thay vì 0008, viết 800 thay vì 0800. Qua cách viết này cho chúng ta những địa chỉ ngắn gọn hơn
Ngoài ra xuất hiện một số quy tắc rút gọn đó là quy tắc về viết dấu hai chấm. Trong một địa chỉ, một nhóm liên tiếp các số 0 có thể đuợc thay thế bởi hai dấu chấm.
e)Phương thức gán địa chỉ Ipv6
Theo đặc tả của giao thức Ipv6, tất cả các loại địa chỉ Ipv6 được gán cho các giao diện, không gán cho các nodes (khác với Ipv4). Một địa chỉ Ipv6 loại Unicast đuợc gán cho một giao diện đơn. . Vì mỗi giao diện thuộc một node đơn do vậy, mỗi địa chỉ unicast định danh một giao diện sẽ định danh một node.
Một giao diện đơn có thể được gán nhiều địa chỉ Ipv6 (cho phép cả 3 dạng địa chỉ đồng thời unicast, anycast, multicast), nhưng nhất thiết một giao diện phải được gán một địa chỉ Ipv6 dạng Unicast link-local. Các nhóm địa chỉ của dạng địa chỉ Unicast sẽ đựoc trình bày ở phần sau. Để thực hiện các kết nối Point-to-point giữa các giao diện người ta thường gán các địa chỉ dạng unicast link-local cho các giao diện thực hiên kết nối.
Đòng thời, Ipv6 còn cho phép một địa chỉ unicast hoặc một nhóm địa chỉ unicast sử dụng để định danh một nhóm các giao diện. Với phương thức gán địa chỉ này, một nhóm giao diện đó được hiểu như là một giao diện trong tầng IP
Theo thiết kế của Ipv6, một host có thể định danh bởi các địa chỉ sau:
-Một địa chỉ link-local cho mỗi giao diện gắn với host đó
-Một địa chỉ unicast được cung cấp bởi các nhà cung cấp dịch vụ
-Một địa chỉ Loopback
-Một địa chỉ Multicast, mà host đó là thành viên trong nhóm có địa chỉ Unicast đó
Một router nếu hỗ trợ Ipv6 sẽ nhận biết tất cả các loại địa chỉ mà host chấp nhận kể trên, ngoài ra nó còn có thể đựoc gán các loại địa chỉ sau:
-Tất cả các địa chỉ Multicast được gán trên Router
-Tất cả các địa chỉ Anycast được cấu hình trên routerư
-Tất cả các địa chỉ Multicast thuộc các nhóm router quản lý.
2. 3. 2. Cấu trúc và đặc điểm của các dạng địa chỉ Ipv6
a)Địa chỉ Unicast
Unicast là một tên mới thay cho kiểu địa chỉ điểm-điểm đã được sử dụng trong Ipv4. Loại địa chỉ này được sử dụng để định danh cho một giao diện trên mạng. Một packet có địa chỉ đích là dạng địa chỉ Unicast sẽ đựoc chuyển tới giao diện định danh bởi địa chỉ đó.
Phân loại địa chỉ đó:
Địa chỉ Unicast được chia thành các nhóm nhỏ sau:
-Địa chỉ Global Unicast :Được sử dụng để định dạng các giao diện ; cho phép thực hiện kết nối các host trong mạng Ipv6 toàn cầu. Tính chất loại địa chỉ này cũng giống như địa chỉ Ipv4 định danh một host trong mạng Internet hiện nay.
-Địa chỉ Site-local :Được sử dụng để định dạng các giao diện ; cho phép thực hiện các kết nối giữa các host trong mạng local.
-Địa chỉ link-local:Được sử dụng để định danh một giao diện.
-Ngoài ra còn có một số dạng địa chỉ Unicast khác như NSAP address, IPX address
Mỗi dạng địa chỉ Unicast ddeeuf có cấu trúc riêng. Sau đay sẽ phân tich cấu trúc của các dạng địa chỉ này.
Địa chỉ Global Unicast:
Theo RFC 2374 mô tả cấu trúc các dạng địa chỉ Unicast. Dạng địa chỉ này đựoc sử dụng để hỗ trợ cho những nhà cung cấp dịch vụ hiện đang là các đầu mối kết nối internet (các ISP). Ngoài ra dạng địa chỉ này còn đựoc sử dụng để hỗ trợ các nhà cung cấp dich vụ mới có nhu cầu kết nối toàn cầu. Cấu trúc loại địa chỉ này đuợc xây dựng theo kiến trúc phân cấp rõ ràng. Cụ thể như sau:
3
13 bits
8 bits
24 bits
16 bits
64 bits
FP
TLA ID
RES
NLA ID
SLA ID
Interface ID
Bảng 2 :Cấu trúc các dạng địa chỉ Unicast
Trong đó :
-001 :Định dạng tiền tố đối với loại địa chỉ Global Unicast
-TLA ID :Định dạng cho nhà cung cấp cao nhất trong hệ thống các nhà cung cấp dịch vụ (Top level aggregation)
-RES:Chưa sử dụng
-NLA ID: Định danh của nhà cung cấp tiếp theo trong hệ thống các nhà cung cấp dịch vụ(Next Level Aggregation)
-SLA ID:Định danh các Site của khách hàng cuối
-Interface ID: Định danh của giao tiếp của các host trên mạng trong Site của khách hàng cuối ; Định danh này được xác định theo chuẩn EUI-64.
Như vậy, loại địa chỉ Global Unicast đựoc thiết kế phân cấp ; Cấu trúc của nó được chia thành 3 phần:
-48 bits Public Topology
-16 bits Site Topology
-64 bits định danh giao diện
Trong mỗi phân cấp có thể chia làm nhiều cấp con ; hình sau minh hoạ cấu trúc phân cấp này:
Hình 10 :3 phần của địa chỉ Unicast
Theo hình trên, phần giá trị TLA ID có ý nghĩa định danh nhà cung cấp dịch vụ Ipv6 hàng đầu thế giới. Có tổng số 213 = 8192 tối đa các TLA. Để có đuợc một TLA ID, phải yêu cầu xin cấp qua một số tổ chức quốc tế. Đối với một ISP (chẳng hạn như VDC) - trong mô hình này đóng vai trò là một NLA cần phải xin cấp giá trị NLA ID của mình thông qua các tổ chức TLA. Hiện nay có một số phương thức xin cấp giá trị NLA ID như sau:
-Xin cấp qua 6bone Community: Khi đó giá trị TLA ID của tổ chức này là 3FFE::/16. 6Bone là một mạng thử nghiệm Ipv6 trên toàn cầu. Sau khi thoã mãn một số yêu cầu của tổ chức này 6Bone sẽ cấp phát giá trị NLA ID cho ISP xin cấp địa chỉ.
-Xin phép qua International Regional Internet Registry (RIP)
-Giả lập địa chỉ Ipv6 từ địa chỉ Ipv4- gọi là 6to4(cơ chế 6to4). Với phương thức này, thuận lợi cho việc thử nghiệm kết nối Ipv6 dựa trên nền Ipv4. Từ một host sử dụng địa chỉ Ipv4 có một địa chỉ Ipv6 dạng Global Unicast như sau: TLA ID có tiền tố 2002::/16, 32 bits còn lại là địa chỉ Ipv4 của host đó.
Đối với mỗi tổ chức TLA. Sau khi có TLA ID có thể cấp phát tiếp đến các tổ chức cấp dưới. Với mỗi TLA cho phép định danh tới 224 các tổ chức khác nhau. Đối với cấu trúc của NLA ID được phân ra thành các phần nhỏ, sử dụng n bits trong số 24bits NLA để định danh tổ chức đó, 24-n bits còn lại dùng để định danh các host trong mạng Mặt khác, trong phần địa chỉ NLA ID có thể phân thành các NAL cấp thấp hơn để cho phép cung cấp tới nhiều Site sử dụng (end-user-site) khác nhau. Đối với một end-user-site sau khi yêu cầu xin địa chỉ sẽ nhận được các thông tin về TLA ID, NLA ID, sẽ gán các giá trị SLA ID để định danh các site trong tổ chức đó, và ddeer định dạng các subnet trong mạng con. Giá trị này cũng tương tự như việc phân bổ các địa chỉ đối với mỗi tổ chức sau khi nhận được vùng địa chỉ trong Ipv4, ngoại trừ là số lượng subnet trong một site có thể lên tới 65, 535 subnets khác nhau)
Địa chỉ Local Unicast
Nhiều hệ thống mạng cục bộ hiện nay đang sử dụng giao thức TCP/IP- đó là các mạng Intranet. Cũng giống như Ipv4 có sử dụng một loại địa chỉ đặc biệt để định danh các host trong mạng riêng (địa chỉ 192. 168. 0. 0) ; Đối với Ipv6 có hai loại địa chỉ Unicast hỗ trợ các liên kết cục bộ trong một mạng, đó là địa chỉ Link-local Address và Site –Local Address.
Địa chỉ Link-local Unicast được sử dụng trên một kết nối đơn và địa chỉ Site-Local đựoc sử dụng để liên kết các site với nhau.
Hình sau đây minh hoạ sự khác nhau giữa việc sử dụng các loại địa chỉ local-Unicast
Sử dụng địa chỉ Site-local Unicast gán với một giao diện để thực hiện các liên kết với các host trong một site.
Hình 11:Các loại địa chỉ local unicast
Cấu trúc của địa chỉ Site-Local như sau:
10 bits
38 bits
16 bits
64 bits
1111 1110 11
0
Subnet ID
Interrface ID
Bảng 4:Cấu trúc địa chỉ site local unicast
Quy tắc định tuyến đối với dạng địa chỉ Site –Local:
-Một Router không thể chuyển các gói tin có địa chỉ nguồn hoặc địa chỉ đích là địa chỉ Site-Local Unicast ra ngoài mạng đó.
-Các địa chỉ site local không thể được chọn đường trên toàn bộ mạng internet. Phạm vi của chúng chỉ được đăng báo phạm vi một site, chúng chỉ có thể dùng cho các chuyển đổi giữa hai trạm của cùng một site.
Phần giá trị Interface ID được mô tả giống với dạng địa chỉ Global unicast. Sử dụng link local để thực hiện kết nối giữa 2 host trực tiếp với nhau.
Hình 12 :Kết nối trực tiếp 2 host dùng link local
Cấu trúc của địa chỉ Link-local như sau:
10 bits
54 bits
64 bits
1111 1110 10
0
Interface ID
Bảng 5:Cấu trúc địa chỉ Link –local
Giá trị Interface ID được mô tả giống với dạng địa chỉ Global Unicast. Những địa chỉ này chỉ được định nghĩa trong phạm vi kết nối point-to-point và chỉ có thể sử dụng bởi các trạm kết nối với cùng 1 liên kết hay cùng 1 mạng địa phương.
Quy tắc định tuyến đối với dạng địa chỉ Link-local:
-Một router không thể chuyển bất kỳ gói tin nào có địa chỉ nguồn hoặc địa chỉ đích là địa chỉ link-local
Một giao diện có thể gán nhiều địa chỉ khác nhau. Hình sau minh hoạ các loại địa chỉ được gán cho một host nói chung khi thực hiện kết nối tới mạng Internet Ipv6 (ví dụ mạng 6Bone):
Hình 13 :Các loại địa chỉ cần gán đối với một Site vào mạng Ipv6
Địa chỉ Unicast theo chuẩn IPX
Cấu trúc của địa chỉ IPX theo chuẩn của địa chỉ Ipv6 có định dạng như sau:
7
121 bits
0000 010
Chưa định nghĩa
Bảng 6: Cấu trúc của địa chỉ IPX theo chuẩn của địa chỉ Ipv6
Chi tiết về loại địa chỉ IPX theo chuẩn Ipv6 chưa được xác định vì còn đang trong giai đoạn nghiên cứu.
b)Địa chỉ Anycast
Địa chỉ Anycast được gán cho một nhóm các giao diện (thông thường là những nodes khác nhau), và những gói tin có địa chỉ này sẽ được chuyển đổi giao diện gần nhất có địa chỉ này. Khái niệm gần nhất ở đây dựa vào khoảng cách gần nhất xác định qua giao thức định tuyến sử dụng. Thay vì gửi một gói tin đến một server nào đó, nó gửi gói tin đến địa chỉ chung mà sẽ được nhận ra bởi tất cả các loại server trong loại nào đó, và nó tin vào hệ thống định tuyến để đưa gói tin đến các server gần nhất này.
Trong giao thức Ipv6, địa chỉ anycast không có cấu trúc đặc biệt. Các địa chỉ Anycast nằm trong một phần không gian của địa chỉ unicast. Do đó, về mặt cấu trúc địa chỉ Anycast không thể phân biệt với địa chỉ unicast. Khi những địa chỉ unicast được gán nhiều hơn cho một giao diện nó trở thành Anycast. Đối với những Node gán địa chỉ này phải được cấu hình với ý nghĩa của địa chỉ anycast
Qua cơ chế định tuyến đối với dạng địa chỉ Unicast mô tả ở trên ta thấy, mục đích thiết kế của loại địa chỉ Anycast để hỗ trợ những những tổ chức mà cấu trúc mạng của nó được chia theo cấu trúc phân cấp; Trong đó địa chỉ Anycast được gán cho các router- mà các router này được chia thành các vùng hay các” đoạn “. Khi một packer đến router cao nhất trong hệ thống sẽ được chuyển đến đồng thời các router trong một “đoạn”.
Sử dụng địa chỉ anycast có những hạn chế sau:
-Một địa chỉ anycast không được sử dụng làm địa chỉ nguồn của một gói tin Ipv6
-Một địa chỉ anycast được phép gán cho một host Ipv6 ; do vậy nó chỉ được gán cho một router Ipv6.
Có một loại địa chỉ anycast đặc biệt được sử dụng để định danh cho một subnet gọi là Subnet-Router anycast. Cấu trúc của loại địa chỉ này như sau:
N bit
128-n bits
Subnet prefix
00000000000000000
Bảng 7 :Địa chỉ Anycast
Phần subnet prefix trong cấu trúc này xác định một liên kết cụ thể. Tính chất của loại địa chỉ Anycast giống với địa chỉ Unicast link-local gán cho các giao diện trong đó phần định danh các giao diện đặt bằng 0.
Loại địa chỉ này được sử dụng cho những node cần giao tiếp đồng thời với một tập các router trên mạng. Ví dụ người dùng di động có nhu cầu đồng thời cùng một lúc giao tiếp với các host cố định và với các host trong mạng di động.
c)Địa chỉ Multicast
Cấu trúc chung
Địa chỉ multicast được gán cho một nhóm các giao diện (thông thường là những node khác nhau). Một gói tin có địa chỉ multicast sẽ được chuyển tới tất cả các giao diện có gán địa chỉ multicast này.
Tiền thân của địa chỉ Multicasting ra đời trên cơ sở là một loai địa chỉ được thêm vào trong kiến trúc địa chỉ Ipv4 năm 1988 thông qua cơ chế xác định các địa chỉ lớp D và thủ tục quản lý nhóm (IGMP). Những người thiết kế Ipv6 muốn tạo ra những thủ tục mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc triển khai Multicasting sử dụng trên tất cả các node Ipv6. Các thủ tục mới cho phép nhận dạng địa chỉ Multicasting mà tất cả các router sẽ nhận ra, chúng liên kết các hàm (chức năng) ICMP của Ipv4 trong thủ tục ICMP cơ bản cuả Ipv6, chúng đảm bảo rằng tất cả router có thể định tuyến các gói tin multicast.
Cấu trúc của địa chỉ Multicast như sau:
8 bits
4 bits
4 bits
112 bits
11111111
Flags
scope
ID nhóm
Bảng 8:Cấu trúc địa chỉ Multicast
8 bits đầu của địa chỉ là Prefix có ký hiệu là 11111111. 4 bit tiếp theo là các cờ, tiếp theo là 4 bit phạm vi (scope), và bộ nhận dạng nhóm 112 bit.
4 bit cờ thì có bit thứ 4 được dùng cho Ipv6. 3 bit còn lại chưa được định nghĩa và gán giá trị 0. Cụ thể như sau:
0
0
0
T
Bit thứ tư đuợc viết tắt là T. Địa chỉ được phân cố định bởi Global Internet Numbering Authority. Địa chỉ tạm thời không đuợc phân cố định >khi 1 nhóm quyết định thực hiện multicast nó hỏi Sessison directory để địa chỉ ngẫu nhiên. Địa chỉ ngẫu nhiên được kiểm tra bởi thuật toán phát hiện xung đột. Mỗi khi session kết thúc, địa chỉ đựoc bỏ qua.
Trường scope (phạm vi) được mã hoá là 4 bit nguyên. Nó được dùng để giới hạn phạm vi nhóm địa chỉ multicast. Các gía trị của trường này gồm:
Bit
Giá trị
0
Để dành
1
Node có phạm vi địa phương
2
Link có phạm vi địa phương
3
Chưa cấp
4
Chưa cấp
5
Site có phạm vi địa phương
6
Chưa cấp
7
Chưa cấp
8
Tổ chức có phạm vi địa phương
9
Chưa cấp
A
Chưa cấp
B
Chưa cấp
C
Chưa cấp
D
Chưa cấp
E
Phạm vi tổng thể
F
Chưa cấp
Bảng 9:Giá trị các bit trong trường scope
Các giá trị này cho phép việc xác định chính xác phạm vi vùng của địa chỉ multicast. Qua đó, các router sẽ định tuyến được các gói tin trong phạm vi giới hạn. Thông thường các phạm vi tổ chức có thể đuợc thực hiện nếu các router biết các liên kết nào thuộc về tổ chức nào.
Chú ý rằng bộ chỉ thị phạm vi không ảnh hưởng ý nghĩa của nhóm đựoc phân cố định. Xem xét ví dụ bộ chỉ thị nhóm 43(hex) (được phân cho các server thời gian mạng(NTP)). Chúng ta có thể làm vô hiệu nó với 5 phạm vi 1, 2, 5, 8 và E để nhận được 5 địa chỉ Multicast
*FF01::43 biểu diễn tất cả các server NTP trên cùng một node với người gửi.
*FF02::43 biểu diễn tất cả các server NTP trên cùng liên kết với người gửi
*FF05::43 biểu diễn tất cả các server NTP trên cùng vị trí (site) với người gửi
*FF08::43 biểu diễn tất cả các server NTP trên cùng tổ chức với người gửi
*FF0E::43 biểu diễn tất cả các server NTP trên internet
Không giống NTP, nhiều nhóm chỉ có thể được dùng trong phạm vi giới hạn. Ví dụ, việc gửi tin đến “tất cả các server cấu hình host động trên Internet” sẽ không có ý nghĩa.
Các địa chỉ Multicast định nghĩa trước:
Các nhận dạng nhóm như “Tất cả các server NTP “ thuờng đuợc cấp phát bởi Internet Asigned Number Authority. Chúng thường đuợc đặt sẵn vào các ứng dụng tiêu biểu của nhóm. Tất cả các chương trình quản lý thời gian mạng, ví dụ muốn biết địa chỉ của “ tất cả các server NTP trên Site “ là FFOS::43. Chúng ta sẽ đuợc khai báo hội viên với nhóm này khi chuương trình ứng dụng được bắt đầu, cùng cách mà các thành viên của video conference ra nhập địa chỉ Multicast mà đã được cấp phát động vào nhóm của chúng.
Multicast routing
Multicast routing trên internet còn đang là chủ đề nghiên cứu. Các thông điệp yêu cầu, ”thông báo”, và “kết thúc” là những gì đã có tại thời điểm hiện tại. Hiện nay có một số quan điểm phát triển chính như sau:
*Thêm một hay vài trường hợp địa chỉ nguồn trong thông báo để chỉ ra là có trạm muốn nghe một tấp hợp con các địa chỉ nguồn trong nội bộ 1 nhóm
*Thêm một hay vài trường hợp địa chỉ nguồn trong thông điệp kết thúc để chỉ ra nó không quan tâm đến 1 hay vài thành viên của nhóm.
Các thủ tục định tuyến Multicast cần thêm thông điệp để nhận ra các liên kết nào của Router sẽ chuyển qua các gói tin của 1 nhóm nào đó. Chúng ta có thể phải thêm các thông điệp cho mục đích đó, hoặc thêm các truờng trong thông điệp thông báo.
Mặt khác việc mở rộng rõ ràng là tương thích với tương lai. Các trạm Ipv6 theo cơ chế hiện hành sẽ vẫn có thể nhập và rời các nhóm.
d)Các dạng địa chỉ Ipv6 khác
Ngoài các dạng địa chỉ Ipv6 đã mô tả, còn có một số dạng địa chỉ Ipv6 khác như sau
-Địa chỉ không xác định
-Địa chỉ Loopback
-Địa chỉ Ipv4 trong không gian địa chỉ Ipv6
Địa chỉ không xác định:
Địa chỉ 0::0:0:0:0:0:0:0:0 đựoc gọi là địa chỉ không xác định. Địa chỉ này không thật sự được gán cho một giao diện nào. Một host khi khởi tạo có thể sử dụng địa chỉ này như là địa chỉ nguồn của nó trước khi biết địa chỉ thật của nó. Một địa chỉ không xác định không bao giờ có thể đóng vai trò là địa chỉ đích trong gói tin Ipv6 hay trong phần header của quá trình định tuyến.
Địa chỉ Loopback:
Địa chỉ 0:0:0:0:0:0:0:1 đuợc gọi là địa chỉ Loopback. Một nodes có thể sử dụng địa chỉ này để gửi gói tin Ipv6 cho chính nó. Địa chỉ Loopback không bao giờ đuợc sử dụng như địa chỉ nguồn của bất kỳ gói tin Ipv6 nào để gửi ra ngoài nodes. Một gói tin với địa chỉ Loopback là địa chỉ đích sẽ không bao giờ có thể ra khỏi node đó.
Địa chỉ IP v4 trong IP v6
Như phần mô tả các loại ký hiệu địa chỉ Ipv6 đã trinh bày, địa chỉ Ipv4 là một tập con của không gian địa chỉ Ipv6. Do đó cấu trúc của một địa chỉ Ipv4 đựoc mô tả trong Ipv6 như sau:
96 bits
32 bits
0000000……. . 0000000
Địa chỉ Ipv4
Bảng 10: Cấu truc địa chỉ Ipv4 trong Ipv6
Như vậy địa chỉ Ipv6 sẽ sử dụng 32 bits thấp để mô tả lại một địa chỉ Ipv4; 96 bits cao sẽ đựoc gán bằng 0
Phần 3: Hoạt động của IPv6 và các thủ tục cơ bản
3. 1. Thủ tục ICMPv6
3. 1. 1. Giới thiệu
Một số chức năng của ICMP như sau:
–Thông báo lỗi mạng
–Thông báo tắc nghẽn mạng
–Hỗ trợ xử lý sự cố
–Thông báo thời gian timeout
ICMPv6 (Internet Control Massage Protocol Version 6) là một phần tổ hợp cấu trúc IPv6 và phải được hỗ trợ bởi mọi thực thi IPv6 như trên.
3. 1. 2. Thông điệp ICMPv6
Là thông tin đảm nhiệm báo cáo tình trạng hoạt động của mạng, báo cáo lỗi, chuẩn đoán mạng.
Gồm 2 loại:
•Thông điệp lỗi: sử dụng để báo lỗi trong quá trình chuyển tiếp và phân phối gói tin ipv6, thức hiện bởi node đích hoặc router. Gồm: Destination Unreachable, Packet Too Big, Time Exceeded, and Parameter Problem.
Các thông điệp này có giá trị của 8 bít trường Type từ 0 đến 127(high order bit được đặt
giá trị 0)
• Thông điệp thông tin: cung cấp chức năng chuẩn đoán và một số chức năng khác, đó là Multicast Listener Discovery- MLD và Neighbor Discovery - ND. Trường Type của gói tin ICMPv6 thông tin sẽ có giá trị trong khoảng 128 -255 (highorder bit được thiết lập giá trị 1).
Chia làm 2 nhóm:
-Thông điệp thông tin cơ bản:chức năng chuẩn đoán mạng. Ví dụ:Echo Request/Reply.
-Thông điệp thông tin mở rộng:bao gồm
• Thông điệp quản lý nhóm Multicast
-Multicast Listner Discovery, Multicast Listner Report, Multicast Listner Done là những thông điệp được sử dụng trong thủ tục MLD (Multicast Listener Discovery)để quản lý nhóm multicast, phục vụ cho định tuyến multicast.
• Thông điệp Neighbor Discovery
Multicast Listner Discovery, Multicast Listner Report, Multicast Listner Done là những thông điệp này được sử dụng trong thủ tục Neighbor Discovery, là thủ tục thực hiện chức năng giao tiếp giữa các node lân cận trong một đường kết nối.
3. 1. 3. Nhiệm vụ của ICMPv6:
–Tìm Path MTU (Path MTU Discovery).
–Thông báo lỗi(Error Notification).
–Thông báo thông tin.
–Tìm kiếm router và prefix địa chỉ.
–Tự động cấu hình địa chỉ(Address auto configuration).
–Kiểm tra trùng lặp địa chỉ(Duplicate Address Detection).
–Phân giải địa chỉ(Address Resolution).
–Kiểm tra tính kết nối được của node lân cận (Neighbor Reachability Detection).
–Redirect
•Tìm Path MTU (Path MTU Discovery).
– Router ipv6 không tiến hành phân giải địa chỉ gói tin. Do vậy ipv6 cần biết giá trị MTU nhỏ nhất (được gọi là Path MTU) trên toàn bộ đường truyền dẫn để quyết định kích thước gói tin được gửi đến một địa chỉ cụ thể.
– Thông điệp ICMPv6 Packet Too Big được sử dụng trong thủ tục tìm Path MTU.
• Thông báo lỗi(Error Notification).
– Những thông điệp Destination Unreachable, Packet TooBig, Parameter Problem, và Time Exceeded là một phần của quá trình xử lý lỗi.
• Thông báo thông tin.
– Nhằm mục đích dò lỗi và phân tích mạng.
– Thông điệp Echo Request và Echo Reply được sử dụng cho mục đích này.
•Tìm kiếm router và prefix địa chỉ.
– Mục tiêu của quá trình tìm kiếm router là để tìm ra router lân cận trong đường kết nối để sẵn sàng chuyển tiếp gói tin cho host
– Thông điệp Router Solicitation và Router Advertisement được sử dụng cho mục đích này.
• Tự động cấu hình địa chỉ (Address auto configuration).
– Mục đích của nó là tự động gán địa chỉ cho giao diện.
– Quá trình này có 2 dạng thức : không trạng thái (stateless) và có trạng thái (stateful).
• Stateful là hình thức tự động cấu hình địa chỉ của server DHCPv6. Để cấu hình được địa chỉ, host cần sự hỗ trợ và trạng thái cung cấp bởi DHCPv6.
• Stateless là một đặc tính quan trọng của thế hệ địa chỉ ipv6, trong đó host có khả năng tự tìm kiếm thông tin và cấu hình địa chỉ cho giao diện của mình không cần sự hỗ trợ của bất kỳ server nào và bắt đầu từ không có trạng thái.
• Kiểm tra trùng lặp địa chỉ (Duplicate Address Detection) là một phần trong quá trình tự động trong cấu hình địa chỉ. Node chuẩn bị được gắn địa chỉ kiểm tra xem có sự trùng lặp địa chỉ với giao diện hay không.
• Phân giải địa chỉ (Address Resolution).
- Node tìm kiếm thông tin quyết định địa chỉ lớp link-layer của một đích dựa trên địa chỉ IP tương ứng. Không thể có lưu lượng lớp cao được truyền tải cho tới khi nơi gửi biết được địa chỉ vật lý của đích hoặc của nexthop router.
– Thông điệp Neighbor Solicitation và Advertisement được sử dụng cho mục đích này
• Kiểm tra tính kết nối được của node lân cận (Neighbor Reachability Detection).
– Host kiểm tra tính kết nối tới được của đích và router local bằng quy trình Neighbor Unreachability, vốn là một phần của thủ tục Neighbor Discovery.
– Thông điệp Neighbor Solicitation và Advertisement được sử dụng cho mục đích này.
•Redirect.
– Trong quy trình Redirect, một router sẽ thông báo cho host biết host tốt hơn để có thể đi tới một đích nhất định. Đâylà một phần của thủ tục Neighbor Discovery.
– Thông điệp Redirect được sử dụng cho quá trình Redirect
3. 2. Thủ tục Multicast Listener Discovery(MLD)
3. 2. 1. Tổng quan về MLD
–Multicast là một trong những hoạt động đặc trưng của thế hệ địa chỉ IPv6. Việc quản lý quan hệ multicast, hỗ trợ cho định tuyến multicast là vô cùng cần thiết và quan trọng.
–Việc quản lý quan hệ multicast trong IPv6 được thực hiện bởi thủ tục gọi là MLD. Thủ tục này thay thế cho ICMPv2 trong IPv4.
–MLD sử dụng nhóm 3 thông điệp ICMPv6. Các thông điệp nay được trao đỏi giữa router và node cho phép khám phá nhưng node thành viên của multicast, sẵn sàng nhận gói tin gửi đến địa chỉ multicast đó.
–Thông tin này được cung cấp bất cứ khi nào thủ tục định tuyến multicast được kích hoạt trên các router, để đảm bảo rằng các gói tin multicast được truyền tải đến mọi đường link nơi có những node muốn nhận thông tin này.
3. 2. 2. Trạng thái và cách cư xử của router
Router trên một đường link có thểcó hai trạngthái:
– “Truy vấn” khi router được xác định để gửi các truy vấn MLD trên đường link đó.
– “Không truy vấn” khi có một router khác trên đường link đó đã thực hiện gửi truy vấn
Có 3 sự kiện có thể dẫn tới sự thay đổi trạng thái của router
–“Hết thời gian truy vấn” diễn ra khi thời gian đặt cho việc truyền truy vấn hết hạn. Sự kiện này sẽ diễn ra khi router đang ở trạng thái truy vấn.
–“Truy vấn nhận được từ một router có địa chỉ IP thấp hơn” diễn ra khi một thông điệp MLD Query hợp lệ nhận được từ một router khác trên cùng đường link với địa chỉ nguồn IPv6 thấp hơn.
–“ Các thời gian truy vấn khác hết hạn” diễn ra khi thời gian đặt cho truy vấn khác có địa chỉ IP thấp hơn đã hết. Sự kiện này diễn ra khi router đang ở trạng thái không truy vấn.
3. 3. Thông điệp ICMPv6 sử dụng trong thủ tục MLD
– Cấu trúc gói tin MLD: Gồm 3phần
• IPv6 header
• Header mở rộng Hop-by-Hop:Gói tin MLD luôn có header mở rộng hop-by-hop để đảm bảo rằng router sẽ xử lý cả các thông điệp MLD gửi tới những địa chỉ multicast mà bản thân router không nghe lưu lượng.
• Thông điệp MLD
Phần 4: Công nghệ chuyển đổi giao tiếp IPV6-IPv4
4. 1. Tổng quan về công nghệ chuyển đổi IPv4/IPv6
Thủ tục IPv6 phát triển trên nền thủ tục IPv4, do đó trong quá trình triển khai IPv6 trên mạng internet hai thế hệ địa chỉ IPv4 và IPv6 cùng tồn tại trong một thời gian dài. Việc chuyển đổi từ dụng từ thủ tục ipv4 sang thủ tục ipv6 không phải là một điều dễ dàng, cần có những công nghệ phục vụ cho việc chuyển đổi địa chỉ IPv4 sang địa chỉ IPv6.
Những công nghệ chuyển đổi này, cơ bản có thể phân thành ba loại như sau:
– (1)Dual-stack: Cho phép ipv4 và ipv6 cùng tồn tại trong cùng một thiết bị mạng.
– (2)Công nghệ đường hầm (Tunnel): Công nghệ sử dụng cơ sở hạ tầng mạng ipv4 để truyền tải gói tin ipv6, phục vụ cho kết nối ipv6
– 3)Công nghệ biên dịch:Thực chất là một dạng thức công nghệ NAT, cho phép thiết bị chỉ hỗ trợ ipv6 có thể giao tiếp với thiết bị chỉ hỗ trợ ipv4.
– Dual-stack:
• Dual-stack là hình thức thực thi TCP/IP bao gồm cả tầng IP layer của Ipv4 và tầng IP layer của ipv6
• Ứng dụng hỗ trợ dual-stack sẽ hoạt động được cả với địa chỉ ipv4 và địa chỉ ipv6. Việc lựa chọn địa chỉ dựa trên kết quả trả về của truy vấn DNS. Thông thường, theo mặc định, địa chỉ ipv6 trong kết quả trả về của DNS sẽ được lựa chọn so với địa chỉ ipv4.
• Về ứng dụng hiện nay hoạt động dual-stack, có thể lấy ví dụ: HĐH Window XP, Window 2003server, HĐH của router Cisco
– Dual stack trong HĐH window:
Thực tế, thủ tục ipv6 trong HĐH window chưa phải là dual-stack đúng nghĩa. Driver của Ipv6 protocol (Tcpip6. sys) chứa hai thực thi tách biệt của TCP, UDP, tuy nhiên cũng được đề cập như một thực thi dual-stack.
– Dual stack trong HĐH Cisco:
Khi người quản trị mạng cấu hình đồng thời cả hai dạng địa chỉ cho một giao diện trên Cisco router, nó sẽ hoạt động dual-stack.
– Công nghệ đường hầm (Tunnel): Địa chỉ ipv6 phát triển khi Internet ipv4 đã sử dụng rộng rãi và có một mạng lưới toàncầu. Trong thời điểm rất dài ban đầu, các mạng IPV6 sẽ chỉ là những ốc đảo, thậm chí là những host riêng biệt trên cả một mạng lưới ipv4 rộng lớn. Làm thế nào để những mạng ipv6, hay thậm chí những host ipv6 riêng biệt này có thể kết nối với nhau, hoặc kết nối với mạng Internet IPV6 khi chúng chỉ có đường kết nối ipv4. Sử dụng chính cơsở hạ tầng mạng ipv4 để kết nối ipv6 là mục tiêu của công nghệ đường hầm
– Công nghệ chuyển đổi :Công nghệ chuyển đổi thực chất là một dạng công nghệ NAT, thực hiện biên dịch địa chỉ cho phép host chỉ hỗ trợ IPv6 có thể nói chuyện với host chỉ hỗ trợ IPv4. Công nghệ phổ biến được sử dụng là NAT-PT. Thiết bị cung cấp dịch vụ NAT- PT sẽ biên dịch header và địa chỉ cho phép IPv6 host nói chuyện với IPv4 host
4. 2. Công nghệ đường hầm Tunnel
–Công nghệ đường hầm là một phương pháp sử dụng cơ sở hạ tầng sẵn có của mạng ipv4 để thực hiện các kết nối ipv6 bằng cách sử dụng các thiết bị mạng có khả năng hoạt động dual-stack tại hai điểm đầu và cuối nhất định. Các thiết bị này “bọc”gói tin ipv6 trong gói tin có header ipv4 và truyền tải đi trong mạng ipv4 tại điểm đầu và gỡ bỏ ipv4 header, nhận lại gói tin ipv6 ban đầu tại điểm đích cuối đường truyền ipv4
– Giá trị của trường Protocol Field trong ipv4 header luôn được xác lập có giá trị 41 để xác định đây là gói tin ipv6 được bọc trong gói tin ipv4. Nếu trên đường kết nối có sử dụng firewall, firewall này cần phải được thiết lập để cho phép gói tin có giá trị Protocol 41 đi qua.
– Điểm kết thúc tunnel có thể được xác định tại host hoặc router tạo nên kết nối như sau:
• Router-tới-Router
• Host-tới-Router hoặc Router-tới-Host
• Host-tới-Host
– Một số công nghệ đường hầm tunnel:
• Tunnel bằng tay (Configured) :công nghệ TunnelBroker
Trong cấu hình này đòi hỏi phải có cấu hình bằng tay các điểm kết thúc tunnel. Trong tunnel cấu hình bằng tay, các điểm kết cuối đường hầm này sẽ không được suy ra từ các địa chỉ nằm trong địa chỉ nguồn và địa chỉ đích của gói tin.
• Tunnel tự động (Automatic) :Địa chỉ ipv4 của điểm bắt đầu và kết thúc tunnel được rút ra sử dụng giao diện ảo tunnel, tuyến (route), địa chỉ nguồn và địa chỉ đích của gói tin Ipv6.
– Nguyên tắc hoạt động của việc tạo đường hầm:
• Xác định thiết bị kết nối tại các điểm đầu và cuối đường hầm. Hai thiết bị này phải có khả năng hoạt động dual-stack.
• Xác định địa chỉ ipv4 và địa chỉ ipv6 nguồn và đích của giao diện tunnel (hai đầu kết thúc tunnel)
• Trên hai thiết bị kết nối tại đầu và cuối tunnel, thiết lập một giao diện tunnel (giao diện ảo, không phải giao diện vật lý) dành cho những gói tin IPv6 sẽ được bọc trong gói tin IPv4 đi qua.
• Gắn địa chỉ ipv6 cho giao diện tunnel.
• Tạo tuyến (route) để các gói tin ipv6 đi qua giao diện tunnel. Tại đó, chúng được bọc trong gói tin ipv4 có giá trị trường Protocol 41 và chuyển đi dựa trên cơ sở hạ tầng mạng IPV4 và nhờ định tuyến ipv4.
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo điện tử Giới thiệu về IP version 6
website : www. microsoft. com
Tài liệu ebook điện tử Internetworking IPv6 With Cisco Routers
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DAN353.doc