Xét về lịch sử hình thành, vùng đất An
Giang hàm chứa những chuỗi giá trị văn
hóa - lịch sử (phi vật thể) cùng không gian,
công trình kiến trúc, cảnh quan (vật thể)
đều có mối liên kết chặt trẽ phản ánh các
giai đoạn thịnh vượng mà lĩnh vực du lịch
chưa khai phá và bỏ ngỏ. Trong xu thế toàn
cầu hóa, phát triển du lịch địa phương đòi
hỏi “tầm nhìn chiến lược” xa hơn (hay)
mang tính toàn cầu qua việc định vị lại
“ngành công nghiệp không khói” để nâng
tầm các điểm hấp dẫn du khách trong bối
cảnh đô thị lịch sử có tính “thuộc địa” sớm
đóng vai trò và tầm ảnh hưởng “toàn cầu”
trên cơ sở khám phá mới và phát huy hệ
thống giá trị ẩn sâu trong các nơi chốn,
công trình kiến trúc, cảnh quan, cấu trúc và
thành phần di sản của hai thành phố Châu
Đốc và Long Xuyên.
Ngoài ra, chính quyền địa phương và
các cấp có liên quan cần phải có kế hoạch
đầu tư, quy hoạch và quảng bá để đô thị di
sản An Giang trở thành sản phẩm du lịch
mới, độc đáo nhằm thu hút khách du lịch
trong, ngoài nước.
9 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đô thị di sản - Nền tảng xây dựng sản phẩm du lịch mới phát triển du lịch An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Ngô Minh Hùng và tgk
95
ĐÔ THỊ DI SẢN - NỀN TẢNG XÂY DỰNG
SẢN PHẨM DU LỊCH MỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH AN GIANG
HERITAGE CITY - A BASE TO DEVELOP NEW TOURISM PRODUCTS
TO PROMOTE AN GIANG’S TOURISM
NGÔ MINH HÙNG
và TRẦN THỊ MỸ DIỆU
TS. Trường Đại học Văn Lang, hungnm_vn@vanlanguni.edu.vn, Mã số: TCKH10-08-2018
PGS.TS. Trường Đại học Văn Lang, tranthimydieu@vanlanguni.edu.vn
TÓM TẮT: Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đến năm 2020 và Việt
Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển đến năm 2030 đã được khẳng định tại
Quyết định số 201/QĐ-TTg, ngày 22-1-2013 của Chính phủ và Quyết định số 381/QĐ-
UBND về phát triển ngành du lịch tỉnh An Giang từ năm 2014 đến năm 2020, ngày 23-2-
2016 của tỉnh An Giang. Dưới góc nhìn di sản kiến trúc - đô thị, các chương trình du lịch
của tỉnh từ trước đến nay chưa đề cập rõ các giá trị thẩm mỹ của hình thái đô thị, nghệ
thuật kiến trúc và không gian cảnh quan gắn với lối sống bản địa ở An Giang. Do đó, mục
tiêu bài viết này nhằm xem xét và gợi mở tiềm năng mới trên cơ sở đô thị lịch sử của tỉnh
có tính “thuộc địa” (đô thị từng là khu vực thuộc địa Pháp) làm nền tảng khởi đầu mới
cho phát triển kinh tế “toàn cầu” giai đoạn sắp tới.
Từ khóa: di sản, thuộc địa, toàn cầu, sản phẩm du lịch.
ABSTRACTS: The target of developing tourism into a spearhead economic sector by
2020, and Vietnam to become a country with a developed tourism industry by 2030, has
been affirmed in Decision No. 201/QD-TTg dated January 22, 2013, and Decision No.
381/QD-UBND dated February 23, 2016 on developing tourism in An Giang province
from 2014 to 2020. From the perspective of architectural-urban heritage, previous tourism
programs of the province have not clearly mentioned the aesthetic values of urban form,
architectural art and landscape associated with local lifestyle in An Giang. Therefore, this
article aims to study and point out new potentials on the basis of the "colonial" historic
city (a formerly French colonial city) as the new starting point for the “globalized”
economic development in the coming period.
Key words: heritage, colonial, global, tourism product.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
An Giang có vị trí “trung tâm” (theo
quan điểm không gian vùng của tác giả)
giữa các điểm đô thị tầm cỡ quốc tế ở phía
Tây - Nam Bộ. Các điểm đô thị kể đến
gồm: Thành phố Hồ Chí Minh (phía Đông),
thành phố Cần Thơ, sông Hậu thông
thương cửa biển Định An và Trần Đề (phía
Đông Nam), thành phố Cà Mau, cửa biển
kết nối khu vực Đông Nam Á (phía Nam),
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018
96
đảo Phú Quốc, vịnh Thái Lan (phía Tây),
thành phố Phnôm Pênh (phía Bắc). Đây là
tỉnh có nhiều đặc trưng riêng mang dấu ấn
của nền văn hóa đa sắc thái - dân tộc trong
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Thủy
[7] cho thấy, An Giang từ thế kỷ I đến
thế kỷ VII là một điểm quần cư quan
trọng ở miền Tây sông Hậu. Khởi đầu,
nơi đây mạnh về kinh tế với thương
cảng Óc Eo - lớn nhất Đông Nam Á thời
đó. Nơi đây cũng từng diễn ra cuộc chiến
dài giữa Campuchia và Chămpa (giai đoạn
1113-1220) trên sông Tiền, sông Hậu. Qua
đó cho thấy, An Giang trở thành đầu mối
giao thông thương mại chiến lược; đồng
thời, là trung tâm tiếp nhận văn hóa
nước ngoài và Ấn Độ. Khi đó, An Giang
là một khu đô thị sầm uất có lớp văn hóa cổ
Óc Eo- Ba Thê (Vọng Thê - Thoại Sơn), đá
Nổi (Phú Hòa cách thị xã Long Xuyên
khoảng 7 km), Định Mỹ (núi Sập), Tráp Đá
(núi Chóc), Lỗ Mô (Châu Phú), Núi Sam,
Phum Quao, Trà Cột (Tịnh Biên) và Đam
Pô (Tri Tôn).
Trong thế kỷ VIII, người Khơme đã
đến An Giang cư trú rải rác trên những
vùng đất (giồng) cao ven sông thuận lợi
cho kinh tế nông nghiệp. Tiếp đến đầu thế
kỷ XVIII, cư dân Việt (chủ yếu binh lính
theo Nguyễn Hữu Cảnh, người khai phá
đầu tiên vùng đất An Giang) đã có mặt từ
Chợ Mới đến Cái Hố.
Hình 1. Bản đồ Đông Dương và An Giang năm 1872
Nguồn: www.bandovietnamtreotuong.com (tháng 6-2018)
Cho đến năm 2015, tỉnh An Giang
đang trên đà phát triển mọi mặt và đã có 2
thành phố Châu Đốc và Long Xuyên được
Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công
nhận là đô thị loại II. Đến năm 2017, thành
phố Long Xuyên đang trên hành trình trở
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Ngô Minh Hùng và tgk
97
thành đô thị loại I [12] thuộc tỉnh, tập trung
phát triển mạng lưới các điểm, tuyến du
lịch sinh thái, sản xuất công nghiệp-tiểu thủ
công nghiệp. Về hạ tầng kỹ thuật, thành
phố ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống thoát
nước và xử lý nước thải Long Xuyên, triển
khai các đề án nâng cấp giao thông và các
dự án trọng điểm khác (hạ tầng khu Tây
Sông Hậu, khu hành chính thành phố, cụm
dân cư Tây Khánh 3 mở rộng, khu hành
chính Mỹ Hòa Hưng, khu văn hóa và thể
thao tỉnh An Giang. Ở vùng biên giới Tây
Nam, thành phố Châu Đốc nằm trong vùng
nhiều tiềm năng gắn liền với cửa khẩu Tịnh
Biên, Vĩnh Xương và cửa khẩu quốc gia
Khánh Bình. Dân số thành phố trên 159
nghìn người, tỷ lệ đô thị hóa lên tới 92,55%
(năm 2014) [13]. Đến nay, Châu Đốc được
xem là một thành phố đồng bằng đặc biệt
có sông, núi với cảnh quan tự nhiên hấp
dẫn, nhiều di tích lịch sử-văn hóa được xếp
hạng cấp Quốc gia và tỉnh; đồng thời, được
xác định là thành phố du lịch tâm linh đặc
sắc tại khu vực ngã ba sông Tiền-sông Hậu
[14]. Thành phố gồm 5 phường: Châu Phú
A, Châu Phú B, núi Sam, Vĩnh Mỹ, Vĩnh
Ngươn, và 2 xã Vĩnh Tế, Vĩnh Châu gắn và
trải dài dọc các nhánh sông.
2. NỘI DUNG
2.1. Những giá trị “tiền - đô thị” và “hậu
- thuộc địa” tiềm ẩn
Ở giai đoạn “tiền - đô thị” (qua nghiên
cứu của tác giả, khái niệm này chỉ đặc điểm
một khu vực trong giai đoạn trước khi nơi
đó chính thức được công nhận là đô thị), di
tích Óc Eo cho thấy hình ảnh một quần thể
cổ với nhiều di chỉ cư trú, sản xuất đạt đến
trình độ cao về kiến trúc và kỹ thuật xây
dựng. Khu vực Óc Eo là một trong những
trung tâm hành chính, tôn giáo và xung
quanh là quần thể các khu dân cư rộng với
nhà sàn và mạng lưới kênh đào thủy nông
(trên 200 km) và cảng chính Óc Eo nằm
sâu trong đất liền (cách biển gần 5km).
Ngoài ra, các tiền cảng như: Trăm Phố,
Ông Ngọc, Cần Giờ đều có mối quan hệ
với trung tâm giao thương Óc Eo bằng
những con sông và kênh đào. Hệ thống
cảng này gắn với đường thủy nối liền các
con sông lớn và đổ ra biển cho thấy cảng
rất phát triển hoạt động buôn bán với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới [7].
Ở lối tụ cư, người Việt, Hoa, Khơme,
Chăm đã sử dụng đường thủy, đường bộ di
chuyển đến Châu Đốc - núi Sam, buôn bán
tại những đầu mối giao thông thuận lợi. Đó
là, chợ ở Châu Đốc được hình thành khiến
cho bộ mặt vùng Châu Đốc thay đổi trở
thành trung tâm kinh tế của cả vùng. Trong
khi đó, người Hoa ngày càng đông đảo ở
Tân Châu, Châu Đốc và Châu Phú. Rồi
năm 1840, khâm sai Lê Văn Đức từ trấn
Tây Thành rút về Châu Đốc cùng một số
người Chăm về cư trú và định cư dọc theo
sông Hậu nhờ chính sách “tận dân vi binh”
của vua Thiệu Trị [7]. Những năm 40, thế
kỷ XIX dân cư ở các tỉnh miền Trung tìm
tới vùng Năng Gù (do chính sách cấm đạo
của nhà Nguyễn) để lập làng Năng Gù.
Theo đặc điểm làng xóm, người Việt,
Hoa ở An Giang sống tập trung, xen kẽ
trong các làng. Làng không lũy tre, nhà
không rào. Trong mỗi làng đều có một ngôi
đình làm nơi sinh hoạt của làng. Người Hoa
sống trong làng cùng những người chung
hoàn cảnh, gốc gác, ngôn ngữ, ngành nghề
và tuân thủ những quy ước của làng. Họ
cũng tiến hành xây dựng miếu ông Bổn và
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018
98
miếu bà Thiên Hậu ở mỗi làng. Người
Chăm cất nhà sàn ở dọc theo bờ sông, bờ
kênh và không ở dạng quây quần mà tổ
chức nhà thành từng dãy và lối đi ở giữa.
Người Khơme sống tập trung trong các
phum và chùa Khơme trở thành trung tâm
tôn giáo, văn hóa, xã hội, nơi bảo lưu và
truyền kế di sản văn hóa.
Đối với công trình nhà ở, nhà sàn được
người Khơme, Chăm, Việt, Hoa sử dụng để
ở phía trên; chăn nuôi, kho vật liệu bên
dưới, thích hợp với mùa nước nổi. Người
Khơme cất nhà nơi cao ráo, đất giồng ven
núi hoặc ven các đường mòn. Trong khi đó,
người Việt, Hoa, Chăm cất nhà theo các
kênh, rạch, bờ sông và ưu tiên mặt tiền
quay ra mặt sông. Nên, dân cư thường tập
trung đông tại những nơi giáp mặt nước,
ngã ba (tư) sông, để rồi hình thành nên
điểm quần cư, trao đổi mua bán “trên bến
dưới thuyền”. Chính vì lối tụ cư, phong tục
tập quán của cư dân bản địa mà hầu như
các điểm dân cư xưa phát triển tự do theo
kiểu “làng xóm nông nghiệp”, “buôn bán
gắn với sông nước” (dưới góc nhìn phát
triển đô thị).
Toàn quyền Đông Dương Albert
Sarraut áp đặt tư tưởng cai trị và khai thác
thuộc địa ứng với hoàn cảnh thực tế [3].
Khu vực phía Tây - Nam Kỳ, người Pháp
đã mở rộng lãnh thổ với chế độ bảo hộ sang
phần đất Campuchia (1863) và định ra khu
vực thuộc địa của Pháp giữa Việt, Xiêm và
Trung Quốc qua hiệp ước năm 1884. Như
vậy, không gian “thuộc địa mới” được mở
rộng và không còn đơn thuần “Việt Nam”
nữa. Kế tiếp, người Pháp đã khép kín để
xây dựng vùng thuộc địa riêng này. Bước
đầu, quy hoạch đô thị được thực hiện bằng
lối tư duy “công binh”, “kiểu ô cờ” được áp
dụng nhiều thành phố lớn nhỏ từ Nam ra
Bắc. Đây dường như trở thành hình mẫu đô
thị hiện đại tại thời điểm đó dưới sự thống
trị của Pháp tại Nam Kỳ nói chung và An
Giang nói riêng.
Song song, họ đầu tư xây dựng hệ
thống hạ tầng, trường học và trụ sở để phục
vụ cho quản lý và phát triển thuộc địa. Việc
giới thiệu hệ thống và phương tiện giao
thông mới (ô tô, tàu hỏa, tàu thủy hơi nước)
đã liên kết Nam Kỳ với Campuchia hình
thành không gian thương mại và đô thị mới
có tính chất liên vùng quốc tế. Từ đó, xu
thế di cư “Nam tiến” của người Việt dần
chuyển sang “Tây tiến” phục vụ cho sự
phát triển kinh tế chính trị Đông Dương [3].
Và Châu Đốc, Long Xuyên trở nên quan
trọng hơn trong trục không gian kết nối
Đông - Tây và Nam Kỳ. Hai điểm đô thị
trên một dòng sông đã dần phát triển theo
hình thức thành phố phương Tây hiện đại
tại thời kỳ đó. Lối tổ chức “ô cờ” kết nối
sông Châu Đốc với trục giao thông chính
(đường Thủ Khoa Nghĩa ngày nay) cho
thấy sự kế thừa lối sinh hoạt và giao thương
“trên bến dưới thuyền” của người Việt và
Hoa (hình 2). Đi cùng với hình thái đô thị
đặc trưng đó là hệ thống các ô phố khá rõ
cùng các công trình kiến trúc tiêu biểu.
Trước kia, Châu Đốc từng được ví
trung tâm của một vùng rộng lớn [1]. Rồi
Châu Đốc được người Pháp dùng làm nơi
trông giữ một vùng bao trùm Long Xuyên
(Long Xuyên và Sa Đéc ngày nay). Người
Pháp đã cho xây dựng nhiều công trình trụ
sở, nhà ở phục vụ dân sinh (chợ, trường
học,) mang đặc điểm kiến trúc Pháp,
Pháp - Việt phục vụ bộ máy cai trị và công
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Ngô Minh Hùng và tgk
99
chức chính quyền tại Châu Đốc và Long
Xuyên. Ngoài chợ Châu Đốc (xây năm
1876) còn có đình Thần Châu Phú, Thoại
Ngọc Hậu, nhà các quan chức và người
dân. Ngôi biệt phủ xứ Trương Tấn Dĩ, xây
năm 1921, còn gìn giữ kiểu dáng ban đầu,
trang trí kiểu Pháp cho đến ngày nay.
Qua các giai đoạn thăng trầm của vùng
đất Nam Bộ và „hậu - thuộc địa‟ (dưới góc
nhìn về kiến trúc để chỉ thời kỳ phát triển
sau khi một vùng lãnh thổ không còn chịu
sự cai trị trực tiếp về chính trị của Pháp
nữa), cấu trúc Long Xuyên xưa đã thay đổi
khá nhiều và có phần hiện đại cho một
thành phố trẻ và năng động. Tuy nhiên về
lịch sử đô thị, Long Xuyên dường như xuất
phát từ cồn đất cao rộng, bao quanh bởi
sông Hậu, rạch Rạch Giá - Long Xuyên,
cầu Quay. Về mặt hình thái đô thị, bản đồ
năm 1920 (hình 3) đã chỉ ra cấu trúc đô thị
ở đây được hoạch định theo mạng lưới “ô
cờ” và trải dọc bên bờ sông Hậu [11].
Hình 2. Châu Đốc năm 1890
Nguồn: commons.wikimedia.org (tháng 6/2018)
Hình 3. Long Xuyên năm 1920
Nguồn: sites.google.com (tháng 6/2018)
Có thể thấy một số công trình còn tồn
tại đến nay đã phản ánh hình ảnh đô thị
thuộc địa ở Châu Đốc và Long Xuyên. Đầu
tiên, phong cách kiến trúc Pháp (cổ điển,
tân cổ điển, romance, modernism, art
noveau, art deco) (hình 4) như: nhà thờ
Năng Gù, dinh Tham biện Châu Đốc, nhà
thờ Cù lao Giêng, dinh Tham biện Long
Xuyên, cầu Hoàng Diệu, cầu Quay, trường
Tiểu học Pháp - Việt, nhà Thờ Cái Đôi.
Tiếp đến, kiến trúc giao thoa (Pháp - Việt)
và Đông Dương gồm: biệt thự tại Châu
Đốc, bệnh viện Long Xuyên, rạp chiếu
bóng Nam Xương, trường Trung học Long
Xuyên, đình Thần Bình Long, đình Thần
Bình Mỹ, đình Châu Phú, miếu Bà Chúa
Xứ - Núi Sam, thánh đường Hồi giáo
Chăm, lăng Thoại Ngọc Hầu và hồ Ông
Thoại [9].
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018
100
Hình 4. Một số hình ảnh đô thị thuộc địa Châu Đốc và Long Xuyên xưa
Nguồn: banxuabannay.blogspot.com (tháng 6/2018)
2.2. Đô thị “thuộc địa” di sản vươn tầm
“toàn cầu”
Nhìn ra khu vực, một số nơi chốn có
chung đặc điểm từng là thuộc địa, quy mô
vừa và nhỏ, đa dạng văn hóa Đông - Tây
so với Châu Đốc và Long Xuyên, đó là
trung tâm đô thị Thượng Hải và Hong
Kong (Trung Quốc), Malacca (Malaysia)
và Singapore. Cho đến nay, những nơi
này đã trở thành tâm điểm trong mạng
lưới “thành phố toàn cầu” trên thế giới
sau khi đã chuyển đổi thành công từ các
“đô thị thuộc địa”.
Thượng Hải, đã từng là thuộc địa của
Anh, với khu Tô giới Pháp là một thí dụ thú
vị khi nó hầu như cắt đứt phần lớn giao tiếp
với thế giới sau năm 1949. Thành phố với
phong cách kiến trúc và không gian Anh,
Pháp và Châu Âu khác biệt và cổ kính đã tự
mình đứng lên sau khi bị sụp đổ (kết thúc
thời kỳ thuộc địa và tồn tại 200 năm). Quá
trình gây dựng lại hình ảnh vốn có của
thành phố thuộc địa diễn ra ngay sau khi
cải cách kinh tế mở cửa vào năm 1978 và
vai trò của Thượng Hải định vị lại nhằm
cạnh tranh với các nơi khác (như Thâm
Quyến). Khu Tô giới Pháp - “một Châu Âu
thu nhỏ” hiện là một điểm đến đáng tự hào
của Trung Quốc, với diện mạo mới, tầm
vóc sánh ngang với nhiều quốc gia phát
triển, thu hút lượng khách du lịch bậc nhất
tới tham quan; đồng thời, là khu vực được
người nước ngoài chọn lựa để sinh sống và
làm việc.
Đối với Hong Kong: “mạng công nghệ
thông tin và truyền thông” (ICT) dường
Châu Đốc 1937
Chợ Long Xuyên
Phố Long Xuyên
Châu Đốc- L‟Hotel de Inspection
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Ngô Minh Hùng và tgk
101
như đã không thể thay thế “mạng xã hội”
[6]. Mạng xã hội nơi đây là nền tảng cho
phát triển kinh tế bền vững trên cơ sở các
chuẩn mực quốc tế (về luật kinh doanh,
thương mại, du lịch). Yếu tố này được thiết
lập bởi người Anh nhằm đáp ứng quản lý
khu vực thành thị và từ đó phát huy trở
thành điểm nổi trội khác biệt. Kế đến, đội
ngũ quản lý được đào tạo tại các trường
danh tiếng ở Anh với tư tưởng và sự tập
trung cao, Hong Kong nơi chứa các thành
phần đô thị lịch sử, đã trở thành trung tâm
cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp cho
mọi hoạt động thương mại. Chính vì điều
này mà Hong Kong từ một làng chài nhỏ
[2] đã vươn lên thành phố toàn cầu ngày
nay [10].
Thành phố Malacca (di sản văn hóa thế
giới được công nhận từ năm 2008) được
mệnh danh là một Venice của Châu Á [8]
còn lưu giữ nhiều nét lịch sử lâu đời, đa sắc
màu văn hóa phương Tây. Quy mô thành
phố tương đương với đô thị cổ Hội An
(Việt Nam). Nơi đây từng làng chài nhỏ lâu
đời (từ năm 1403) nằm ở đầu mối giao
thông quan trọng bậc nhất Đông Nam Á,
thuộc eo biển Malacca, đã nhanh chóng thu
hút thương lái người Hoa (thế kỷ XV) sớm
định cư quanh trung tâm. Từ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XIX, hình ảnh đô thị chính đã
được tạo dựng bởi người Bồ Đào Nha (130
năm), sau đó người Hà Lan (154 năm).
Thời kỳ này, tòa nhà chính quyền thuộc địa
được xây ở khu đồi St. Paul, trung tâm
chính nằm dải bờ sông và được chia thành
các ô phố thương mại. Sau này, thay bằng
việc chia cắt trung tâm thành các ô phố nhỏ
và nhóm văn hóa tách biệt, nơi đây đã hình
thành các không gian phố đi bộ đan xen
gắn kết xã hội, thúc đẩy hoạt động thương
mại và du lịch hấp dẫn.
Gần đây nhất, Singapore, thuộc địa của
Anh từ năm 1819 đến năm 1942, xác định
các “sản phẩm không gian di sản” phản ánh
những ý thức của các thế hệ lãnh đạo và
văn hóa nổi trội. Sản phẩm di sản này được
phát huy một cách lô-gíc trên nền văn hóa
chủ nghĩa tư bản kế thừa từ thời kỳ thuộc
địa. Vì thế, đô thị di sản gắn chặt với nhận
thực về kinh tế thị trường và phát huy giá
trị gia tăng từ góc nhìn về quá khứ. Năm
1990, quốc đảo này đã tích cực thúc đẩy di
sản như một “sản phẩm du lịch” bằng việc
(tái) tạo lại trung tâm đô thị lịch sử ngay tại
khu vực giao thoa đa văn hóa dân tộc nổi
bật như: Chinatown, Kampong Glam, Little
India và xung quanh các công trình thuộc
địa Anh trước kia [4], [6]. Kết quả, trung
tâm Singapore nay đã trở thành không gian
có đặc điểm riêng gắn với chức năng
thương mại, đã và đang là điểm thu hút du
lịch rất lớn. Điều này được xác định rõ
trong chiến lược thành phố toàn cầu của
Singapore.
Từ những ví dụ trên cho thấy, Hiến
chương về Bảo tồn đô thị lịch sử và khu
vực đô thị (Washington Charter 1987) của
ICOMOS (Hội đồng Di tích và Di chỉ Quốc
tế, hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ các di
sản văn hóa cùng với UNESCO) đã được
các quốc gia vận dụng linh hoạt mà tỉnh An
Giang và 2 thành phố có thể học hỏi cho
định hướng phát triển địa phương. Một số
nguyên tắc đó là:
Bảo tồn đô thị lịch sử và các khu vực
đô thị lịch sử khác cần trở thành một phần
lồng ghép vào các chính sách phát triển
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018
102
kinh tế, xã hội trong quy hoạch vùng và đô
thị tại các cấp độ;
Chất lượng bảo tồn, bao gồm: đặc
điểm lịch sử của đô thị hay khu vực đô thị
và các loại vật liệu, thành phần tâm linh,
đặc biệt về hình thái đô thị, mối tương quan
giữa công trình, không gian xanh mở và các
thành phần đô thị xung quanh.
Mặt ngoài, nội ngoại thất của công trình;
Sự tham gia của cộng đồng vào
chương trình bảo tồn và tiếp cận đa chiều.
3. KẾT LUẬN
Xét về lịch sử hình thành, vùng đất An
Giang hàm chứa những chuỗi giá trị văn
hóa - lịch sử (phi vật thể) cùng không gian,
công trình kiến trúc, cảnh quan (vật thể)
đều có mối liên kết chặt trẽ phản ánh các
giai đoạn thịnh vượng mà lĩnh vực du lịch
chưa khai phá và bỏ ngỏ. Trong xu thế toàn
cầu hóa, phát triển du lịch địa phương đòi
hỏi “tầm nhìn chiến lược” xa hơn (hay)
mang tính toàn cầu qua việc định vị lại
“ngành công nghiệp không khói” để nâng
tầm các điểm hấp dẫn du khách trong bối
cảnh đô thị lịch sử có tính “thuộc địa” sớm
đóng vai trò và tầm ảnh hưởng “toàn cầu”
trên cơ sở khám phá mới và phát huy hệ
thống giá trị ẩn sâu trong các nơi chốn,
công trình kiến trúc, cảnh quan, cấu trúc và
thành phần di sản của hai thành phố Châu
Đốc và Long Xuyên.
Ngoài ra, chính quyền địa phương và
các cấp có liên quan cần phải có kế hoạch
đầu tư, quy hoạch và quảng bá để đô thị di
sản An Giang trở thành sản phẩm du lịch
mới, độc đáo nhằm thu hút khách du lịch
trong, ngoài nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] ATV (2012), An Giang Đất và Người, www.youtube.com.
[2] Chui Hau Man và Tsoi Tan Mei (2003), Heritage Preservation: Hong Kong &
Overseas Experience, The conservation Association, Hong Kong.
[3] Chistopher E. Goscha (2012), Going Indochinese, Contesting Concepts of Space and
Place in French Indochina, Nias Press, Denmark.
[4] Daniel P.S. Goh (2014), Between History and Heritage: Post-Colonialism, Globalisation,
and the Remaking of Malacca, Penang, and Singapore, Vol 2, Spacial Issue 1: Heritage,
History, and Historical Processes, Cambridge University Press, United Kingdom.
[5] Dương Thế Hiền (2014), Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính
quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kỳ 1757-1867, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học
Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
[6] Gregory Bracken (2015), Asian Cities: Colonial to Global, Amsterdam University Press.
[7] Nguyễn Ngọc Thủy (2004), Vùng đất An Giang thời kỳ 1757-1867, Luận văn Thạc sỹ,
Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
[8] Nguyễn Hồng (2016), Thành phố Malacca, thegioidisan.vn.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Ngô Minh Hùng và tgk
103
[9] Võ Văn Thắng và Nguyễn Thị Ngọc Thơ (2017), Dấu ấn văn hóa Pháp trong kiến trúc
ở An Giang cuối thế kỷ XIX-nửa đầu thế kỷ XX, Tạp chí Khoa học trường Đại học An
Giang, Vol 13 (1). ISSN 0866-8086. Việt Nam.
[10] World Cities Culture Forum (2018), Hong Kong, Perspectives on the City,
www.worldcitiescultureforum.com.
[11] Ngô Minh Hùng (2014), Bảo tồn môi trường Di sản, Nxb Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh.
[12] Gia Khánh (2017), Long Xuyên với hành trình trở thành đô thị loại I, Báo An Giang
Online, baoangiang.com.vn, ngày 25/01/2017.
[13] Hoàng Diên (2015), Công nhận thành phố Châu Đốc là đô thị loại II, Báo Chính phủ
Online, baochinhphu.vn, ngày 16/04/2015.
[14] Minh Thư (2018), Châu Đốc-Thành phố du lịch tâm linh đặc sắc, Báo An Giang
Online, baoangiang.com.vn, ngày 30/04/2018.
Ngày nhận bài: 13-6-2018. Ngày biên tập xong: 03-7-2018. Duyệt đăng: 23-7-2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- do_thi_di_san_nen_tang_xay_dung_san_pham_du_lich_moi_phat_tr.pdf