Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: bản chất, nguyên nhân, giải pháp

Đầu tư phát triển: là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất.nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực mới cho nền kinh tế -xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội . Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, hoạt động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới, duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện có và vì thế, là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của các doanh nghiệp.

doc30 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: bản chất, nguyên nhân, giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kiến trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế-xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đầu tư phát triển làm gia tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là sự chu chuyển giữa đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế. 1.1.3. Vốn đầu tư Căn cứ theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng: Vốn đầu tư được hiểu là tiền tích lũy của xã hội của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. 1.1.4. Nguồn vốn đầu tư Là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 1.2. Nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư. Đứng trên góc độ vĩ mô, nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. 1.2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước Nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế. Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn nhà nước và nguồn vốn khu vực dân doanh: a, Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam thời gian qua. - Nguồn vốn ngân sách nhà nuớc: Đây là nguồn đầu tư chủ yếu, quyết định sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội. Là nền tảng để thực hiện CNH,HĐH đất nước. Nhà nước của bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm đến hoạt động đầu tư này. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển như nước ta là yếu tố vật chất có ý nghĩa quyết định để thực hiện tốt nhất các chủ trương, chính sách phát triển KTXH của đất nước. Ở VN đây là điều kiện vật chất để ổn định và củng cố chế độ chính trị, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước cũng như không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Vốn ngân sách đầu tư hiện nay chia làm hai loại: + Vốn ngân sách TW dùng để đầu tư xây dựng các dự án (trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, các công trình chủ yếu của nền kinh tế) + Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các địa phương đầu tư vào những vấn đề quan trọng của địa phương. - Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển : Tín dụng đầu tư là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước là người đi vay để đảm bảo các khảon chi của ngân sách đồng thời nhà nước cũng là người cho vay để đảm bảo các chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế. Là nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Ngoài ra nó còn có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả đầu tư vì với cơ chế tín dụng các doanh nghiệp vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Do có yếu tố ưu đãi nên khuyến khích các DN đầu tư theo định hướng của nhà nước - Nguồn vốn tự huy động của các DNNN: Là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các DNNN vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Trong những năm 2001-2004 vốn này chiếm 32,3% so với tổng vốn đầu tư nhà nước,trong đó chủ yếu là vốn khấu hao cơ bản của các doanh nghiệp,trích lợi nhuận sau thuế cho ĐTPT và một phần vay từ các tổ chức tín dụng.Nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp dùng để đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm Theo đánh giá nguồn vốn nguồn vốn khu vực nhà nước trong nhiều năm nay chiếm tỷ trọng trên 56,6% tổng số vốn đầu tư. b, Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, của hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để. c, Thị trường vốn: Là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán chứng khoán và các giấy ghi nợ trung hạn và dài hạn. Đây không phải là các sự việc mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá từ tay của một chủ thể này sang tay một chủ thể khác một cách đơn thuần nếu nhìn nhận từ bên ngoài. Về thực chất, đây là quá trình vận động tư bản ở hình thái tiền tệ - là quá trình chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ TW và chính quyền địa phương tạo ra một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động nào có thể làm được. 2.1.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế đó là quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Theo tính chất lưu chuyển của vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính như sau: - Tài trợ phát triển chính thức ODF: nguồn vốn này bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tái trợ phát triển khác. Dòng vốn này phải qua chính phủ quốc gia tiếp nhận hoặc được bảo lãnh chính thức, dòng vốn phải đáp ứng cho đầu tư phát triển, duy trì và tạo mới để đảm bảo sự hoạt động của nền kinh tế và các cơ sở, nó không bao hàm các nguồn vốn mang tính chất nhân đạo như cứu nạn thiên taimà nó mang tính chất dài hạn, trong đó ODA chiếm phần lớn trong ODF . Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Nguồn vốn này thường lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên tiếp nhận vốn này thường gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ nần chồng chất nếu sử dụng không hiệu qủa vốn vay và nếu thực hiện không nghiêm ngặt việc trả nợ vay. Mặc dù có tính ưu đãi cao song sự ưu đãi của loại vốn này thường đi kèm với các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường). Vì vậy chúng ta cần xem xét kỹ khi tiếp nhận viện trợ và cần có nghệ thuật thỏa thuận để có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có tính nguyên tắc. - Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối với các nước phát triển. Nguồn vốn này khác cơ bản với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghiệp hay cần nhiều vốn. Do vậy để sử dụng hiệu quả vốn đầu FDI tùy thuộc chủ yếu vào cách thức huy động và quản lý sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không phải ở ý đồ của người đầu tư. - Thị trường vốn quốc tế: Với xu hướng toàn cầu hóa, mối liên kết ngày càng tăng của của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc gia đã tạo ra vẻ đa dạng của các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác. 1.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển Đầu tư phát triển: là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất.nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực mới cho nền kinh tế -xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội . Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, hoạt động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới, duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện có và vì thế, là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của các doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác, đó là: 1.3.1. Đòi hỏi vốn lớn, ứ đọng trong thời gian dài Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số lượng vốn lao động, vật tư lớn. Nguồn vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư. Vì vậy trong quá trình đầu tư chúng ta phải có kế hoạch huy động và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý đồng thời có kế hoạch phân bổ nguồn lao động, vật tư thiết bị phù hợp đảm bảo cho công trình hoàn thành trong thời gian ngắn chồng lãng phí nguồn lực. 1.3.2. Thời gian dài với nhiều biến động Thời gian tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. 1.3.3. Có giá trị sử dụng lâu dài Các thành quả của thành quả đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài, có khi hàng trăm, hàng nghìn năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới như vườn Babylon ở Iraq, tượng nữ thần tự do ở Mỹ, kim tụ tháp cổ Ai cập, nhà thờ La Mã ở Roma, vạn lý trường thành ở Trung Quốc, tháp Angcovat ở Campuchia, 1.3.4. Cố định Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó đựơc tạo dựng cho nên các điều kiện về địa lý, địa hình có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư, cũng như việc phát huy kết quả đầu tư. Vì vậy cần được bố trí hợp lý địa điểm xây dựng đảm bảo các yêu cầu về an ninh quốc phòng, phải phù hợp với kế hoạch, qui hoạch bố trí tại nơi có điều kiện thuận lợi, để khai thác lợi thế so sánh của vùng, quốc gia, đồng thời phải đảm bảo được sự phát triển cân đối của vùng lãnh thổ . 1.3.5. Liên quan đến nhiều ngành Hoạt động đầu tư phát triển rất phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Diễn ra không những ở phạm vi một địa phương mà còn nhiều địa phương với nhau. Vì vậy khi tiến hành hoạt động này, cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong quản lý quá trình đầu tư, bên cạnh đó phải qui định rõ phạm vi trách nhiệm của các chủ thể tham gia đầu tư, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo được tính tập trung dân chủ trong quá trình thực hiện đầu tư. 1.4. Vai trò của đầu tư phát triển Nhìn một cách tổng quát: đầu tư phát triển trước hết là hoạt động đầu tư nên cũng có những vai trò chung của hoạt động đầu tư như: tác động đến tổng cung và tổng cầu, tác động đến sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế, tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Ngoài ra với tính chất đặc thù của mình, đầu tư phát triển là điều kiện trước tiên và cần thiết cho phát triển nền kinh tế, có những ảnh hưởng vai trò riêng đối với nền kinh tế và với từng cơ sở sản xuất. Đó là : - Đầu tư phát triển đảm bảo tính tương ứng giữa cơ sở vật chất kỹ thuật và phương thức sản xuất. - Đầu tư phát triển là điều kiện phát triển các ngành kinh tế và thay đổi tỷ lệ cân đối giữa chúng . Khi đầu tư phát triển được tăng cường, cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành tăng sẽ làm tăng sức sản xuất vật chất và dịch vụ của ngành. Phát triển và hình thành những ngành mới để phục vụ nền kinh tế quốc dân. Như vậy đầu tư phát triển đã làm thay đổi cơ cấu và quy mô phát triển của ngành kinh tế, từ đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. Đây là điều kiện tăng nhanh giá trị sản xuất và tổng giá trị sản phẩm trong nước, tăng tích luỹ đồng thời nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân lao động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản về chính trị, kinh tế - xã hội. Do những đặc thù của hoạt động đầu tư mà trong hoạt động đầu tư đã tồn tại khái niệm "độ trễ thời gian". Đây là một trong những mấu chốt để giải quyết vấn đề hiệu quả hoạt động đầu tư, một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng của hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư phát triển được đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, độ trễ về thời gian phát huy tác dụng để tăng trưởng kinh tế cũng rất khác nhau. Chẳng hạn, nếu đầu tư cho sản xuất thì có những lĩnh vực phát huy tác dụng ngay trong năm như vốn mua sắm phương tiện vận tải, vốn đầu tư xây dựng khách sạn, nhà hàng, ... Song nếu đầu tư cho việc trồng cây lâu năm như cao su, trồng quế, ... thì phải từ 7 đến 10 năm sau mới có kết quả. Còn nếu như đầu tư cho giáo dục - đào tạo, đầu tư cho nghiên cứu khoa học thì thời gian của độ trễ còn dài hơn so với đầu tư cho sản xuất. 1.5. Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển Dự án đầu tư bao gồm nội dung từ việc đề xuất việc bỏ vốn để tạo mới, sử dụng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. Dự án đầu tư là cơ sở cho việc quyết định của các chủ đầu tư có đầu tư hay không, việc cho phép thực hiện hay không thực hiện của các cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án, cho vay hay không cho vay của các tổ chức tín dụng, quyết định tài trợ hay không của các nhà tài trợDo vậy, việc khảo sát điều tra để lập nên một dự án đầu tư là hết sức quan trọng bởi vì nó liên quan đến các khâu sau này của việc thực hiện dự án. Một dự án đầu tư được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư. Chu kỳ của hoạt động đầu tư là các giai đoạn mà một dự án phải trải qua từ chuẩn bị đầu tư, giai đoạn đầu tư (thực hiện đầu tư) và giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư. Như vậy, hoạt động đầu tư bao gồm nhiều giai đoạn thực hiện và do đặc điểm của nó mà phát sinh độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư. Khái niệm và bản chất Vậy thực chất độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư là gì? Đó là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư với thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Từ khái niệm trên ta đã hiểu được bản chất của độ trễ thời gian của hoạt động đầu tư, đó là đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai. Thời gian đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Tuỳ theo tính chất, nội dung, qui mô của dự án mà thời gian đầu tư có thể dài hay ngắn. Thông thường, một dự án bắt đầu với công việc là chuẩn bị mặt bằng (công việc này liên quan đến việc thẩm định, điều tra mặt bằng môi trường xung quanh, điều tra tình hình thị trường, nghiên cứu triển vọng tương lai của dự án). Bên cạnh đó, chủ đầu tư còn phải tìm kiếm nguồn lực cho việc thực hiện dự án. Nguồn lực đó bao gồm: tiền vốn, nhân lực, vật lựcTrong đó, việc huy động tiền vốn là một vấn đề rất quan trọng. Có những dự án qui mô lớn cần nguồn tiền lớn, việc huy động vốn mất rất nhiều thời gian, có thể huy động trong nội bộ công ty, huy động thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn ngân hàngMặt khác, có những dự án, chủ đầu tư phải bỏ thời gian, tiền bạcđào tạo được đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân có đủ tay nghề, trình độ để thực hiện dự án (ví dụ như dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất). Ngoài ra, khi thực hiện dự án, chủ đầu tư phải tìm nguồn nguyên vật liệu cung cấp đầu vào với giá cả phải chăng, đảm bảo chất lượng và cung ứng đảm bảo đủ số lượng khi thực hiện dự ánĐây là những yếu tố có vai trò hết sức quan trọng đối với việc thực hiện dự án đầu tư, nó liên quan đến tiến độ hoàn thành của dự án. Do vậy mới có những dự án có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư được tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải. Đầu tư trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy ngay trong năm đó mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm kế tiếp. Như vậy, thời gian đầu tư và vận hành kết quả đầu tư là sự nối tiếp nhau đã tạo nên độ trễ thời gian. Có nhiều công trình phát huy tác dụng lâu dài, thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu tác động hai mặt, cả tích cực lẫn tiêu cực của các yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế - xã hộiĐặc điểm này của đầu tư cần được quán triệt khi đánh giá kết quả, chi phí và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển. 1.5.2. Nguyên nhân của Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư Từ thực chất của độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư, ta có thể hiểu được những nguyên nhân gây ra độ trễ trong hoạt động đầu tư: - Một nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm của hoạt động đầu tư đó là đầu tư cần một nguồn lực lớn về vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư. Trong mỗi giai đoạn, quá trình của hoạt động đầu tư đều phải có sự tham gia của các nguồn lực. Có thể nói, việc huy động các nguồn lực này chiếm một thời gian khá nhiều của thời gian đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn, bởi lẽ, thông thường, không một nhà đầu tư nào có đủ vốn tự có cho một dự án lớn, mà phải huy động từ nhiều nguồn: ngân hàng, phát hành cổ phiếu... Mặt khác, việc đào tạo, tuyển dụng nguồn nhân lực phù hợp và cần thiết cũng là một vấn đề nan giải và mất khá nhiều thời gian. - Một nguyên nhân nữa, do quá trình thực hiện đầu tư và thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn từ các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội, do vậy, việc nghiên cứu, qui hoạch, thiết kế công trình, dự án tại một địa điểm để khởi công công trình là một trong những vấn đề đầu tiên phải làm và tiêu tốn khá nhiều thời gian của các chủ đầu tư, nếu không có sự nghiên cứu này, sai lầm xảy ra sẽ gây tổn thất rất lớn cho chủ đầu tư. - Việc khởi công một công trình, một dự án chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố khách quan (như thời tiết, giá cả nguyên vật liệu) gây ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thực hiện dự án. - Tương tự, việc vận hành kết quả công trình cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, cả khách quan lẫn chủ quan cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc vận hành kết quả đầu tư, nó có thể thúc đẩy hoặc kiềm chế việc vận hành kết quả đầu tư. - Một dự án được khởi công thực hiện, không phải ngày một ngày hai là xong, đôi khi phải mất nhiều công đoạn mới hoàn thành công trình, do vậy, việc vận hành dự án hay đưa kết quả của quá trình đầu tư đi vào hoạt động, phát huy tác dụng là bước kế tiếp của hoạt động đầu tư. - Hoạt động đầu tư là do con người thực hiện, do vậy, thời gian đầu tư và thời gian vận hành kết quả đầu tư do con người quyết định. Có những dự án đầu tư bị chậm trễ là do ý thức chủ quan của con người, đó có thể là do tình trạng tham ô, lãng phí, là trình độ, năng lực thẩm định dự án, giám sát, tuyển chọn nhà thầu hay nhà thầu kém năng lựcChính những nguyên nhân này góp phần không nhỏ làm kéo dài thời gian đầu tư, làm độ trễ thời gian hoạt động đầu tư càng sâu hơn. Như vậy, độ trễ thời gian là một tất yếu của hoạt động đầu tư, vấn đề ở đây chính là hiểu bản chất của khái niệm này, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra giải pháp làm giảm đi ở mức tối ưu độ trễ nhằm tăng hiệu quả đầu tư, tăng hiệu quả nguồn lực đã bỏ ra, phát huy một cách nhanh nhất thành quả của hoạt động đầu tư. Chương II: Thực trạng về độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển của Việt Nam Để làm rõ vấn đề độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư của Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta hãy đi vào những nét nổi bật của những dự án đầu tư được tài trợ từ các nguồn khác nhau, qua đó thấy được thực trạng của vấn đề độ trễ thời gian của các loại dự án có nguồn vốn khác nhau, thấy được nguyên nhân, cũng như tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đầu tư. Bảng 1: Vốn đầu tư phát triển, cơ cấu và hiệu quả đầu tư CHỈ TIÊU NĂM 2003 2004 2005 2006 2007 1.Vốn đầu tư (tỷ VND) (Chia theo các TPKT) 239.246 290.927 343.135 398.900 461.900 -Khu vực nhà nước 126.558 139.831 164.635 185.100 200.000 -Khu vực ngoài quốc doanh 74.388 109.754 130.398 150.500 187.800 -Khu vực có vốn ĐTNN 38.300 41.342 51.102 63.300 74.100 2.Cơ cấu (%) 100% 100% 100% 100% 100% -Khu vực nhà nước 52,9 48,1 47,1 46,4 43,3 -Khu vực ngoài quốc doanh 31,1 37,7 38,0 37,7 40,7 -Khu vực có vốn ĐTNN 16,0 14,2 14,9 15,9 16,0 3.GDP (nghìn tỷ VND) 613,4 715,3 839,2 973,8 1.143,4 Tăng so với năm trước (nghìn tỷ VND) 77,6 101,9 123,9 134,6 169,6 4.Hiệu quả đầu tư Tỷ lệ VĐT so với GDP (%) 39,0 40,7 40,9 41,0 40,4 Để tăng 1 đồng GDP phải đầu tư (đồng) 3,73 3,5 3,8 4,3 4,47 (Nguồn: Vietnam Economic Times 2007 – 2008) Theo báo cáo nghiên cứu đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 - 2010, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã nhận định: Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước vẫn là nguồn lực lớn nhất. Đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng tăng dần từ 23,3% lên 29,3% năm 2007. Đáng chú ý là thời gian gần đây các tập đoàn kinh tế và nhiều DNNN khác có xu thế mở rộng đầu tư kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Trong khi đó, công tác giám sát, nhất là về tài chính cũng như năng lực quản trị rủi ro của các tập đoàn đó không theo kịp. 2.1. Các dự án đầu tư có nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước 2.1.1. Thực trạng độ trễ thời gian của các dự án đầu tư có nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước Những vấn đề liên quan đến độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư hiện nay ở Việt Nam có thể nêu ra sau đây liên quan đến vấn đề quản lý dự án, chậm trễ thực hiện dự án, gây ra tình trạng thời gian đầu tư kéo dài, đặc biệt là các dự án có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Trong khi đó khu vực này đang chiếm gần nửa tổng đầu tư toàn xã hội (41 - 48%). Bảng 2: Tỷ trọng vốn đầu tư thực hiện qua các năm Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tỷ trọng vốn Nhà nước so với vốn đầu tư toàn xã hội (%) 59.8 57.3 52.9 48.1 47.1 45.7 39.9 Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP (%) 35.4 37.4 39.0 40.7 40.9 41.5 45.9 Nguồn: Niên giám thống kê tóm tắt 2007 Theo báo cáo, phần lớn các dự án sử dụng vốn nhà nước đều được thực hiện rất chậm, thủ tục đầu tư xây dựng rườm rà, hiệu quả đầu tư của nhiều dự án thấp, còn thất thoát, lãng phí so với đầu tư bằng nguồn vốn khác. Tình trạng bố trí vốn dàn trải còn phổ biến. Các công trình sử dụng vốn nhà nước bị chậm tiến độ ngày càng tăng. Năm 2005, có 2.280 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,2% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong năm. Một năm sau, con số này tăng lên thành 3.595 dự án, chiếm 13,1% và sang đến năm 2007 là 3979 dự án (13,9%). Tình trạng thiếu điện, cắt điện kéo dài ròng rã nhiều năm nhưng hàng chục dự án nhà máy điện của EVN chậm tiến độ đã ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế và đời sống người dân. Năm 2008, hàng loạt các dự án do kém hiệu quả đã bị đình hoãn. Theo số liệu thống kê sơ bộ, các địa phương đã tiến hành thực hiện việc rà soát, sắp xếp lại các công trình, dự án theo Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17-4-2008 của Thủ tướng Chính phủ. Đã có 548 công trình, dự án đình hoãn và giãn tiến độ với tổng số vốn 1.763,8 tỷ đồng. Một số địa phương có số công trình, dự án cắt giảm cao như: Hà Nội 49 dự án, với số vốn là 440,3 tỷ đồng; TP Hồ Chí Minh 59 dự án, số vốn 381,9 tỷ đồng; Hà Tây 23 dự án, số vốn 65 tỷ đồng; Tiền Giang 22 dự án, số vốn 66,3 tỷ đồng; Vĩnh Long 21 dự án, số vốn 68,8 tỷ đồng... Có thể kể ra một số trường hợp như Dự án cầu Thanh Trì và tuyến phía Nam vành đai 3 Hà Nội với số vốn đầu tư lên tới 7.660 tỷ đồng chậm trễ nhiều tháng, mỗi ngày phải trả 1,5 tỷ đồng tiền vay. Cầu xây xong nhưng đường dẫn lên cầu vẫn chưa xong nên tốn thêm cả chục tỷ đồng nữa để xây dựng đường tạm, song chất lượng vẫn kém và gây ách tắc. Một trong những dự án có thể nói là lớn về qui mô cũng như tầm quan trọng của nó là dự án về ngành điện. Ví dụ cụ thể là các dự án thuộc Tập đoàn điện lực Việt Nam đã có đến vài chục dự án chậm tiến độ, chậm từ 1-2 năm do vậy người dân nơm nớp lo thiếu điện 20-30%, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội và đời sống nhân dân. Hiện có tới 6 công trình dự kiến phải lùi thời điểm phát điện thực tế sang năm 2010 như: Thuỷ điện Bản Vẽ, thuỷ điện Buôn Tua Sah, nhiệt điện Hải Phòng 2Lý do chủ yếu là do công tác chuẩn bị chưa tốt, di dân tái định cư khó khăn, một số nhà thầu không đủ năng lực để triển khai. Một điển hình nữa của sự chậm trễ trong việc thực hiện dự án đó là dự án Lọc dầu Dung Quất, chậm trễ tới 7 năm (theo kế hoạch phải hoàn thành vào năm 2002 nhưng đến đầu tháng 3 năm 2009, công trình mới phát huy hiệu quả của nó). Điều này đã gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội cho địa phương cũng như kinh tế trong nước. Bởi lẽ nguồn vốn rót vào công trình này rất lớn .Một ví dụ nữa là dự án xây dựng cầu Nhật Tân của Hà Nội. Theo kế hoạch đầu tiên của UBND TP Hà Nội, dự án cầu Nhật Tân sẽ phải khởi công voà cuối năm 2006. Nhưng thời điểm đó dự án không thể khởi công vì dự án do phí Bộ giao thông vận tải làm chủ đầu tư. Dự án này được dự kiến khởi công vào cuối năm 2007 nhưng thực tế vẫn chưa thực hiện như dự kiến. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đây là dự án trọng điểm của Hà nội sẽ phải khởi công vào ngày 2/9/2009 nhưng Bộ Giao thông vận tải và các cơ quan liên quan hứa quyết tâm khởi công vào ngày 15/1/2009. Vào ngày 14/1/2009, UBND huyện Đông Anh đã chính thức bàn giao mặt bằng phục vụ thi công dự án cầu Nhật Tân và truyền tránh hai bên đầu cầu phía Đông Anh và mặt bằng trên cũng được xác định là địa điểm để khởi công dự án nhưng Bộ Giao thông vận tải vẫn chưa khởi công xây dựng công trình. Cuối năm 2007, Bộ giao thông vận tải đã đăng ký giải ngân tới hơn 27.500 tỷ đồng. Theo đó, hàng loạt dự án giao thông lớn được khởi công trong năm 2007 nhưng điều này lại tạo nên nguy cơ khủng hoảng nhân lực và năng lượng tại các dự án này. Theo kế hoạch này, hàng loạt các dự án đường cao tốc, các tuyến đường trục chính của các trung tâm kinh tế lớn trên cả nước sẽ được khởi công trong năm 2007 theo chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm 2020. Những dự án này được kỳ vọng sẽ làm thay đổi diện mạo hạ tầng giao thông và đóng góp vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từng địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên, tình trạng thi công chậm trễ tại các công trình hạ tầng giao thông lớn đã là một thực tế kéo dài trong nhiều năm qua, gây không ít khó khăn cho sinh hoạt hàng ngày của người dân và ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư tại Việt Nam, vì đây là cơ sở hạ tầng hết sức quan trọng. Đó là một số ví dụ điển hình của các dự án đầu tư có từ Ngân sách nhà nước. Có thể nói việc chậm trễ thực hiện các dự án có vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước là một vấn đề nổi cộm hiện nay của vấn đề quản lý vốn ngân sách nhà nước, liên quan đến vấn đề phát triển kinh tế xã hội hiện nay của Việt Nam. Phát triển hạ tầng là một trong những giải pháp hàng đầu để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, góp phần thu hút đầu tư nhưng chính tiến độ chậm chạp tại các công trình lớn hiện nay đã tạo lực cản đối với nền kinh tế, nhất là công trình giao thông. Sự chậm trễ trong việc khởi công thực hiện dự án đầu tư gây nên ách tắc trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát triển kinh tế xã hội, ảnh hưởng đến đời sống dân sinh, nhất là những dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình an sinh xã hội. 2.1.2. Nguyên nhân độ trễ thời gian của các dự án có vốn từ Ngân sách nhà nước Phần lớn các dự án có vốn từ Ngân sách nhà nước có độ trễ thời gian sâu như vậy nguyên nhân là do đâu? Có thể nói đây là một vấn đề mà nguyên nhân của nó bắt nguồn từ rất nhiều phía. 2.1.2.1. Chất lượng Qui hoạch còn nhiều bất cập, chưa gắn kết chặt chẽ qui hoạch phát triển ngành với vùng, địa phương. Qui hoạch chưa sát thực tế, còn chồng chéo, thiếu tầm nhìn dài hạn, chưa chú trọng thỏa đáng yếu tố môi trường xã hội nên việc triển khai thực hiện và khai thác hiệu quả thấp - Trong ngành giao thông vận tải đó là việc bố trí nhiều sân bay, bến cảng gần nhau mà chưa tính hết sự gắn kết trong việc khai thác hiệu quả tổng hợp, kết cấu hạ tầng hiện có chưa phù hợp với khả năng phát triển kinh tế và nguồn vốn đầu tư của thời điểm đầu tư dẫn đến nhiều đoạn đường, cảng biển, cảng sông, cảng sân bay khai thác hiệu quả thấp. Qui hoạch phát triển ngành giao thông đến năm 2010 cần đến 300.000 tỷ đồng thiếu tính khả thi, không phù hợp với nhu cầu khai thác và huy động vốn. Vì vậy 5 năm qua mới huy động khoảng 60.000 tỷ đồng (# 20%). + Trong công nghiệp qui hoạch ngành chưa thống nhất qui hoạch vùng, địa phương. Một số dự án không nằm trong qui hoạch vẫn được các điạ phương phê duyệt, triển khai. - Một số địa phương quyết định đầu tư dự án sản xuất thép có công suất thấp không theo qui hoạch, vùng Bắc Giang qui hoạch nhà máy bột giấy 200 ngàn tấn/năm, ván nhân tạo 300 ngàn tấn/năm trong khi thời gian qua trước đó 3 năm đã có qui hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vùng cung cấp gỗ mỏ 255 ngàn m3/năm. Dự án nhà máy bột giấy Kon Tum công suất 130 ngàn tấn/năm (giai đoạn I), 260 ngàn tấn/năm (giai đoạn II) được phê duyệt trước khi phê duyệt vùng nguyên liệu giấy nay phải ngừng triển khai theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. - Qui hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp ở các địa phương còn tràn lan, chưa cân đối, chưa có sự phối hợp tốt với các Bộ, ngành trong việc xây dựng qui hoạch tổng thể, giữa khu công nghiệp với khu ngoài hàng rào khu công nghiệp về giao thông, nhà ở công nhân, tập trung quá gần khu đô thị,... ở nhiều địa phương nhiều dự án chưa quan tâm đến việc xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường. + Trong nông nghiệp nhiều trường hợp qui hoạch đầu tư nhà máy chế biến lương thực, thực phẩm, rau quả chưa gắn kết hoặc không phù hợp với vùng nguyên liệu và thị trường, điển hình là các nhà máy đường xây dựng xong không đủ nguyên liệu bị thua lỗ. hoặc phải di chuyển đi nơi khác. Nhiều dự án đầu tư nhà máy chế biến rau quả, hải sản công suất khai thác rất thấp hoạt động không có hiệu quả. + Qui hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng cơ sở ở các địa phương thiếu đồng bộ, chưa có sự phối hợp giữa các ngành giao thông, bưu chính viễn thông, điện lực, cấp thoát nước... làm cho hạ tầng giao thông thường xuyên bị đào bới, hư hại gây lãng phí lớn. Hệ thống bệnh viện Trung ương tại các thành phố lớn quá tải, các địa phương đều đầu tư xây dựng đài phát thanh truyền hình nhưng thời lượng sử dụng và chương trình nội dung rất hạn chế. + Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ qui hoạch phát triển và đầu tư chưa được chú trọng thỏa đáng, qui hoạch đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng du lịch triển khai chậm, vốn đầu tư còn thấp, còn vướng mắc với qui hoạch khác vì vậy đã hạn chế khai thác lợi thế và chương trình quốc gia về du lịch... 2.1.2.2. Đầu tư dàn trải, tiến độ thi công dự án chậm trễ, kéo dài - Đầu tư dàn trải thể hiện ngay trong kế hoạch hàng năm. Năm 2001 Có 6942 Dự án Năm 2002 - 7605 - Năm 2003 - 10596 - Năm 2004 - 12.355 - Năm 2005 - 13.000 - Năm 2006 - 15.678 - Năm 2007 - 18.150 - Năm 2008 - 21.810 - ( Nguồn: Website: Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội) Số vốn bố trí cho các dự án nhỏ, không đủ và không khớp giữa kế hoạch đầu tư và kế hoạch vốn. Sự dàn trải còn thể hiện ở việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư cho cả các dự án chưa đủ thủ tục đầu tư. Chỉ tính riêng các dự án do Trung ương quản lý: Năm 2001 Có 375 Dự án thiếu thủ tục đầu tư Năm 2002 - 598 - Năm 2003 - 365 - Năm 2004 - 377 - Năm 2005 - 380 - Năm 2006 - - Năm 2007 - - Năm 2008 - - ( Nguån: Website: Së kÕ ho¹ch ®Çu t­ Hµ Néi) Số dự án đầu tư tăng nhanh qua các năm không tương xứng với tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư. Nhiều dự án chưa đủ thủ tục cũng được ghi vốn hoặc ngược lại không có nguồn vốn cũng cho triển khai, nhiều dự án công trình kéo dài do thiếu vốn thậm chí không theo kế hoạch. - Tiến độ thi công chậm trễ, kéo dài, dự án treo mà nguyên nhân là do: + Công tác quản lý hợp đồng sau khi đấu thầu của các chủ dự án đang tồn tại nhiều bất cập, yếu kém. Tính chưa minh bạch trong công tác đấu thầu dẫn đến nhiều dự án có sự móc ngoặc giữa nhà thầu với chủ đầu tư hay với cán bộ đấu thầu để giành dự án. Mặt khác, năng lực thẩm định nhà thầu của chủ đầu tư Việt Nam còn kém dẫn đến giao thầu cho nhà thầu kém năng lực, gây ra những dự án chậm tiến độ. Trong các dự án chậm tiến độ, nổi cộm các dự án xây dựng các công trình về điện có những nguyên nhân nữa là sự không thống nhất về định mức, tổng dự toán, không ký hợp đồng nhưng vẫn đưa thiết bị, công nhân đến rồi làm lễ khởi công "hoành tráng" không đúng với thiết kế được duyệt diễn ra ở khá nhiều công trình điện thời gian qua mới là mấu chốt của bài toán chậm tiến độ. + Mặt bằng giải phóng chậm trễ chủ yếu do chính sách đền bù giải phóng còn nhiều bất cập, việc chậm trễ xây dựng các khu tái định cư, giá đền bù không thoả đáng gây lãng phí thất thoát, khiếu kiện kéo dài. + Bố trí dự án, dàn trải nguồn vốn bố trí không đáp ứng dẫn đến tình trạng mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng, mặc dù đã có những cố gắng chấn chỉnh nhưng tình hình nợ đọng còn rất lớn, khối lượng đầu tư dở dang cao, công trình chậm đưa vào sản xuất sử dụng gây lãng phí lớn. Mặt khác năng lực tài chính của nhà thầu còn hạn chế do đó nhiều doanh nghiệp đang ở trong tình trạng hết sức khó khăn, một số doanh nghiệp bị phá sản. Tình trạng này gây ra hiện tượng thất thoát vốn của nhà nước, gây mất niềm tin trong dân chúng, làm chậm tiến độ thực hiện dự án trọng điểm có ý nghĩa kinh tế xã hội gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, do trong quá trình giám sát thi công, thực hiện dự án của chúng ta còn chưa chặt chẽ, bị buông lỏng, do còn cả nể, dễ dãi trong khi thực hiện giám sát nên có thể nói nguyên nhân này góp phần đáng kể vào việc làm chậm tiến độ thực hiện dự án. Năm 2002 Có 67,5% Công trình đầu tư dở dang Năm 2003 - 63,1% - Năm 2004 - 70,6% - Năm 2005 - 61% - Năm 2006 - - Năm 2007 - - Năm 2008 - - ( Nguồn: Website: Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội) Ngoài ra, một nguyên nhân nữa là do sự biến động giá cả. Chúng ta vừa đối mặt với tình trạng lạm phát, vừa đối mặt với nguy cơ suy thoái kinh tế do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chính điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện dự án của các chủ đầu tư. Sự trượt giá này tác động mạnh đến chi phí của các dự án, chi phí vay ngân hàng, chi phí nguyên nhiên vật liệuđầu vào của dự án. Ví dụ như trong dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất, trong quá trình triển khai dự án, tổng mức đầu tư tăng lên là do biến động giá cả. Do giá tăng làm vốn tăng theo, việc cung cấp nguồn vốn lớn như vậy sẽ vấp phải khó khăn do việc huy động vốn cho dự án. Từ năm 2003, giá nguyên vật liệu biến động không ngừng, giá dầu, giá thép đều tăng đột biến, toàn bộ mặt bằng giá bị đẩy lên, làm vốn đầu tư cũng tăng lên, chiếm 58% Từ đó, nó ảnh hưởng hiệu quả của dự án và khiến các chủ đầu tư sẽ chần chừ, hoãn lại việc thực hiện các dự án, làm giảm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư. Đó là một số nguyên nhân dẫn đến việc làm chậm trễ tiến độ thực hiện các dự án có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, làm tăng lên độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư do việc kéo dài thời gian đầu tư. Ngoài ra, những nguyên nhân này còn có thể dẫn đến chất lượng của kết quả đầu tư không được như thiết kế, do vậy, thời gian vận hành kết quả đầu tư ngắn, bởi vì, tuổi thọ của công trình đầu tư không cao. Thời gian đầu tư dài, thời gian vận hành kết quả đầu tư ngắn, độ trễ thời gian hoạt động đầu tư càng sâu. Đây là một bài toán nan giải đối với những dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước. Bởi lẽ đây thường là những công trình có tầm ý nghĩa kinh tế xã hội lớn đối với ngành, địa phương, vùng. 2.2. Các dự án đầu tư có nguồn vốn không từ ngân sách nhà nước Có thể nói rằng, đối với các dự án đầu tư có nguồn vốn tài trợ từ các nguồn không phải của ngân sách nhà nước thì tính hiệu quả của hoạt động đầu tư cao hơn nhiều, độ trễ thời gian chỉ là vấn đề tất yếu (để hoàn thành một kết quả đầu tư phải có thời gian đầu tư mới đến thời gian vận hành đầu tư, trong đó thời gian đầu tư được thực hiện một cách hiệu quả, phù hợp với thiết kế của dự án). Một vấn đề dễ nhận thấy là tăng trưởng đầu tư trong thời gian gần đây chủ yếu dựa vào khu vực FDI. Kể từ năm 2006 đến nay, dũng FDI vào Việt Nam tăng đột biến, hàng năm luôn đạt kỷ lục so với các năm trước. Sau hai năm gia nhập WTO, nguồn vốn FDI đăng ký mới qua các năm của Việt Nam tăng nhanh đột biến, từ 12 tỷ USD năm 2006 tăng lên 64 tỷ USD trong năm 2008, tức là tăng gần 5 lần so với năm 2006. Tính chung đến nay nước ta còn hơ 10.500 dự án đầu tư nước ngoài, từ 155 quốc gia với tổng vốn đăng ký trên 155 tỷ USD. Đã có hơn bốn nghìn doanh nghiệp có vốn FDI đi vào hoạt động, đóng góp hơn 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn quốc. Năm 2008, sự bùng phát nguồn vốn FDI vào Việt Nam với con số kỷ lục trên 64 tỷ USD, tăng 3 lần so với năm 2007, vốn giải ngân cũng đạt mức kỳ lục cao nhất từ trước đến này (11,5 tỷ USD) đã chứng tỏ sức hấp dẫn của Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế do ảnh hưởng của cơn bão tài chính thế giới. Các doanh nghiệp có vốn FDI đã góp phần đầy nhanh tốc độ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch cơ cấu, nâng cao thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, theo dự báo do khủng hoảng tài chính toàn cầu nên FDI vào Việt Nam sẽ suy giảm, dự báo vốn đăng ký khoảng 20ỷ USD nhưng vốn thực hiện khoảng 11 - 12 tỷ USD. Như vậy, có thể nói việc đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam là rất mạnh mẽ, các ngành nghề đầu tư rất đa dạng, tuy nhiên, số liệu thực tế nói nên rằng, vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực xây dựng - bất động sản chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam. Việc thực hiện các dự án đầu tư FDI rất khẩn trương, độ trễ thời gian của hoạt động đầu tư của dự án FDI phụ thuộc vào qui mô đầu tư nhưng có thể nói rất thấp. Bởi lẽ, các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam họ rất quan tâm đến đồng vốn của họ bỏ ra, do vậy họ quan tâm đến tiến độ thực hiện vì nó liên quan đến thời gian sinh lời của kết quả đầu tư. Trước khi họ vào Việt Nam, họ khảo sát thị trường, địa bàn dân cư, đặc điểm kinh tế xã hội của địa phương, việc cung cấp các nguồn lực cho đầu tư (chủ yếu là lao động, thị trường cung cấp nguyên vật liệu) và sẽ quyết định địa điểm đầu tư hợp lý. Công việc giám sát thi công, thực hiện dự án cũng được thực hiện triệt để đảm bảo thời gian thực hiện thi công dự án không quá kéo dài (trừ hoàn cảnh khách quan). Công việc giám sát được thực hiện chặt chẽ. Những dự án FDI bị chậm trễ thực hiện có chăng là do phía khách quan. Đó là các thủ tục hành chính, cấp phép, khâu giải phóng mặt bằng, biến động của giá cả thị trường, thay đổi cơ chế chính sách của nhà nước. Từ đó có thể làm thời gian bị kéo dài, gây khó khăn cho việc thực hiện dự án. Đó là một số nét về vấn đề độ trễ thời gian của dự án FDI. Ngoài những thực tế vấn đề này thuộc dự án có vốn từ ngân sách nhà nước và vốn FDI, những dự án có nguồn vốn được tài trợ từ các nội bộ các doanh nghiệp, từ ngân hàng, từ các kênh huy động vốn của các doanh nghiệp cũng có một số nét đáng nói. Có thể khẳng định rằng, vấn đề độ trễ thời gian trong các dự án có nguồn tài trợ ngoài ngân sách nhà nước và FDI, hay nói các khác là từ các doanh nghiệp, dân cư là vấn đề mang tính chất nguyên lý, bởi có thực hiện đầu tư mới vận hành được kết quả đầu tư. Tuy nhiên, vấn đề đáng nói ở đây chính là thời gian đầu tư của các dự án này. Do vốn là của họ bỏ ra, hay huy động từ phát hành cổ phiếu, vay vốn ngân hàng nên thời gian thực hiện đầu tư được đảm bảo sát tiến độ rất nhiều so với dự án có vốn từ ngân sách nhà nước. Khúc mắc trong hoạt động đầu tư các dự án này nằm chủ yếu trong khâu huy động vốn đối với dự án có qui mô lớn. Họ phải sử dụng các kênh huy động thêm ngoài vốn tự có như từ ngân hàng, phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Việc huy động này mất khá nhiều thời gian. Bởi vì, phát hành cổ phiếu phải tuân thủ theo qui định của Luật chứng khoán, các qui định của Uỷ ban chứng khoán của nhà nướcHay việc vay vốn ngân hàng được thực hiện phải qua qui trình thẩm định chặt chẽ của ngân hàng. Đó là những công việc tưởng như đơn giản mà đôi khi lại rất khó khăn, phức tạp cho các doanh nghiệp cần huy động thêm vốn. Ngoài những vấn đề trên, trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế khi thực hiện dự án đầu tư của mình là họ phải đối mặt với một loạt các thủ tục hành chính của chính quyền địa phương nơi thực hiện đầu tư, các ban ngành liên quan để được phép tiến hành xây dựng công trình, thực hiện dự án. Việc thực hiện các thủ tục này cho đến thời điểm này có thể nói là khá nan giải đối với các doanh nghiệp mặc dù chúng ta đã chủ trương cải cách thủ tục hành chính. Tuy nhiên, khâu này trong hoạt động đầu tư đã khiến doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, mất thời gian, ảnh hưởng đến thời gian thực hiện, thi công dự án, làm lãng phí tiền của của các chủ đầu tư. Chương 3: Giải pháp Từ lý luận và thực tế chúng ta đã hiểu rằng hoạt động đầu tư bao gồm cả thời gian đầu tư và thời gian vận hành kết quả đầu tư. Độ trễ thời gian là do sự không trùng hợp giữa hai giai đoạn này, điều đó là tất yếu, bởi lẽ có đầu tư mới có kết quả đầu tư để thực hiện phát huy kết quả đó. Vấn đề đặt ra ở đây chính là mức độ của độ trễ này. Có thể cùng một dự án, một qui mô nhưng nguồn vốn tài trợ dự án, đối tượng thực hiện dự án khác nhau thì độ trễ thời gian sẽ khác nhau dẫn đến hiệu quả, chất lượng hoạt động đầu tư khác nhau. Hiểu được độ trễ thời gian của hoạt động đầu tư, công việc của chúng ta là phải tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư bằng giảm độ trễ thời gian. Từ những vấn đề nêu trên có thể hiểu được nguyên nhân từ đâu mà có độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư. Độ trễ thời gian là một thước đo quan trọng để đánh giá tính hiệu quả của dự án và chất lượng của hoạt động đầu tư. Vậy làm thế nào để có được một dự án đầu tư hiệu quả, làm sao để độ trễ thời gian không gây ra được những khó khăn, ách tắc của một công trình đầu tư, nâng cao hiệu quả được nguồn lực đầu tư. Các dự án đầu tư dù có nguồn vốn tài trợ là từ ngân sách nhà nước hay từ nguồn vốn nước ngoài, doanh nghiệp trong nướcthì đều bắt nguồn từ hai vấn đề của hoạt động đầu tư đó là thời gian đầu tư và thời gian vận hành kết quả đầu tư. Từ những nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ trong tiến độ thực hiện dự án, chúng ta có thể đưa ra là một số giải pháp sau: - Để nâng cao hiệu quả đồng vốn cũng như các nguồn lực khác bỏ ra, tránh hiện tượng đồng vốn bị khê đọng, cần có sự phân bổ, bố trí vốn và nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình. Khắc phục tình trạng thiếu vốn (bằng cách mở rộng phương thức huy động vốn sao cho có hiệu quả, ít tốn kém, không mất nhiều thời gian), đồng thời việc giải ngân vốn phải kịp thời, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, tránh ứ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng như chậm trễ trong việc giải ngân vốn.Từ đó có thể đưa từng công trình đã hoàn thành vào sử dụng, tăng hiệu quả và tốc độ sử dụng vốn một cách tối đa. - Quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, tăng cường việc giám sát các khâu trong quá trình thực hiện dự án đầu tư. Từ khâu khảo sát thiết kế nơi thực hiện dự án đến quá trình thực hiện dự án, phải nắm bắt ngay được những khiếm khuyết, hạn chế khi thực hiện, giải quyết các ách tắc để đẩy nhanh tiến độ thực hiện. - Một vấn đề quan trọng nữa là chú ý trong công tác quản lý hoạt động đầu tư cả đối với dự án cấp quốc gia cũng như dự án sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cần chú ý: + Cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học cả cấp vĩ mô và vi mô về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư trong tương lai, khả năng cung hàng năm và toàn bộ vòng đời dự án. + Quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa kết quả đầu tư vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình. + Huy động tối đa các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ hoạt động đầu tư, giảm đi ở mức tối đa độ trễ thời gian của các quá trình đầu tư nhằm phát huy nhanh đồng vốn và các nguồn lực khác đã bỏ ra nhằm tối thiểu hóa độ trễ thời gian của hoạt động đầu tư. Trong vấn đề này, chú ý đến việc huy động nguồn lực tại địa phương nơi thực hiện dự án, tận dụng được thế mạnh vốn có tại địa phương để giảm thiểu chi phí phát sinh không đáng có. - Ngoài những vấn đề nêu trên, chú ý nhất trong các dự án có vốn đầu tư là ngân sách nhà nước là vấn đề chống lãng phí, tham ô, lãng phí của những người tham gia thực hiện dự án. Đây là một vấn đề nổi cộm của Việt Nam trong thời gian qua gây nên sự thất thoát tiền của, sự chậm trễ trong tiến độ thi công, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế an sinh xã hội, mất lòng tin của người dân. - Một vấn đề nữa là việc lựa chọn nhà thầu để thực hiện dự án. Lựa chọn ở đây không chỉ là về tư cách pháp lý mà còn về năng lực tài chính, khả năng về nhân lực (bao gồm cả số lượng và chất lượng của đội ngũ công nhân thực hiện cũng như kỹ sư, chuyên viêntham gia thực hiện dự án). Tránh tình trạng không đủ năng lực thi công vẫn cho thực hiện vừa gây thất thoát tài sản vừa đình trệ quá trình thi công công trình. Trong vấn đề này, lưu ý phát hiện ra sai phạm của chủ đầu tư do tư lợi mà móc ngoặc với nhà thầu không đủ năng lực. - Bên cạnh những giải pháp trên, việc cải cách chính sách cho phù hợp với thực tiễn, nhằm khuyến khích chủ đầu tư có đủ năng lực thực hiện dự án, giảm thiểu thời gian công sức của các thành phần tham gia dự án do thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, phiền nhiễu. - Ngày nay, vai trò của khoa học công nghệ kỹ thuật ngày một thể hiện tầm quan trọng trong việc rút ngắn thời gian thi công cũng như thời gian thực hiện đầu tư. Do vậy, một giải pháp nữa là việc cải tiến kỹ thuật, áp dụng những phương pháp, công nghệ mới vào quá trình thực hiện đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả thi công, giảm chi phí nhân công và thời gian thực hiện đầu tư. - Cải tiến kỹ thuật công nghệ là một điều phải làm nhưng vấn đề nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công nhân tham gia thực hiện hoạt động đầu tư cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Đây là yếu tố hàng đầu trong việc thực hiện hoạt động đầu tư, có ý nghĩa không chỉ trước mắt mà còn về lâu dài bởi vì chúng ta đào tạo được một đội ngũ cán bộ, kỹ sư giàu kinh nghiệm, trình độ cao đáp ứng yêu cầu đổi mới của khoa học công nghệ, đội ngũ công nhân lành nghề cũng như để đáp ứng cho việc vận hành kết quả đầu tư sau này. Yếu tố này có vai trò then chốt đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Trên đây là một số giải pháp rút ra từ thực tế cũng như lý luận của vấn đề độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư. Với những giải pháp này, chúng ta có thể rút ngắn thời gian thực hiện đầu tư để đến nhanh với thời gian vận hành kết quả đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của các doanh nghiệp, các vùng, địa phương và của quốc gia. Kết luận Đầu tư là cơ sở cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội không chỉ cho doanh nghiệp, các địa phương mà cho cả một quốc gia. Nâng cao vai trò, hiệu quả của hoạt động đầu tư là điều mà mỗi doanh nghiệp, mỗi địa phương, mỗi quốc gia luôn phấn đấu thực hiện. Độ trễ thời gian là vấn đề rất được quan tâm hiện nay, bởi vì hiểu được nó là mấu chốt vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Thực trạng của Việt Nam trong thời gian qua cho thấy rằng vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư là vấn đề được chú ý rất nhiều. Đó là bài toán cho các doanh nghiệp, các ngành, địa phương và hơn nữa là của Nhà nước ta. Giảm độ trễ thời gian, rút ngắn thời gian thực hiện đầu tư, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư là mấu chốt của vấn đề này. Chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên nhằm nâng cao hiệu quả đồng vốn bỏ ra, tránh lãng phí tiền bạc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án liên quan đến an sinh xã hội, đến sự phát triển kinh tế của các chủ thể trong nền kinh tế hiện nay. Độ trễ thời gian là vấn đề tất yếu nhưng trong vấn đề đó ta thấy được lời giải của bài toán hiệu quả đồng vốn. Đó là nghĩa vụ cũng là quyền lợi của mỗi chủ thể trong nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trên đây là một số lý luận cũng như thực tiễn của vấn đề độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư. Bài viết có đưa ra một số giải pháp để có được một dự án đầu tư hiệu quả, làm sao để độ trễ thời gian không gây ra được những khó khăn, ách tắc của một công trình đầu tư, nâng cao hiệu quả nguồn lực đầu tư, qua đó góp phần đóng vai trò quan trọng bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao và liên tục trong các năm tiếp theo. Do thời gian và kiến thức có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp của các giảng viên và người đọc quan tâm. Tµi liÖu tham kh¶o 1. PGS.TS NguyÔn B¹ch NguyÖt, TS. Tõ Quang Ph­¬ng, Gi¸o tr×nh " Kinh tÕ ®Çu t­", NXB §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n, n¨m 2007. 2. NguyÔn Minh Phong, " CÇn lµm g× ®Ó c¶i thiÖn nguån vèn cho t¨ng tr­ëng kinh tÕ ë n­íc ta", ViÖn Nghiªn cøu kinh tÕ, Bé Tµi ChÝnh 3. NghÞ ®Þnh 16/2005/N§-CP ngµy 7/2/2005 vÒ qu¶n lý c¸c dù ¸n ®Çu t­ x©y dùng c«ng tr×nh 4. Bé KÕ ho¹ch ®Çu t­, " Ph©n tÝch nh÷ng nguyªn nh©n chñ yÕu dÉn ®Õn sù l·ng phÝ, thÊt tho¸t trong ho¹t ®éng ®Çu t­ vµ x©y dùng, ®Ò xuÊt c¸c biÖn ph¸p kh¾c phôc", §Ò tµi nghiªn cøu cÊp Bé, n¨m 2005. 5. Viet Nam economic time 2007-2008. 6. Tæng côc thèng kª, "Niªn gi¸m thèng kª 2007", NXB Thèng kª 8. NguyÔn C«ng NghiÖp, " Huy ®éng vµ sö dông c¸c nguån vèn trong n­íc", ViÖn nghiªc cøu tµi chÝnh, Bé tµi chÝnh. 9. Th«ng tÊn x· ViÖt Nam, "Thu hót vèn FDI triÓn väng trung vµ dµi h¹n"10/1/2009. 7. Website: www.Vietbao.vn www.hapi.gov.vn www.gov.vn www.inco.vn www.dddn.com.vn www.ca.cand.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6142.doc