Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong cộng đồng doanh nghiệp ngoài nhà nước

Các ưu điểm đó là: - DNTN có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp quy định tại điều 8, điều 9 Luật Doanh nghiệp 2005. Ngoài ra, chủ DNTN có thể chuyển đổi thành công ty TNHH14, bán hoặc cho thuê doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Trong đó cho thuê doanh nghiệp là đặc thù chỉ có ở DNTN. - Hoạt động và tổ chức của DNTN do chủ doanh nghiệp quyết định và cơ cấu. Quản lý doanh nghiệp được giao toàn quyền cho chủ doanh nghiệp là phù hợp vì doanh nghiệp do cá nhân đầu tư toàn bộ vốn, chịu trách nhiệm bằng cả sự nghiệp hiện tại và tương lai. Sự thành công hay thất bại trong kinh doanh đều do người chủ doanh nghiệp “đứng mũi chịu sào”. Tất yếu họ có quyền quyết định lấy ê kíp quản lý và kinh doanh của họ. - Tình cảm gia đình truyền thống tạo điều kiện cho DNTN tồn tại và đứng vững trong cộng đồng doanh nghiệp. Người Việt Nam thích thành lập DNTN và xem đó như là một phần của gia đình. DNTN có tính gia đình rất lớn, nó gắn liền với đời sống gia đình và DNTN dường như cũng là một gia đình, có gì thì “đóng cửa bảo nhau”. Vì lý do này mà nhiều DNTN hoạt động với phạm vi rộng, vốn lớn nhưng vẫn không quan tâm đến việc chuyển đổi thành các loại hình doanh nghiệp khác.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 226 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong cộng đồng doanh nghiệp ngoài nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 413 2011 THỰC TIẾN PHÁP LUẬT 1. Doanh nghiệp tư nhân Trước khi thực hiện công cuộc Đổi mới, cộng đồng doanh nghiệp ngoài Nhà nước chưa được ghi nhận về mặt pháp lý. Sau khi đổi mới, Luật DNTN và Luật Công ty ra đời đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp chính quy, hiện đại của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước. Theo quy định của pháp luật, các cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện đều có quyền thành lập hoặc tham gia thành lập các loại hình doanh nghiệp để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có DNTN. DNTN là một loại hình doanh nghiệp được Nhà nước định hướng phát triển nhằm phát huy mọi tiềm năng của các cá nhân trong xã hội, góp phần vào thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước. Theo quy định của pháp luật qua các thời kỳ, DNTN được hiểu như sau: Luật DNTN 1990: DNTN là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp2. Luật Doanh nghiệp 1999: DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp3. Luật Doanh nghiệp 2005: DNTN thoả mãn 3 điều kiện: (i) DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp; (ii) DNTN không được phát DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VIỆT NAM TRONG CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP NGOÀI NHÀ NƯỚC Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là loại hình doanh nghiệp dân doanh, được hình thành từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện đổi mới kinh tế. Sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp không chỉ gói gọn theo quy định của Luật Công ty 1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 mà ngày càng mở rộng không ngừng khi ban hành Luật Doanh nghiệp 1999, và Luật Doanh nghiệp 2005: công ty cổ phần, Công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn (Công ty TNHH) một thành viên, công ty TNHH có hai thành viên trở lên, công ty hợp danh, DNTN. Cộng đồng các doanh nghiệp ngoài nhà nước1 không ngừng được thành lập và phát triển như vũ bão, nhưng DNTN vẫn được lựa chọn đầu tư thành lập, tồn tại và phát triển. Sức sống của DNTN trong sự phát triển của cộng đồng doanh doanh nghiệp đang được quan tâm và nghiên cứu. Bài viết thông qua tình hình thành lập doanh nghiệp hiện nay để chỉ ra một số nhân tố làm nên sức sống của DNTN trong cộng đồng doanh nghiệp. TRƯơNG VĩNH XUÂN * (*) Phó trưởng khoa Nhà nước và pháp luật Học viện CT-HC Khu vực IV. (1) Được hiểu là các doanh nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005. (2) Điều 2 Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990. (3) Điều 99 Luật Doanh nghiệp 1999. 42 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011 THỰC TIẾN PHÁP LUẬT hành bất kỳ loại chứng khoán nào; (iii) mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một DNTN. Nhìn chung, DNTN là loại hình doanh nghiệp thoả mãn hai nội dung cơ bản: do cá nhân thành lập và chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp. Đây là hai nội dung thể hiện bản chất của DNTN và đồng thời, tạo sự khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác trong cộng đồng doanh nghiệp. Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế của nước ta. Không những thế, Nhà nước còn quy định đây là loại hình doanh nghiệp có địa vị pháp lý bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Cụ thể, DNTN không còn được điều chỉnh bởi Luật riêng mà được điều chỉnh bởi một văn bản pháp luật như các loại hình doanh nghiệp khác. Về cơ bản, định nghĩa pháp lý về DNTN có sự phát triển và hoàn thiện, các điều kiện và thủ tục thành lập DNTN ngày càng đơn giản nhằm khuyến khích thành lập loại hình doanh nghiệp này. 2. Doanh nghiệp tư nhân là cấu thành của cộng đồng doanh nghiệp 2.1. Về quan điểm Từ khi thực hiện Đổi mới, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế cùng chung sức đóng góp xây dựng nước nhà. Trải qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc (từ Đại hội VI đến Đại hội IX), thành phần kinh tế tư bản tư nhân luôn luôn được xem là yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế Việt Nam. Nội dung này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế4. Như vậy, DNTN là loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, cấu thành nên nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Thành phần kinh tế này không ngừng phát triển, trong đó có DNTN. 2.2. Về pháp lý Nhằm cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng về các thành phần kinh tế, Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật như: Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995, 2003)5, Luật DNTN (1990, sửa đổi bổ sung 1994), Luật Công ty (1990), Luật Doanh nghiệp (1999, 2005), Luật Hợp tác xã (1996, 2003), Luật Đầu tư nước ngoài (1996), Luật Đầu tư (2005), Luật Phá sản (1993, 2004). Theo đó, có các loại hình doanh nghiệp được định hình. Từ năm 1990 đến 1996 có các loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp nhà nước, DNTN, Công ty TNHH từ hai thành viên trở lên, Công ty Cổ phần, Hợp tác xã, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sau đó, do nhu cầu của nền kinh tế đang phát triển, các luật đã ban hành điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp bắt đầu có dấu hiệu lạc hậu, không còn phù hợp với nền kinh tế ngày càng phát triển và mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế. Một lần nữa, các luật này được sửa đổi, bổ sung hoặc được ban hành mới cho phù hợp với thực tiễn. Cùng với các loại hình doanh nghiệp cũ đã định hình, một loạt các loại doanh nghiệp khác không ngừng phát triển như Công ty TNHH một thành viên là tổ chức (Luật Doanh nghiệp (4) Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: topic=223&id=BT2540630903 (5) Được hiểu là Doanh nghiệp nhà nước ban hành năm 1995, sau đó được sửa đổi năm 2003. Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 433 2011 THỰC TIẾN PHÁP LUẬT 1999), Công ty TNHH một thành viên là cá nhân (Luật Doanh nghiệp 2005), các loại hình doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập và điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp 2005. Chúng ta thấy rằng, DNTN là loại hình doanh nghiệp xuất hiện từ những ngày khởi đầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Nó là thành phần không thể thiếu trong nền kinh tế Việt Nam và ngày càng có vị trí bình đẳng trong cộng đồng các loại hình doanh nghiệp đang tồn tại và hoạt động ở Việt Nam. 2.3. Về thực tế Kinh tế tư nhân (trong đó có DNTN) là thành phần quan trọng trong kết cấu thành quả kinh tế của Việt Nam. Tính đến 31/12/2005 số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động của cả nước là hơn 100.000 doanh nghiệp, tăng 23,54% so với 31/12/2004 và gấp gần 3 lần so với năm 2000. Bình quân năm của thời kỳ 2001-2005, số doanh nghiệp thực tế hoạt động tăng 28% (14.213 doanh nghiệp). Đóng góp của doanh nghiệp vào nền kinh tế ngày càng tăng, riêng năm 2005 đóng góp tới 53% GDP của cả nước. Đầu tư của doanh nghiệp năm 2005 cũng chiếm tới 55% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội và đã góp phần tích cực giải quyết tình trạng thất nghiệp đang là vấn đề bức xúc của xã hội. Năm 2007, Công ty Việt Nam Report - dựa trên mô hình Fortune 500 của Mỹ, đã bình bầu Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR500). Trong VNR500 đã có sự hiện diện của 103 DNTN, chiếm 21% tổng số các doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, với các ngành nghề sản xuất kinh doanh đa dạng. Xét trên góc độ doanh thu, trong giai đoạn 3 năm từ 2005 - 2007, tỷ trọng doanh thu của các DNTN trong tổng doanh thu các doanh nghiệp VNR500 đã có chiều hướng tăng, từ 11% năm 2005 lên 13% năm 2007. Tỷ trọng lợi nhuận cũng tăng thêm 3% trong hai năm gần đây. Trong năm 2007, các DNTN trong VNR 500 đã đóng góp trực tiếp cho ngân sách trên 10.000 tỷ đồng và thu hút được hơn 100.000 lao động6. Như vậy, các DNTN nói chung, DNTN có quy mô lớn nói riêng đang dần khẳng định vị thế của mình trong cộng đồng các doanh nghiệp lớn của Việt Nam. Điều này càng khẳng định vào năm 2008, khi mà DNTN cùng với Công ty TNHH đã chiếm khoảng 70 đến 80% tổng số doanh nghiệp trong cả nước7. 3. Doanh nghiệp tư nhân trước cơn bão thành lập các loại hình doanh nghiệp khác Từ khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời, các loại hình doanh nghiệp ngoài Nhà nước được đăng ký kinh doanh không ngừng tăng lên về số lượng. Tính đến cuối năm 2005, số lượng doanh nghiệp ngoài Nhà nước đã tăng từ 35.004 doanh nghiệp lên 105.167 doanh nghiệp (mức tăng 3 lần so với năm 2000). Trong đó, DNTN tăng 1,69 lần so với năm 2000 (đạt 34.646 doanh nghiệp năm 2005)8. Xét về cơ cấu các loại hình doanh nghiệp trong tổng số các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, năm 2006 DNTN chiếm 33% (tỷ lệ này giảm so với năm 2000, năm 2000 DNTN chiếm 58,7% trong tổng số các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh). Các Công ty ngoài Nhà nước đã tăng tốc thành lập kể từ khi Luật Doanh nghiệp 1999 được ban hành và có hiệu lực. So với Luật Công ty 1990, Luật Doanh nghiệp 1999 phát triển một loại hình mới - Công ty TNHH một thành viên là tổ chức. Kết quả số lượng công ty TNHH tăng vọt từ 10.454 công ty năm 2000 lên 53.505 công ty năm 2005 (tăng gấp 5 lần). Như vậy, từ năm 2000 đến cuối năm 2005, DNTN tăng nhưng tốc độ tăng của DNTN có phần hạn chế hơn so với các loại hình công ty, đặc biệt là công ty TNHH. Nhất là từ khi công ty TNHH một thành viên do tổ chức thành lập trở thành sự ưa chuộng của các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi sang. Ngoài ra, các loại (6) (7) Tính đến tháng 4/2008. Nguồn tại (8) 44 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011 THỰC TIẾN PHÁP LUẬT hình doanh nghiệp khác cũng được các cá nhân, tổ chức quan tâm và thành lập nhằm thích ứng với nền kinh tế nước ta hiện nay (Bảng 1). Các thủ tục pháp lý đăng ký kinh doanh đối với thành lập các loại hình doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 cũng được rút ngắn. Trước hết, rút ngắn một bước trong quá trình thành lập doanh nghiệp, chỉ còn thủ tục đăng ký kinh doanh, thủ tục xin phép thành lập doanh nghiệp đã được lược bỏ. Thứ đến, các điều kiện đăng ký kinh doanh được đơn giản hóa hoặc bãi bỏ, như mức vốn pháp định, làm cho các cá nhân mạnh dạn đầu tư thành lập doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Do vậy, việc thành lập các loại hình doanh nghiệp đã có sự gia tăng vượt bậc so với trước đó, tăng 3 lần so với tổng số doanh nghiệp được thành lập trong cả thập kỷ trước (1990-1999). Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy rằng, sự tăng lên của các loại hình doanh nghiệp là không đồng đều. Tính đến tháng 1/2005 một nhà đầu tư vẫn mất 50 ngày và qua 11 thủ tục để thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam9 tuỳ từng loại hình doanh nghiệp. Thủ tục đăng ký kinh doanh vẫn là rào cản để phát triển số lượng doanh nghiệp. Năm 2005, Luật Doanh nghiệp 2005 được ban hành thay thế Luật Doanh nghiệp 1999, và có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết tháng 9/2008, cả nước có 350.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2009, cả nước có khoảng 49.300 doanh nghiệp được thành lập và đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký khoảng 377.100 tỷ đồng, tăng 27,4% về số lượng và 28% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 200810. Bắt đầu từ năm 2005, các nhà đầu tư lựa chọn thành lập loại hình DNTN đã có chiều hướng giảm dần, nhường thị phần cho công ty TNHH trong cơ cấu chung các loại hình doanh nghiệp. Và xu hướng này càng thể hiện rõ nét Bảng 1 Nguồn: Đơn vị tính: Doanh nghiệp Năm Loại hình DN ngoài nhà nước 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tập thể 3.237 3.646 4.104 4.150 5.349 6.334 Tư nhân 20.548 22.777 24.794 25.653 29.980 34.646 Cty hợp danh 4 5 24 18 21 37 Cty TNHH 10.458 16.291 23.485 30.164 40.918 52.505 Cty cổ phần có vốn Nhà nước 305 470 558 669 815 1096 Cty cổ phần không có vốn Nhà nước 452 1.125 2.272 3.872 6.920 10.549 Tổng số 35.004 44.314 55.237 64.526 84.003 105.167 (9) Cũng có ý kiến cho rằng thống kê này là chưa chính xác, vì tuỳ thuộc vào lại hình doanh nghiệp được thành lập và ngành nghề kinh doanh mà có thời gian đăng ký kinh doanh khác nhau. Nguồn tại: (10) Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 453 2011 THỰC TIẾN PHÁP LUẬT ở những năm sau. Qua cơ cấu chung của các loại hình doanh nghiệp, công ty TNHH có chiều hướng gia tăng và là sự lựa chọn của nhiều người. Ví dụ tỉnh Bình Thuận, loại hình DNTN giảm (từ 32% năm 2007 còn 25%), công ty TNHH hai thành viên giảm (từ 39,6 % năm 2007 còn 33,2%), công ty cổ phần tăng (từ 9,8% năm 2007 lên 11,9%) và công ty TNHH một thành viên tăng (từ 18,6 % năm 2007 lên 29,8%)11. Tình hình cũng xảy ra tương tự đối với một số tỉnh khác như Bắc Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Kiên Giang... DNTN không còn là sự lựa chọn tối ưu cho các nhà đầu tư. Trong cộng đồng doanh nghiệp ngoài Nhà nước đang hoạt động hiện nay, sự lựa chọn loại hình doanh nghiệp có những biến động theo chu kỳ. Những năm 90 của thế kỷ trước, DNTN như là hiện tượng trong thời kỳ này. Sau năm 2000, loại hình Công ty TNHH bắt đầu có sự quan tâm của các nhà đầu tư và được lựa chọn cho kế hoạch kinh doanh. Công ty TNHH cùng với DNTN đã chiếm một tỷ lệ khá lớn trong cộng đồng doanh nghiệp ngoài nhà nước (82,6%). Khi nhu cầu cần có Luật Doanh nghiệp chung điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp với thủ tục thành lập đơn giản, nhanh gọn và đáp ứng nhu cầu của thị trường, Luật Doanh nghiệp 2005 được ban hành và tạo thành một bước tiến lớn trong sự phát triển các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế, ngày càng hướng đến mục tiêu mà Chính phủ đề ra là đến năm 2010, cả nước thành lập 500.000 doanh nghiệp. Năm 2007, Luật Chứng khoán ra đời đã tạo điều kiện cho nhu cầu huy động vốn của các nhà đầu tư. Công ty cổ phần đang ngày càng phát triển để đáp ứng nhu cầu đó. DNTN giờ đây không còn là sự lựa chọn của các nhà đầu tư. Cộng đồng doanh nghiệp ngoài Nhà nước bắt đầu có cuộc đua tam mã giữa DNTN, Công ty TNHH và Công ty cổ phần. Mỗi loại hình có những ưu điểm, nhược điểm trong quá trình thành lập và hoạt động. Nếu xét dưới góc độ cá nhân đầu tư thành lập doanh nghiệp thì DNTN và Công ty TNHH một thành viên là cá nhân sẽ được xem xét lựa chọn. Công ty TNHH một thành viên là cá nhân có rất nhiều ưu điểm. Đây là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, công ty có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Đặc điểm chịu trách nhiệm hữu hạn là một lợi thế cạnh tranh của Công ty so với DNTN. Cá nhân chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn điều lệ về các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác của công ty. Chính vì lý do đó, đã có quan điểm cho rằng, việc cho phép thành lập công ty TNHH một thành viên là cá nhân sẽ vô hiệu hoá hình thức DNTN. Vì DNTN không có tư cách pháp nhân, và chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp. Tuy vậy, trong cuộc đua tam mã, mặc dù có nhiều hạn chế nhưng DNTN vẫn còn được nhiều nhà đầu tư lựa chọn. Chắc chắn rằng, DNTN vẫn có những ưu điểm riêng có của nó để có thể thu hút sự lựa chọn. 4. Nhân tố khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp tư nhân trong cộng đồng doanh nghiệp Luật Doanh nghiệp 2005 quy định loại hình công ty TNHH một thành viên là cá nhân là phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế. Loại hình công ty TNHH một thành viên là cá nhân cần thiết trong nền kinh tế thể hiện quyền tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, tạo sự bình đẳng về quyền thành lập doanh nghiệp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Trên thực tế đã có công ty TNHH một thành viên là cá nhân nước ngoài hoạt động ở Việt Nam; làm đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp, tạo thêm kênh huy động vốn trong nhân dân; và góp phần xoá bỏ tính hình thức của công ty TNHH nhiều thành viên, nhưng thực chất chỉ có một thành viên làm chủ sở hữu12. Tuy vậy, sự ra đời của loại hình Công ty TNHH một (11) (12) Báo cáo số 457/UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, ban hành ngày 28/11/2005 về giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự án Luật Doanh nghiệp trình Quốc hội thông qua. 46 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011 THỰC TIẾN PHÁP LUẬT thành viên là cá nhân không thể vô hiệu hoá hình thức DNTN bởi DNTN cũng có sức sống trong nền kinh tế, cũng có những ưu điểm thu hút các nhà đầu tư trong nước lựa chọn thành lập loại hình doanh nghiệp dưới hình thức DNTN. Các ưu điểm đó là: - DNTN có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp quy định tại điều 8, điều 9 Luật Doanh nghiệp 2005. Ngoài ra, chủ DNTN có thể chuyển đổi thành công ty TNHH14, bán hoặc cho thuê doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Trong đó cho thuê doanh nghiệp là đặc thù chỉ có ở DNTN. - Hoạt động và tổ chức của DNTN do chủ doanh nghiệp quyết định và cơ cấu. Quản lý doanh nghiệp được giao toàn quyền cho chủ doanh nghiệp là phù hợp vì doanh nghiệp do cá nhân đầu tư toàn bộ vốn, chịu trách nhiệm bằng cả sự nghiệp hiện tại và tương lai. Sự thành công hay thất bại trong kinh doanh đều do người chủ doanh nghiệp “đứng mũi chịu sào”. Tất yếu họ có quyền quyết định lấy ê kíp quản lý và kinh doanh của họ. - Tình cảm gia đình truyền thống tạo điều kiện cho DNTN tồn tại và đứng vững trong cộng đồng doanh nghiệp. Người Việt Nam thích thành lập DNTN và xem đó như là một phần của gia đình. DNTN có tính gia đình rất lớn, nó gắn liền với đời sống gia đình và DNTN dường như cũng là một gia đình, có gì thì “đóng cửa bảo nhau”. Vì lý do này mà nhiều DNTN hoạt động với phạm vi rộng, vốn lớn nhưng vẫn không quan tâm đến việc chuyển đổi thành các loại hình doanh nghiệp khác. - Uy tín tài chính của DNTN lớn hơn rất nhiều so với Công ty TNHH một thành viên. Trong điều kiện kinh tế thị trường, uy tín của doanh nghiệp rất được đối tác quan tâm. Hiện nay uy tín tài chính của doanh nghiệp được chuyển từ cơ quan quản lý nhà nước sang các doanh nghiệp đối tác15 trong quá trình hợp tác kinh doanh. Các đối tác muốn yên tâm đầu tư, muốn quan hệ hợp tác kinh doanh phải tự thân kiểm tra các thông tin liên quan, còn cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp chỉ tạo điều kiện để họ có được những thông tin pháp lý cần thiết. Công ty TNHH một thành viên được đảm bảo nghĩa vụ tài chính trong (13) Luật Doanh nghiệp 2005 (14) Điều 24 Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp (15) Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm tính hợp pháp của vồn điều lệ, trừ một số ngành nghề kinh doanh đòi hỏi có vốn pháp định. Điều 143. Quản lý doanh nghiệp 1. Chủ DNTN có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. 2. Chủ DNTN có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp thì chủ DNTN phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 3. Chủ DNTN là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp. 4. Chủ DNTN là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.13 (Xem tiếp trang 60)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoanh_nghiep_tu_nhan_viet_nam_trong_cong_dong_doanh_nghiep_n.pdf
Tài liệu liên quan