Về hoàn thiện thể chế, chính sách phát
triển bền vững
Hệ thống thể chế, chính sách phát triển
bền vững có tính hệ thống và liên ngành, đa
ngành rõ nét. Chính phủ với mô hình bộ
quản lý đa ngành có nhiều điều kiện thuận
lợi hơn để xây dựng, hoàn thiện hệ thống
thể chế phát triển bền vững, nâng cao chất
lượng quản trị quốc gia đối với phát triển
bền vững đất nước. Các nhóm thể chế, chính
sách cần tập trung xây dựng là:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật
pháp, cơ chế, chính sách theo hướng điều
chỉnh, bổ sung và ban hành mới nhằm đảm
bảo khung pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện
Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020; ưu tiên tập trung hoàn
chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật về bảo
vệ môi trường.
- Tăng cường hiệu quả quản lý nhà
nước theo hướng đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao tính minh bạch trong quản
trị quốc gia và phòng, chống tham nhũng;
tăng cường phối hợp giữa các bên liên quan
trong tổ chức thực hiện; kiện toàn hệ thống
tổ chức bộ máy các cấp để đảm nhiệm công
tác quản lý phát triển bền vững.
- Lồng ghép các quan điểm, nguyên
tắc phát triển bền vững trong các chiến lược,
chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển;
đảm bảo việc xây dựng và tổ chức thực hiện
các chương trình mục tiêu quốc gia phải gắn
với Chiến lược đã được Chính phủ thông
qua và phải được kiểm tra, đánh giá theo
các tiêu chí, chỉ tiêu phát triển bền vững một
cách thường xuyên, chặt chẽ.
- Xây dựng các chương trình/kế hoạch
hành động các cấp để thực hiện Chiến lược
phát triển bền vững.
- Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, cập
nhật để hoàn thiện bộ chỉ tiêu giám sát, đánh
giá phát triển bền vững cho phù hợp với
từng giai đoạn phát triển.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới chính phủ hướng tới sự phát triển bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỔI MỚI CHÍNH PHỦ HƯỚNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Tóm tắt:
Bài viết này sẽ tập trung giải quyết một số vấn đề sau: 1) Nhận
thức của Đảng, Chính phủ Việt Nam về phát triển bền vững; 2)
Xác định vai trò của Chính phủ đối với sự phát triển bền vững ở
Việt Nam; 3) Những thành tựu đạt được, những hạn chế, bất cập
trong thực hiện chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.
Nguyễn Quốc Sửu*
* PGS. TS. Học viện Hành chính quốc gia.
Abstract
This article is to focus on addressing the following matters: 1)
awareness of the Party and Government of Vietnam on sustainable
development; 2) determination of the role of the Government
for sustainable development in Vietnam; 3) achievements,
shortcomings in the implementation of the strategy for sustainable
development in Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Chính phủ; chính sách; cải
cách; quản trị quốc gia; phát triển bền
vững.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 05/08/2019
Biên tập : 18/08/2019
Duyệt bài : 22/08/2019
Article Infomation:
Keywords: Goverment; policies; reform;
national governance; sustainable
development.
Article History:
Received : 05 Aug. 2019
Edited : 18 Aug. 2019
Approved : 22 Aug. 2019
Đặt vấn đề:
Phát triển bền vững là một khái niệm
tương đối hẹp lúc ra đời1. Ngày nay, phát
triển bền vững đã trở thành mục tiêu của mọi
chính sách phát triển, logic này cho thấy sự
tác động qua lại giữa chủ thể kiến tạo, phát
triển (chính phủ) với phát triển bền vững có
1 Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn thế giới (công
bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên thiên nhiên quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát
triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã
hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”.
2 Thủ tướng Chính phủ cho biết sẽ ban hành chỉ thị về phát triển bền vững, xem: vn/Home/
Thu-tuong-se-ban-hanh-chi-thi-ve-phat-trien-ben-vung/20187/28440.vgp (truy cập ngày 29/8/2018).
lẽ sẽ ngày càng gần gũi, sâu sắc trên nhiều
phương diện. Chính phủ Việt Nam bên cạnh
ưu tiên phát triển kinh tế cũng đồng thời
khẳng định sẽ theo đuổi mục tiêu phát triển
bền vững2. Do đó, mọi khởi xướng cải cách
của Chính phủ Việt Nam trong thời gian tới
cần được gắn với mục tiêu phát triển bền
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 17(393) T9/2019
vững như một chiến lược quốc gia về hành
động. Điều này đòi hỏi phải xác định được
một cách thuyết phục các mục tiêu của phát
triển bền vững, kèm theo đó là hệ thống các
công cụ quản lý phù hợp (thể chế), năng lực
chủ thể đủ để vận hành hệ thống nhằm đạt
được các mục tiêu quản lý nhà nước trong
phát triển bền vững.
1. Nhận thức của Đảng, Chính phủ Việt
Nam về phát triển bền vững
Phát triển bền vững (PTBV) đã được
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ Việt
Nam xác định là một mục tiêu chiến lược,
lâu dài.
Ở Việt Nam, khái niệm “phát triển bền
vững” được biết đến, được triển khai nghiên
cứu lý luận bởi các nhà khoa học vào khoảng
cuối thập kỷ 80 - đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
XX. Cùng với các nước trên thế giới, phát
triển bền vững đã trở thành nhu cầu cấp bách
và xu thế tất yếu trong tiến trình xây dựng,
phát triển đất nước Việt Nam theo đường lối
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhận thức rõ
ý nghĩa, tầm quan trọng của phát triển bền
vững, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số
36-CT/TW ngày 25/6/1998 về tăng cường
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chỉ
thị nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một
nội dung cơ bản không thể tách rời trong
đường lối. chủ trương và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành,
là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền
vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Theo
tinh thần đó, quan điểm phát triển của Đảng
được nêu trong Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2001 - 2010 là: “Phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế
đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường”3. Đây là lần đầu
tiên trục tam giác tăng trưởng kinh tế - thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội - bảo vệ môi
trường với tư cách là những thành tố nằm
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.162.
4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,
tr.163-164.
trong mối liên hệ gắn kết chặt chẽ với nhau
tạo nên sự phát triển bền vững được Đảng
ta đề cập một cách cụ thể, rõ ràng và trở
thành một quan điểm phát triển chính thức
của Đảng. “Phát triển kinh tế - xã hội gắn
chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo
đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo
với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng
sinh học”4.
Quan điểm của Đảng về phát triển bền
vững là cơ sở lý luận để Chính phủ ban hành
“Định hướng chiến lược phát triển bền vững
ở Việt Nam” (Ban hành kèm theo Quyết
định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004
của Thủ tướng Chính phủ). Định hướng
chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam
gồm 5 phần: phần 1: Phát triển bền vững -
con đường tất yếu của Việt Nam; phần 2:
Những lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên nhằm
phát triển bền vững; phần 3: Những lĩnh
vực xã hội cần ưu tiên nhằm phát triển bền
vững; phần 4: Những lĩnh vực sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và
kiểm soát ô nhiễm cần ưu tiên nhằm phát
triển bền vững; phần 5: Tổ chức thực hiện
phát triển bền vững. Mục tiêu tổng quát của
phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ
về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn
hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự
đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con
người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là
phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo
vệ môi trường. Từ mục tiêu tổng quát, trong
“Định hướng chiến lược phát triển bền vững
ở Việt Nam” cũng đã xác định các mục tiêu
cụ thể phát triển bền vững về kinh tế, phát
triển bền vững về xã hội và phát triển bền
vững về môi trường. Để bảo đảm thực hiện
thành công mục tiêu tổng quát cũng như
các mục tiêu cụ thể về phát triển bền vững,
Chính phủ Việt Nam cũng đã đề ra các nhóm
giải pháp tổ chức thực hiện định hướng phát
triển bền vững, gồm: 1) Hoàn thiện vai trò
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 17(393) T9/2019
của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện
phát triển bền vững; 2) Huy động toàn dân
tham gia thực hiện phát triển bền vững; 3)
Hợp tác quốc tế để phát triển bền vững.
Quan điểm phát triển bền vững tiếp
tục được Đảng ta đề cập một cách cụ thể,
sâu sắc hơn trên từng lĩnh vực kinh tế, xã
hội, môi trường trong văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X. Trên lĩnh vực kinh
tế: “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp
độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn,
gắn với phát triển con người”5. Về mặt xã
hội, “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt
các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con
người”6. Trong lĩnh vực môi trường, Đảng ta
nhấn mạnh: “Phát triển nhanh phải đi đôi với
nâng cao tính bền vững, hai mặt tác động lẫn
nhau, được thể hiện ở cả tầm vĩ mô và vi mô,
ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn... Phải rất coi
trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay
trong từng bước phát triển”7.
Nếu như trong văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX và Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X, Đảng ta chủ yếu đưa ra
những quan điểm có tính chất định hướng
cho sự phát triển bền vững đất nước thì quan
điểm phát triển bền vững được thể hiện tập
trung, xuyên suốt trong văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, từ
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020 cho đến Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng; biểu hiện trên hầu hết
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.76.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.77.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,
tr.178-179.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
20011, tr.98.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.99.
hội, bảo vệ môi trường...
Trước tiên, trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, quan điểm
phát triển bền vững được Đảng ta đặt ở vị trí
hàng đầu trong số các quan điểm phát triển,
thể hiện thành một mệnh đề: “1. Phát triển
nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát
triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong
Chiến lược”8. Để có thể hoàn thành mục tiêu
chiến lược phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII thì phát triển
nhanh đang là yêu cầu đặt ra một cách cấp
thiết; song phải bảo đảm và dựa trên nền tảng
phát triển bền vững. Giữa phát triển nhanh
và phát triển bền vững có mối quan hệ mật
thiết với nhau: “Phát triển bền vững là cơ
sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để
tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát
triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt
với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính
sách phát triển kinh tế - xã hội”9.
Quan điểm của Đảng về phát triển bền
vững đặt ra yêu cầu là phát triển bền vững
phải được biểu hiện cụ thể ở từng lĩnh vực
của đời sống xã hội mà trước hết là trong
lĩnh vực kinh tế; bởi lẽ, phát triển kinh tế
là đầu tàu, động lực thúc đẩy phát triển các
lĩnh vực khác. Kinh tế tăng trưởng, phát triển
lại là điều kiện quan trọng để Nhà nước, xã
hội chăm lo phát triển văn hóa, giáo dục, bảo
đảm an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và tăng cường mạnh mẽ công
tác bảo vệ môi trường. “Phải phát triển bền
vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế
vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng
suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 17(393) T9/2019
hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều
sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng
kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội
phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu”10. Tuy nhiên, để đất nước có thể phát
triển bền vững thì điều kiện tiên quyết là
môi trường chính trị phải ổn định, an ninh,
quốc phòng phải được tăng cường, độc lập,
chủ quyền quốc gia phải được bảo vệ vững
chắc. Vì lẽ đó, Đảng nhấn mạnh: “Phải đặc
biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước
phát triển nhanh và bền vững”11.
2. Vai trò của Chính phủ trong việc bảo
đảm phát triển bền vững ở Việt Nam
Ngày nay, nói đến phát triển bền vững
người ta thường đề cập một cách ngắn gọn,
rằng đó là sự phát triển hướng tới nền kinh
tế xanh, xã hội xanh và môi trường xanh.
Chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, tăng
trưởng xanh gắn với xã hội xanh và môi
trường xanh là cả một tiến trình mà ở đó đòi
hỏi sự hội tụ, tác động của rất nhiều yếu tố
theo cách tiếp cận tư duy hệ thống. Trong tiến
trình đó, về cơ bản, nổi lên vai trò kiến tạo
của Chính phủ vừa với tư cách là người tạo
lập thể chế, chính sách định hướng chuyển
đổi sang nền kinh tế xanh; vừa với tư cách
là nhà đầu tư, tập trung mọi nỗ lực đầu tư để
dẫn dắt doanh nghiệp và người dân hướng
tới nền kinh tế xanh, tiêu dùng xanh, đầu tư
cho nghiên cứu khoa học, chuyển giao công
nghệ xanh. Cách tiếp cận tư duy hệ thống đòi
hỏi bên cạnh việc phân tích vai trò của từng
yếu tố phải chú ý đến việc đánh giá sự tương
tác, mối quan hệ nhân quả, cộng hưởng hay
triệt tiêu nhau của các yếu tố đó. Đồng thời,
trong hệ thống, tương quan giữa các yếu tố
10 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,2006,
tr.98-99.
11 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.99.
không chỉ có các hậu quả trực tiếp mà còn có
cả hệ lụy gián tiếp nữa. Như vậy, cách tiếp
cận tư duy hệ thống sẽ cung cấp bức tranh
chính xác hơn về thực tế để từ đó có thể tìm
ra các giải pháp phù hợp. Để có thể chuyển
đổi thành công sang nền kinh tế xanh gắn
với xã hội xanh và môi trường xanh thì vai
trò đặc biệt quan trọng thuộc về Chính phủ,
thể hiện trên những điểm cụ thể sau:
Thứ nhất, Chính phủ thiết lập những
khuôn khổ pháp lý phù hợp nhằm định
hướng phát triển nền kinh tế theo hướng
tăng trưởng xanh. Chính phủ bằng việc ban
hành thể chế, cơ chế, chính sách phù hợp
sẽ đóng vai trò tạo dựng môi trường khuyến
khích xanh hóa nền kinh tế. Khuôn khổ pháp
lý được thiết kế phù hợp có thể xác định
quyền và tạo động lực định hướng hoạt động
kinh tế xanh, cũng như loại bỏ rào cản đối
với các khoản đầu tư xanh và điều tiết những
hành vi thiếu bền vững gây phương hại tới
môi trường, bằng cách tạo ra các tiêu chuẩn
tối thiểu hoặc ngăn cấm hoàn toàn một số
hoạt động. Hơn nữa, khuôn khổ pháp lý đầy
đủ, phù hợp giúp giảm thiểu nguy cơ rủi ro
trong kinh doanh cũng như gia tăng độ tin
cậy của nhà đầu tư vào hoạt động sản xuất,
phát triển thị trường. Hoạt động của doanh
nghiệp sẽ thuận lợi hơn khi những tiêu
chuẩn, nhất là những tiêu chuẩn liên quan
đến bảo vệ môi trường, trở nên rõ ràng, cụ
thể và được thực thi một cách hiệu quả; khi
đó, các doanh nghiệp sẽ có chung một mặt
bằng/môi trường công bằng để cạnh tranh,
tránh được tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh từ những doanh nghiệp không tuân
thủ. Cùng với việc hoàn thiện thể chế, Chính
phủ cần xây dựng, ban hành hệ thống các
văn bản quy phạm kinh tế - kỹ thuật, các
tiêu chí, tiêu chuẩn xanh, thân thiện với môi
trường cho từng ngành, từng lĩnh vực của
nền kinh tế; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu
thống nhất về tài nguyên, môi trường và biến
đổi khí hậu theo những tiêu chuẩn quốc tế;
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 17(393) T9/2019
đồng thời, có cơ chế phù hợp để khai thác,
chia sẻ thông tin, sử dụng có hiệu quả nguồn
cơ sở dữ liệu. Đây là những định hướng cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, người dân.
Thứ hai, Chính phủ ưu tiên đầu tư
và chi tiêu cho những lĩnh vực/hoạt động
kích thích xanh hóa nền kinh tế. Đó là các
khoản ưu tiên đầu tư để thúc đẩy phát triển,
sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo,
các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới
thay thế các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu,
tài nguyên truyền thống. Trong cơ cấu tài
chính - ngân sách hàng năm, Chính phủ cần
ưu tiên đầu tư cho việc chuyển đổi cơ cấu sử
dụng năng lượng của nền kinh tế theo hướng
tăng tỷ trọng sử dụng năng lượng mới, năng
lượng tái tạo trong tổng yêu cầu sử dụng
năng lượng của quốc gia; khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển
năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Những
khoản trợ cấp xanh như biện pháp hỗ trợ giá,
ưu đãi thuế, trợ cấp trực tiếp và hỗ trợ vay
vốn có thể là đòn bẩy mạnh mẽ để chuyển
đổi sang nền kinh tế xanh. Bên cạnh những
khoản trợ cấp xanh, cần hạn chế đầu tư, chi
tiêu trong những lĩnh vực có nguy cơ cao
gây ô nhiễm môi trường, làm cạn kiệt nguồn
lực tự nhiên. Nhiều quốc gia đã phải trả
những khoản chi phí đáng kể về kinh tế và
môi trường vì các khoản đầu tư, chi tiêu, trợ
cấp không hợp lý; bởi lẽ, nếu cố ý giảm giá
hàng hóa thông qua trợ cấp sẽ khuyến khích
sự tiêu dùng không hiệu quả, lãng phí, quá
nhu cầu, từ đó dẫn đến khan hiếm các nguồn
tài nguyên hữu hạn, có giá trị hoặc làm suy
thoái các tài nguyên tái tạo và suy thoái hệ sinh
thái sớm hơn dự tính.
Thứ ba, Chính phủ sử dụng chính
sách thuế, các công cụ dựa vào thị trường
để thay đổi ưu tiên của người tiêu dùng,
thúc đẩy đầu tư xanh và cải tiến công nghệ.
Thuế và các công cụ dựa vào thị trường là
một phương thức hiệu quả nhằm kích thích
đầu tư. Hiện tượng giá cả bị sai lệch thường
làm nản lòng các nỗ lực đầu tư xanh hoặc
không khuyến khích việc mở rộng quy mô
đầu tư xanh. Trong một số lĩnh vực kinh
tế, ví dụ ngành giao thông vận tải, các tác
động ngoại biên tiêu cực như ô nhiễm môi
trường, ảnh hưởng đến sức khỏe hoặc giảm
năng suất lao động... thường không được
chú trọng phản ánh trong chi phí hoạt động;
do đó, không khuyến khích việc chuyển đổi
sang sử dụng các loại hàng hóa và dịch vụ
có tính chất bền vững hơn. Vì vậy, cần tính
toán đầy đủ cả các chi phí do tác động ngoại
biên vào giá cả hàng hóa/dịch vụ thông qua
công cụ thuế, phí hoặc sử dụng các công cụ
thị trường khác.
Thứ tư, Chính phủ cần chú trọng đầu
tư vào việc nâng cao năng lực quản trị của
các cơ quan chức năng. Sự thành bại trong
mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, suy
cho cùng, đều xuất phát từ năng lực quản trị
của cơ quan hữu quan, trong đó, nhân tố con
người giữ vai trò quyết định. Sự chuyển đổi
sang nền kinh tế xanh đặt ra yêu cầu phải tăng
cường năng lực của các cơ quan chức năng về
các kỹ năng phân tích thách thức, xác định cơ
hội và ưu tiên cho các hoạt động, huy động
nguồn lực, thực hiện chính sách và đánh giá
tiến độ. Để duy trì động lực của giai đoạn
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, Chính phủ
cần phải lượng hóa, đo lường được những
tiến bộ đạt được. Điều này đòi hỏi phải xây
dựng được bộ chỉ số, thu thập dữ liệu, phân
tích và diễn giải kết quả để định hướng phát
triển, hoàn thiện chính sách. Những yêu cầu
nêu trên đòi hỏi bộ máy nhà nước và đội ngũ
cán bộ, công chức phải có năng lực, trình
độ, đáp ứng yêu cầu hoạch định và ban hành
chính sách; tổ chức thực hiện chính sách;
thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm... Muốn
vậy, đội ngũ cán bộ, công chức phải thường
xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến
thức chuyên môn, nghiệp vụ, tiếp thu kinh
nghiệm quốc tế.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc
tế trong thúc đẩy phát triển kinh tế xanh.
Các thỏa thuận quốc tế về môi trường đã và
đang tạo điều kiện và kích thích quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Chẳng
hạn, các thỏa thuận đa phương về môi trường
(Multilateral environmental agreements -
MEAs) đã thiết lập các khuôn khổ pháp luật
và thể chế mang tính quốc tế để giải quyết
những thách thức về môi trường toàn cầu,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 17(393) T9/2019
giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các
lĩnh vực hoạt động kinh tế xanh. Ví dụ, Nghị
định thư Montreal về các chất làm suy giảm
tầng ôzôn được công nhận rộng rãi là một
trong những thỏa thuận đa phương về bảo
vệ môi trường thành công nhất. Công ước
chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu
(UNFCCC) đã kích thích một lĩnh vực kinh
tế tăng trưởng như công nghệ sản xuất năng
lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu
quả để giải quyết vấn đề phát thải khí thải
nhà kính... Trong khuôn khổ các thỏa thuận
đa phương đó, Chính phủ Việt Nam cần tăng
cường hơn nữa hợp tác quốc tế nhằm thúc
đẩy, phục vụ phát triển kinh tế xanh.
Thứ sáu, Chính phủ duy trì, bảo đảm
tài chính cho quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế xanh. Quy mô tài chính cần
thiết cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế xanh là rất lớn, có thể huy động nguồn
vốn cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế xanh bằng các chính sách tài chính công
thông minh và cơ chế tài chính sáng tạo.
Tốc độ tăng trưởng của thị trường vốn, các
định hướng phát triển xanh của thị trường
này, sự phát triển của các công cụ thị trường
mới nổi như tài chính cacbon, tài chính vi
mô và các quỹ kích thích xanh ứng phó với
suy thoái kinh tế những năm gần đây đã và
đang mở ra không gian rộng cho nguồn tài
chính phục vụ quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế xanh ở quy mô toàn cầu. Tuy nhiên,
những nguồn vốn này vẫn còn khiêm tốn so
với tổng khối lượng yêu cầu nên cần được
tiếp tục phát triển, nhân rộng.
3. Những thành tựu đạt được, những hạn
chế, bất cập trong thực hiện Định hướng
chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam
Thực hiện quan điểm của Đảng, căn cứ
vào Chương trình hành động thế kỷ XXI của
Liên hợp quốc, Thủ tướng Chính phủ Việt
Nam đã ban hành “Định hướng chiến lược
phát triển bền vững ở Việt Nam” (Chương
trình nghị sự 21 của Việt Nam; Ban hành kèm
theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày
17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ). Định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam nêu bật những vấn đề đang đặt ra trong
ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường,
những thách thức mà Việt Nam đang phải đối
phó. Chiến lược đã tạo lập mối quan hệ tương
hỗ giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi
trường; đã xác định khung thời gian để thực
hiện và gắn trách nhiệm của các ngành, các
địa phương, các tổ chức và các nhóm xã hội;
đã tính tới việc sử dụng các nguồn lực tổng
hợp để thực hiện chiến lược. Chính phủ cũng
đã thành lập Hội đồng phát triển bền vững
quốc gia để chỉ đạo, giám sát việc thực hiện
các mục tiêu đã đề ra. Ngày 12/4/2012, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
432/2012/QĐ-TTg về phê duyệt Chiến lược
phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011
- 2020 với nhiều điều chỉnh, bổ sung quan
trọng về nội dung cũng như quản lý nhà nước
về phát triển bền vững.
Trên phương diện thực hiện vai trò tổ
chức thực hiện phát triển bền vững ở nước
ta trong những năm qua, Chính phủ đã có
những thay đổi và đạt được những thành tựu
nhất định, nhất là trong vai trò phát triển thể
chế và tăng cường năng lực quản lý sự phát
triển bền vững.
- Về phát triển thể chế: Việt Nam
đạt được một số kết quả khả quan về xây
dựng khuôn khổ thể chế, luật pháp có liên
quan đến phát triển kinh tế, xã hội và bảo
vệ môi trường, bao gồm: (i) Hệ thống cơ
quan quản lý nhà nước về phát triển kinh tế,
xã hội và bảo vệ môi trường ở Trung ương
và địa phương được thành lập đồng bộ, có
chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức rõ
ràng, đang hoạt động có hiệu quả; (ii) Đã
ban hành được hệ thống các chính sách và
văn bản pháp luật quan trọng về công tác kế
hoạch hoá và quản lý phát triển trên các mặt
kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.
- Về tăng cường năng lực quản lý sự
phát triển bền vững: Tăng cường năng lực
cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường ở tất cả các cấp quản lý là một trong
những công tác trọng điểm nhằm thực hiện
thắng lợi định hướng chiến lược phát triển
bền vững ở Việt Nam. Công tác này ở nước ta
thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả trên
các nội dung chính như: (i) Đào tạo, nâng cao
năng lực chuyên môn và nghiệp vụ cho các tổ
chức và đội ngũ cán bộ có liên quan đến công
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 17(393) T9/2019
tác quản lý môi trường ở các cấp; (ii) Thành
lập tổ chức quản lý môi trường tại các bộ,
ngành để thực hiện chức năng quản lý môi
trường của ngành; (iii) Tăng cường năng lực
cho các cơ quan nghiên cứu và quan trắc môi
trường; (iv) Tăng cường hệ thống thông tin
môi trường quốc gia, ngành và địa phương;
(v) Xây dựng hệ thống hạch toán kinh tế môi
trường; sử dụng các công cụ kinh tế để thúc
đẩy công tác bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, trong cơ cấu tổ chức bộ
máy, hoạt động của Chính phủ vẫn còn những
hạn chế, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán trong
các quy định về tổ chức bộ máy của Chính
phủ, ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện
phát triển bền vững như:
- Cơ quan thuộc Chính phủ chịu sự
quản lý nhà nước của bộ quản lý ngành, lĩnh
vực và thực hiện chế độ báo cáo với Thủ
tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng (khoản
2 Điều 2 và khoản 5 Điều 3 Nghị định số
10/2016/NĐ-CP); trong khi đó, Luật Tổ
chức Chính phủ năm 2015 quy định cơ quan
thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm trước
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về nhiệm
vụ, quyền hạn được giao, phân công (Điều
42 Luật Tổ chức Chính phủ 2015).
- Các bộ, cơ quan ngang bộ trong
khuôn khổ, phạm vi ngành, lĩnh vực quản lý
không thể trực tiếp bãi bỏ những văn bản quy
phạm pháp luật có sai phạm, thiếu sót từ các
cơ quan thuộc Chính phủ (chịu sự quản lý của
bộ ngành theo Nghị định số 10/2016/NĐ-CP)
mà phải trình lên Thủ tướng Chính phủ12.
- Về quản lý tài chính, tài sản của cơ
quan thuộc Chính phủ: Lập dự toán ngân
sách hằng năm, kế hoạch tài chính - ngân
sách nhà nước 3 năm của cơ quan để trình cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật13... Thời gian dự toán ngân
sách của cơ quan thuộc Chính phủ là không
hợp lý khi phân tích về nhiệm kỳ của Chính
phủ được quy định tại Hiến pháp năm 2013
và Nghị định số 10/2016/NĐ-CP.
12 Điều 25 Nghị định số 123/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
bộ, cơ quan ngang bộ.
13 Khoản a, Điều 7 Nghị định số 10/2016/NĐ-CP của Chính phủ.
- Nghị quyết số 18/NQ-TW năm 2017
về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu quả đã rút
ra được tình hình và nhiều vấn đề như:
Tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều
đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối
quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa
thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp; việc phân
công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành,
các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức có
nơi chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; giữa
các vụ và các đơn vị sự nghiệp công lập đều
có chức năng nghiên cứu chiến lược, chính
sách về ngành, lĩnh vực; vẫn còn tình trạng
bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ;
trong phạm vi ngành, giữa vụ và thanh tra
thuộc Bộ đều có phạm vi, đối tượng quản lý
theo chiều dọc dễ dẫn đến tình trạng thiếu
dứt khoát khi xử lý; cơ chế kiểm soát quyền
lực hiệu quả chưa cao; việc công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình còn hạn chế;
cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục
hành chính chuyển biến chậm, không đồng
bộ, chưa đáp ứng yêu cầu.
4. Định hướng đổi mới tổ chức bộ máy,
hoạt động của Chính phủ hướng tới phát
triển bền vững
Từ thực tế nêu trên, việc đổi mới tổ
chức, hoạt động của Chính phủ hướng tới
phát triển bền vững là cấp thiết và cần triển
khai theo các định hướng sau:
4.1. Về tổ chức
- Tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy của
Chính phủ theo hướng đa ngành, đa lĩnh
vực; nên sáp nhập một số bộ có cùng nhóm
chức năng với nhau, cụ thể: Bộ Giao thông
vận tải sáp nhập với Bộ Xây dựng; Bộ Giáo
dục và Đào tạo sáp nhập với Bộ Khoa học
và Công nghệ; Bộ Tài chính sáp nhập với Bộ
Kế hoạch và Đầu tư.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 17(393) T9/2019
- Xác định lại vị trí, vai trò của bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ theo hướng trao thêm
quyền cho Bộ trưởng, khẳng định chỉ có
thành viên Chính phủ mới có quyền đàm
phán, tham gia quyết định chính sách do
Chính phủ xây dựng, ban hành.
- Tổ chức thanh tra phải mạnh, có thiết
chế độc lập đủ để kiểm soát hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nước.
4.2. Về chức năng, nhiệm vụ
- Chính phủ cần đặc biệt coi trọng hoạt
động xây dựng chính sách quốc gia gắn liền
với xây dựng, ban hành các loại văn bản quy
phạm pháp luật phù hợp để quản lý xã hội
theo mục tiêu phát triển bền vững.
- Chính sách gồm hai loại: chính sách
dài hạn và chính sách trung, ngắn hạn. Thứ
nhất, chính sách dài hạn tồn tại trong dự án
luật, nên Chính phủ cần chú trọng tới chất
lượng dự án luật. Cính sách trung và ngắn
hạn, thường tập trung ở Nghị định. Loại
chính sách này rất quan trọng, vì thủ tục
nhanh, gọn hơn, đáp ứng được kịp thời sự
thay đổi của xã hội.
4.3. Về vấn đề sáp nhập bộ
Việc sáp nhập các bộ có cùng nhóm
chức năng với nhau sẽ giúp giảm đầu mối,
tăng cường tính tập trung và khả năng quản
lý các vấn đề có tính liên ngành, đa ngành
trong các mục tiêu phát triển bền vững.
- Bộ Giao thông vận tải sáp nhập với
Bộ Xây dựng, nhóm chủ thể này sẽ xây
dựng, đề xuất và chủ trì thực hiện các chiến
lược quốc gia về cơ sở hạ tầng cho phát triển
bền vững.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo sáp nhập với
Bộ Khoa học và Công nghệ; đây sẽ là chủ thể
chủ trì thực hiện các chiến lược, kế hoạch để
phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực
phục vụ mục tiêu phát triển bền vững; đưa
các thành tựu khoa học và công nghệ mới,
thân thiện với môi trường, đáp ứng các yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội - môi trường
một cách bền vững.
- Bộ Tài chính sáp nhập với Bộ Kế
hoạch và Đầu tư: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
hiện có vai trò chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành, địa phương và các cơ quan liên quan
tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền
vững, tập trung vào các nội dung: Xây dựng
Chương trình/Kế hoạch hành động quốc
gia về phát triển bền vững Việt Nam giai
đoạn 2011 – 2015 và 2016 – 2020, phân
công nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành,
địa phương, các cơ quan, tổ chức liên quan;
đảm bảo nguồn lực thực hiện các mục tiêu,
chỉ tiêu trong Chiến lược; xây dựng các cơ
chế, chính sách quản lý, hướng dẫn, hỗ trợ
thực hiện Chiến lược; phối hợp và hỗ trợ các
Bộ, ngành, địa phương, các địa phương liên
quan xây dựng và thực hiện chương trình/
kế hoạch hành động các ngành, các cấp; xây
dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về
phát triển bền vững; bổ sung, điều chỉnh bộ
chỉ tiêu phát triển bền vững quốc gia phù hợp
với từng giai đoạn phát triển; xây dựng bộ
chỉ tiêu phát triển bền vững cấp địa phương
để thực hiện thống nhất trong cả nước; giám
sát, đánh giá việc thực hiện Chiến lược theo
các mục tiêu, chỉ tiêu đã ban hành; lồng
ghép đưa các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển
bền vững trong hướng dẫn xây dựng và thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
các Bộ, ngành và địa phương; khẩn trương
nghiên cứu, thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển
bền vững; định kỳ hàng năm đánh giá, sơ kết
kết quả thực hiện Chiến lược, báo cáo Thủ
tướng Chính phủ và đề xuất việc điều chỉnh,
bổ sung các cơ chế, chính sách cần thiết.
Bộ Tài chính thực hiện các nhiệm
nhiệm chung: Xây dựng chương trình/
kế hoạch hành động của ngành; thành lập
Ban chỉ đạo phát triển bền vững ngành; bố
trí nguồn lực để tổ chức thực hiện có hiệu
quả Chiến lược; chủ động tham gia các hoạt
động phối hợp chung theo chỉ đạo của Chính
phủ; lồng ghép các nội dung của Chiến lược
trong quá trình hoạch định chính sách; xây
dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch và
kế hoạch phát triển của ngành mình; chủ trì,
phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây
dựng các chỉ tiêu phát triển bền vững ngành
phù hợp với điều kiện, đặc thù phát triển của
ngành mình trên cơ sở yêu cầu phát triển bền
vững và các chỉ tiêu giám sát, đánh giá phát
triển bền vững quốc gia; tổ chức giám sát,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 17(393) T9/2019
đánh giá các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển bền
vững thuộc lĩnh vực quản lý; tổ chức tuyên
truyền sâu rộng trong cán bộ, công chức về
tinh thần và nội dung của Chiến lược; định
kỳ hàng năm xây dựng báo cáo kết quả thực
hiện Chiến lược, tình hình thực hiện các
mục tiêu, chỉ tiêu thuộc lĩnh vực quản lý,
gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp báo
cáo Thủ tướng Chính phủ.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính còn có
vai trò vô cùng quan trọng trong việc quản
lý tài chính cho việc thực hiện Chiến lược
phát triển bền vững: Bộ Tài chính quy định
cụ thể nguồn chi thường xuyên cho các
nội dung của Chiến lược, hướng dẫn xây
dựng dự toán và sử dụng kinh phí theo các
quy định của pháp luật. Kinh phí thực hiện
Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020 được bố trí trong dự
toán chi ngân sách hàng năm của các Bộ,
các cơ quan, các tổ chức liên quan và các địa
phương theo phân cấp ngân sách nhà nước
hiện hành. Các Bộ, các cơ quan, tổ chức liên
quan và các địa phương chủ động huy động
sự tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước theo quy định của pháp luật để
thực hiện Chiến lược.
Hai Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và
Đầu tư có nhiệm vụ chung là: cân đối, bố
trí kinh phí hàng năm theo quy định của
Luật Ngân sách nhà nước để thực hiện có
hiệu quả Chiến lược; hướng dẫn các Bộ, ban
ngành, địa phương sử dụng kinh phí đúng
mục đích và hiệu quả. Với những chức năng,
nhiệm vụ chung trong mục tiêu phát triển
bền vững, việc sáp nhập Bộ Tài chính với
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là hết sức cần thiết,
khả thi, tốt cho việc thực hiện các mục tiêu
phát triển bền vững.
4.4. Về hoàn thiện thể chế, chính sách phát
triển bền vững
Hệ thống thể chế, chính sách phát triển
bền vững có tính hệ thống và liên ngành, đa
ngành rõ nét. Chính phủ với mô hình bộ
quản lý đa ngành có nhiều điều kiện thuận
lợi hơn để xây dựng, hoàn thiện hệ thống
thể chế phát triển bền vững, nâng cao chất
lượng quản trị quốc gia đối với phát triển
bền vững đất nước. Các nhóm thể chế, chính
sách cần tập trung xây dựng là:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật
pháp, cơ chế, chính sách theo hướng điều
chỉnh, bổ sung và ban hành mới nhằm đảm
bảo khung pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện
Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020; ưu tiên tập trung hoàn
chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật về bảo
vệ môi trường.
- Tăng cường hiệu quả quản lý nhà
nước theo hướng đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao tính minh bạch trong quản
trị quốc gia và phòng, chống tham nhũng;
tăng cường phối hợp giữa các bên liên quan
trong tổ chức thực hiện; kiện toàn hệ thống
tổ chức bộ máy các cấp để đảm nhiệm công
tác quản lý phát triển bền vững.
- Lồng ghép các quan điểm, nguyên
tắc phát triển bền vững trong các chiến lược,
chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển;
đảm bảo việc xây dựng và tổ chức thực hiện
các chương trình mục tiêu quốc gia phải gắn
với Chiến lược đã được Chính phủ thông
qua và phải được kiểm tra, đánh giá theo
các tiêu chí, chỉ tiêu phát triển bền vững một
cách thường xuyên, chặt chẽ.
- Xây dựng các chương trình/kế hoạch
hành động các cấp để thực hiện Chiến lược
phát triển bền vững.
- Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, cập
nhật để hoàn thiện bộ chỉ tiêu giám sát, đánh
giá phát triển bền vững cho phù hợp với
từng giai đoạn phát triển.
4.5. Về mối quan hệ trung ương - địa
phương, chính quyền địa phương
- Phân quyền mạnh cho địa phương
theo hướng Chính phủ không can thiệp vào
công việc của địa phương; Chính phủ giữ lại
quyền “tinh” - quyền làm chính sách chung
và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật ở các địa phương bằng những cơ chế,
biện pháp có hiệu lực mạnh; đồng thời, Chính
phủ phải tích cực thúc đẩy liên kết vùng.
- Ở địa phương, cần tiếp tục cải cách
bộ máy hành chính địa phương theo hướng
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực tương thích
với Chính phủ ở Trung ương
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 17(393) T9/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_moi_chinh_phu_huong_toi_su_phat_trien_ben_vung.pdf