Tăng cường phối kết hợp trong công tác phát triển khoa học và
công nghệ
Các địa phương cần khẩn trương trong việc xây dựng kế hoạch phát triển
KH&CN giai đoạn 2011 - 2015. Trong đó, cần quan tâm đến công tác tổng
kết thực tiễn để bổ sung và phát triển lý luận trong sự nghiệp đổi mới; dự
báo kịp thời tình hình và xu thế phát triển của khu vực và trong nước; lý giải
những vấn đề thực tiễn đặt ra và cung cấp những luận cứ khoa học cho việc
hoạch định chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đổi
mới cơ chế tài chính của hoạt động KH&CN theo hướng thay cơ chế tài
chính hành chính hiện nay bằng cơ chế tài chính sự nghiệp. Lồng ghép
những nội dung KH&CN, nhất là những nội dung đổi mới công nghệ vào
các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố.
Tăng cường mối liên kết, phối hợp liên sở giữa các ngành: KH&CN, Kế
hoạch và Đầu tư, Tài chính; Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Công
thương. Mối liên kết, phối hợp này nhằm hiện thực hóa việc lồng ghép các
nội dung KH&CN vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội;
hiện thực hóa và nâng cao hiệu quả việc huy động các nguồn lực cho phát
triển KH&CN.
Sở KH&CN cần phối hợp với Bộ KH&CN và liên kết với các địa phương
khác để tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý KH&CN. Ban hành
các quyết định, các quy chế, hướng dẫn công tác quản lý KH&CN địa
phương. Phối hợp trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác
quản lý KH&CN địa phương, nhất là trong việc xây dựng hệ thống giữ
chuẩn đo lường, các trung tâm kiểm nghiệm, phân tích, kiểm đị
15 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ địa phương thời gian qua và những kiến nghị cho thời gian tới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 37
ĐỔI MỚI CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐỊA PHƯƠNG THỜI GIAN QUA
VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ CHO THỜI GIAN TỚI
TS. Hồ Ngọc Luật
Vụ trưởng, Trưởng Ban, Ban KH&CN địa phương, Bộ KH&CN
Tóm tắt:
Quá trình đổi mới cơ chế, chính sách phát triển KH&CN, trong đó có cơ chế chính sách
phát triển KH&CN địa phương, được tiến hành thông qua nghiên cứu quá trình đổi mới đất
nước, trong đó nổi bật lên những đổi mới tư duy lý luận của Đảng về vai trò của KH&CN,
những chính sách của Nhà nước nhằm cụ thể hóa, hiện thực hóa chủ trương đường lối vào
cuộc sống và ảnh hưởng của những cơ chế chính sách đó đối với hoạt động KH&CN địa
phương. Qua đó có thể nhận dạng được mức độ tác động của quá trình đổi mới cơ chế,
chính sách KH&CN đối với hoạt động KH&CN tại các địa phương và cho phép chúng ta có
những đề xuất, khuyến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động KH&CN địa phương thời gian tới
một cách hiệu quả hơn, đáp ứng tốt vai trò động lực then chốt đối với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của các tỉnh, thành phố.
1. Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ địa
phương trong thời gian qua
1.1. Những cơ chế, chính sách của Nhà nước có tác động đến sự phát
triển khoa học và công nghệ địa phương trong thời gian qua
Trong thời gian qua, ở nước ta, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính
sách có tác động đến phát triển KH&CN địa phương. Điển hình như: Quyết
định số 175/CP ngày 29/04/1981 cho phép các viện, trung tâm R&D, các
trường đại học được ký kết hợp đồng nghiên cứu khoa học và áp dụng kết
quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống.
Nghị quyết số 51/HĐBT ngày 17/5/1983 đã cho phép các cơ quan R&D tổ
chức sản xuất các kết quả nghiên cứu của mình, mà chưa có cơ sở sản xuất
nào đảm nhiệm. Quyết định số 161-CT ngày 13/6/1983 cho phép cán bộ
khoa học và kỹ thuật được kiêm nhiệm thêm công tác tại cơ quan khác;
Quyết định số 134/HĐBT ngày 31/8/1987 khuyến khích mọi hình thức liên
kết giữa các nhà nghiên cứu trong khuôn khổ một tập thể tự nguyện, cho
phép các đối tác được định giá sản phẩm khoa học theo một số phương thức
thích hợp - kể cả việc chấp nhận giá thỏa thuận với nhau cho phép các cơ sở
38 Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển KH&CN địa phương
sản xuất và kinh doanh sử dụng nguồn vốn tự có để đầu tư cho hoạt động
KH&CN; Nghị định số 35/HĐBT ngày 28/01/1992 nêu lên tinh thần của một
thiết chế dân chủ, là công nhận mọi cá nhân và tổ chức xã hội “có quyền”
tiến hành các hoạt động KH&CN.
Quyết định số 419/TTg ngày 21/7/ nêu rõ hoạt động nghiên cứu và ứng dụng
các thành tựu KH&CN, đầu tư cho phát triển KH&CN là nhiệm vụ của các
cơ quan KH&CN, của các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương, của
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội và tư
nhân.
Nghị định số 119/NĐ-CP ngày 18/9/1999 ban hành một số chính sách và cơ
chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động KH&CN
nhằm khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư
vào hoạt động KH&CN để đổi mới, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng
sản phẩm và hiệu quả kinh doanh; Luật KH&CN và Nghị định số
81/2002/NĐ-CP của chính phủ Qui định chi tiết thi hành một số điều của
Luật KH&CN đã góp phần giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo và tạo tiền đề
cho việc xã hội hóa hoạt động KH&CN.
Luật Ngân sách Nhà nước ban hành ngày 16/12/2002 đã chủ trương quản lý
thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách
nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách
và tài sản của Nhà nước; Nghị định số 122/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày
22/10/2003 về thành lập Quỹ phát triển KH&CN Quốc gia, Quyết định số
117/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/5/2005 về Điều lệ mẫu
tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển KH&CN của Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm
khuyến khích các tổ chức, cá nhân thành lập quỹ phát triển KH&CN; Đề án
đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KH&CN (2004), Chiến lược phát triển
KH&CN đến năm 2010 (2003), Nghị định số 201/2004/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 10/12/2004 về Quy chế quản lý hoạt động khoa học xã hội nhân
văn, Nghị định số 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/9/2005 quy định
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập, Nghị
định số 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/5/2007 về Doanh nghiệp
KH&CN ban hành các quy định về đổi mới cơ chế tổ chức và hoạt động
KH&CN nhằm giải phóng tối đa năng lực nghiên cứu, sáng tạo của mọi tổ
chức và cá nhân trong hoạt động KH&CN; Nghị định số 119/1999/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 18/9/1999, Quyết định số 68/2005/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 04/4/2005, Quyết định số 214/2005/QĐ-TTg của Thủ
tướng chính phủ ngày 30/8/2005 khuyến khích hoạt động KH&CN gắn với
thị trường và doanh nghiệp...; Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật Chuyển giao
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 39
công nghệ (2006), Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (2006), Luật Chất
lượng sản phẩm, hàng hóa (2007), Luật Năng lượng nguyên tử (2008), Luật
CNC (2008) đã góp phần tạo môi trường và hành lang pháp lý thuận lợi cho
hoạt động KH&CN đã được tạo lập một cách bền vững, ổn định với rất
nhiều tư tưởng đổi mới và tiến bộ mang tính dẫn đường, đã và đang phát huy
tác dụng tích cực đối với sự nghiệp phát triển KH&CN và kinh tế - xã hội
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập.
Trước những đổi mới chung, một số vấn đề đặt ra cho đổi mới cơ chế, chính sách
phát triển KH&CN địa phương là:
- Vấn đề đầu tiên và quan trọng nhất đặt ra là đổi mới cơ chế, chính sách
phát triển KH&CN địa phương gắn liền với quá trình chuyển đổi từ cơ
chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước;
- Chuyển đổi cơ chế quản lý là giảm bớt mức độ tập trung trong quản lý
của Nhà nước Trung ương và mở rộng quyền cho các cấp bên dưới. Như
vậy vai trò của quản lý KH&CN cấp địa phương sẽ tăng lên. Trước đây
quản lý hoạt động R&D ở nước ta được thực hiện theo Nghị định số
263/CP ngày 26/7/1981 của Chính phủ về chế độ kế hoạch hóa khoa học
và kỹ thuật: mọi nhiệm vụ đều được quyết định theo chỉ tiêu kế hoạch của
Nhà nước và chỉ giao cho các cơ quan khoa học của Nhà nước thực hiện;
- Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các yêu
cầu và điều kiện của hoạt động R&D đã có những thay đổi lớn. Bối cảnh
mới đòi hỏi cơ chế quản lý các hoạt động KH&CN phải thay đổi. Ngày
21/7/1995, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 419/TTg về cơ chế
quản lý các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ: nhấn
mạnh tới yêu cầu gắn hoạt động R&D với thực tiễn kinh tế - xã hội; bảo
đảm và tăng cường tính chủ động của các ngành, các địa phương trong
việc quyết định nhiệm vụ KH&CN;
- Quản lý KH&CN trong cơ chế mới đòi hỏi phải kết hợp giữa kế hoạch và
thị trường. Thị trường KH&CN sẽ là một căn cứ quan trọng để lập kế
hoạch hoạt động KH&CN. Nhiều vấn đề được đặt thành mục tiêu của
chương trình nghiên cứu là nhờ nắm bắt từ nhu cầu cuộc sống, và chỉ trên
cơ sở nhu cầu cuộc sống thì kết quả nghiên cứu sau này mới có khả năng
ứng dụng và mang lại ích lợi thiết thực cho xã hội;
- Thị trường KH&CN ở nước ta hiện còn khá sơ khai và đang trong quá
trình xây dựng. Ở đây, quản lý KH&CN địa phương phải tích cực đóng
góp vào việc thúc đẩy tạo lập thể chế thị trường: tạo môi trường pháp lý,
khuyến khích hình thành và phát triển các cơ quan môi giới thị trường,
khuyến khích phát triển cung, cầu về hàng hóa công nghệ,...
40 Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển KH&CN địa phương
1.2. Đổi mới công tác xây dựng kế hoạch và lập dự toán ngân sách khoa
học và công nghệ
Hiện nay, công tác xây dựng kế hoạch và lập dự toán ngân sách KH&CN các
địa phương đã và đang từng bước có những tiến bộ rõ rệt: đã cố gắng thực
hiện gần sát với quy trình lập dự toán ngân sách theo tiến độ yêu cầu. Hoạt
động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các địa phương đã có
nhiều đổi mới. Nhất là khâu quản lý và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN đã bám sát các nhiệm vụ chính trị, các chỉ tiêu phát triển kinh tế -
xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh của từng địa phương. Đồng thời, tập
trung giải quyết các vấn đề bức xúc, cấp thiết, khai thác thế mạnh, tiềm năng
và nghiên cứu các giải pháp KH&CN hạn chế các điều kiện bất lợi, thiên tai
dịch bệnh ảnh hưởng đến đời sống nhân dân và sản xuất kinh doanh.
Gần đây, mỗi năm, có khoảng 1.300 đề tài, dự án trên tất cả các lĩnh vực
KH&CN đã được triển khai. Nhiều kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng
thành công, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả trong các lĩnh vực sản xuất và đời sống đưa nhanh các kỹ thuật tiến
bộ vào trồng trọt, chăn nuôi; tập trung nghiên cứu giống cây trồng, con nuôi
phù hợp với điều kiện từng vùng, từng địa phương; nghiên cứu chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp.
Việc xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ hàng
năm ở các địa phương đã xuất phát từ phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, KH&CN của địa phương, phù hợp với hướng dẫn xây dựng
kế hoạch KH&CN hàng năm của Bộ KH&CN. Có nhiều địa phương đã xây
dựng các chương trình mục tiêu KH&CN đáp ứng các định hướng phát triển
KH&CN đặt ra tại các chủ trương, kế hoạch của tỉnh, thành phố. Đây cũng là
một cách làm tốt, nhưng kế hoạch các nhiệm vụ R&D chỉ thực sự hiệu quả
nếu mục tiêu, nhiệm vụ của các chương trình mục tiêu đặt ra “trúng” và sát
thực tiễn.
Nhiều tỉnh /thành phố đã thực hiện việc tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực
hiện nhiệm vụ KH&CN theo nguyên tắc công khai, dân chủ, khách quan.
Phương thức đặt hàng trong quá trình xác định nhiệm vụ được chú trọng.
Qua cách làm này, nhiều tổ chức KH&CN Trung ương có điều kiện tham gia
các hoạt động KH&CN địa phương hơn.
Tuy mức độ hoàn chỉnh khác nhau, song tất cả các tỉnh/thành phố đều đã xây
dựng và ban hành được hệ thống các văn bản quản lý các nhiệm vụ KH&CN
theo tinh thần của Luật KH&CN. Để bảo đảm sự thống nhất trong quản lý
các nhiệm vụ KH&CN ở địa phương rất cần có sự hướng dẫn thống nhất của
Trung ương. Và thực trạng công tác xây dựng kế hoạch thể hiện rõ qua hệ
thống các văn bản này.
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 41
Hiện nay các tỉnh/thành phố đều có Hội đồng KH&CN cấp tỉnh, một số
sở/ngành có nhiều hoạt động KH&CN đã thành lập Hội đồng KH&CN cấp
ngành. Hội đồng đã có những đổi mới về cơ cấu thành phần, cách thức làm
việc theo hướng có các cán bộ, chuyên gia am hiểu sâu về chuyên môn và
quản lý, do đó việc xác định nhiệm vụ và đánh giá nghiệm thu các nhiệm vụ
KH&CN tại địa phương chất lượng ngày càng được nâng cao.
1.3. Đổi mới về cơ chế, chính sách đầu tư tài chính cho phát triển khoa
học và công nghệ địa phương trong cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Tài chính cho hoạt động KH&CN địa phương bao gồm nhiều nguồn. Nguồn
cơ bản nhất được cân đối từ ngân sách Nhà nước Trung ương theo Luật
Ngân sách.
Trước năm 1996, kinh phí cho hoạt động KH&CN của các địa phương được
phân bổ trên cơ sở kế hoạch hoạt động KH&CN của các tỉnh, thành phố đã
thống nhất với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Kế hoạch này, trong
quá trình thực hiện có thể tiếp tục được điều chỉnh, bổ sung để đáp ứng các
yêu cầu về KH&CN đặt ra tại các địa phương.
Thực hiện Luật Ngân sách Nhà nước năm 1996, kinh phí cho hoạt động
KH&CN địa phương được Bộ KH&CN thống nhất với Bộ Tài chính với các
Ủy ban nhân dân về con số phân bổ, Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố
có trách nhiệm quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương; phê
chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương, biện
pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương; quyết định điều chỉnh dự
toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết (Điều 25, Luật Ngân
sách nhà nước năm 1996). Bên cạnh đó, Luật Ngân sách nhà nước năm 1996
còn quy định: Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách
cấp dưới để bảo đảm công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa
phương. Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách cấp dưới; Trường hợp
cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước
cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình, thì phải chuyển
kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó
(Khoản 2, 3 Điều 4).
Thực hiện Nghị quyết Trung ương II, Luật KH&CN, Luật Ngân sách nhà
nước năm 2002 đã được sửa đổi, về cơ bản giữ nguyên như Luật Ngân sách
nhà nước năm 1996, phần bổ sung quan trọng là trong chi đầu tư phát triển
và chi thường xuyên có mức chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo,
KH&CN (Điểm b, Khoản 3, Điều 15); và Dự toán chi ngân sách địa phương,
bao gồm chi ngân sách cấp mình và chi ngân sách địa phương cấp dưới, chi
tiết theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên,... Trong chi
42 Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển KH&CN địa phương
đầu tư phát triển và chi thường xuyên có mức chi cụ thể cho các lĩnh vực
giáo dục và đào tạo, KH&CN (Điểm c, Khoản 1, Điều 25). Tuy nhiên, Điều
4, về cơ bản được sửa đổi theo tinh thần: không được dùng ngân sách của
cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp khác, trừ trường hợp đặc biệt theo quy
định của Chính phủ (Điểm h, Khoản 2, Điều 4).
Như vậy, từ năm 2004 trở đi không còn khả năng bổ sung, hoặc cân đối bổ
sung kinh phí từ nguồn Trung ương cho các nhiệm vụ KH&CN của các địa
phương.
Cho đến nay, ngoài nguồn từ Ngân sách Nhà nước, các địa phương gần như
chưa tổng hợp được thực trạng đầu tư, hỗ trợ của các nguồn tài chính khác
cho hoạt động KH&CN địa phương.
Cơ cấu phân bổ trong 2% chi ngân sách nhà nước cho KH&CN địa phương,
hiện nay, như sau:
Ngoài nguồn ngân sách nhà nước dành cho sự nghiệp KH&CN, các địa
phương còn có thể khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho KH&CN.
Theo Khoản 1 và 2 Điều 17 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008:
“Doanh nghiệp được thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt
Nam được trích tối đa 10% thu nhập tính thuế hàng năm để lập Quỹ phát
triển KH&CN của doanh nghiệp. Trong thời hạn năm năm, kể từ khi trích
lập, nếu Quỹ phát triển KH&CN không được sử dụng hoặc sử dụng không
hết 70%, hoặc sử dụng không đúng mục đích thì doanh nghiệp phải nộp
ngân sách nhà nước phần thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên khoản thu
nhập đã trích lập quỹ mà không sử dụng, hoặc sử dụng không đúng mục đích
và phần lãi phát sinh từ số thuế thu nhập doanh nghiệp đó”.
Ngày 27/5/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
117/2005/QĐ-TTg về “Điều lệ mẫu tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển
Bộ, ngành = 23%
Tỉnh, thành = 20%
Bộ, ngành = 27%
Tỉnh, thành = 20%
= 10% CT cấp NN, NCCB, NTMN, 119
Chi ngân sách
nhà nước cho
KH&CN =
100%
Chi Đầu tư phát
triển = 43%
Chi Sự nghiệp
khoa học = 57%
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 43
KH&CN của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương”. Thực hiện Luật KH&CN, Nghị định số
81/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/10/2002 Hướng dẫn việc thi hành
Luật KH&CN các tỉnh, thành phố đã từng đặt vấn đề về tổ chức Quỹ. Tuy
nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội, do trình độ sản xuất, do nhu cầu về hoạt
động KH&CN, nhất là do thói quen tư duy theo lối hành chính, bao cấp; do
trình độ nhận thức về mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của quỹ
phát triển KH&CN nước ta, cho nên cho đến nay mới chỉ khoảng 20 tỉnh,
thành phố thành lập Quỹ (thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vĩnh Phúc, Hải
Dương, Bình Dương, Nghệ An, Bình Định, Tiền Giang, Thái Bình, Quảng
Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Gia Lai, Bạc Liêu, Đồng Nai, Kiên Giang, An
Giang, Thanh Hóa, Bình Thuận).
Quan điểm đa dạng hóa các nguồn đầu tư cho KH&CN được coi là một
trong những giải pháp tài chính quan trọng nhằm giảm gánh nặng của ngân
sách nhà nước cho hoạt động KH&CN. Đến nay, kinh phí từ ngân sách
không còn là kênh duy nhất đầu tư cho KH&CN bởi việc huy động các
thành phần kinh tế, doanh nghiệp và toàn xã hội đầu tư cho KH&CN đã đạt
được kết quả bước đầu. Tỷ trọng đầu tư cho KH&CN của khu vực tư nhân
đã tăng đáng kể1. Các cơ quan nghiên cứu đã có thể tận dụng các nguồn
vốn do thực hiện hợp đồng, do liên doanh, liên kết và hợp tác quốc tế. Các
doanh nghiệp được trích tối đa 10% lợi nhuận trước thuế để thành lập quỹ
phát triển KH&CN2; các bộ, ngành, địa phương cũng được phép lập quỹ
phát triển KH&CN để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, hỗ trợ áp dụng
kỹ thuật, ứng dụng công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Sự đổi mới về cơ
chế tài chính còn được định hướng vào việc cải tiến chế độ phân bổ, cấp
phát và quản lý ở tầm vĩ mô cũng như đổi mới chế độ tài chính của các cơ
sở nghiên cứu khoa học theo nguyên tắc tự chủ và tự chịu trách nhiệm.
Đặc biệt, trong năm 2008, Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia đã chính thức
đi vào hoạt động, song song với hệ thống các quỹ của Nhà nước sẽ được
thành lập (Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia, Quỹ Đầu tư Mạo hiểm), đây
sẽ là các kênh tài chính quan trọng hỗ trợ cho hoạt động KH&CN bên cạnh
hệ thống các chương trình, đề tài được hưởng kinh phí sự nghiệp KH&CN
truyền thống, góp phần đa dạng hóa các phương thức quản lý tài chính
trong KH&CN, tạo cơ hội rộng mở cho mọi thành phần trong xã hội được
tiếp cận với các nguồn tài chính của Chính phủ khi tiến hành hoạt động
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
1 Theo số liệu thống kê mới nhất, tỷ lệ huy động các nguồn vốn đóng góp trong xã hội cho hoạt động KH&CN đạt
xấp xỉ 43% tổng chi từ ngân sách nhà nước cho KH&CN.
2 Riêng hệ thống các Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp được hình thành từ 10% lợi nhuận trước thuế trong
thời gian tới sẽ đem lại nguồn kinh phí ước đạt 12,5 nghìn tỷ đồng/năm từ xã hội cho KH&CN.
44 Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển KH&CN địa phương
1.4. Đổi mới cơ chế, chính sách về phát triển nhân lực khoa học và công nghệ
Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về KH&CN địa phương hiện nay là 4.140
người. Trong đó, số biên chế là 3.138 người, số có trình độ đại học, cao đẳng
là 2.627 người (chiếm 63,5%), số có trình độ trên đại học là 269 người
(chiếm 6,5%).
Bình quân số cán bộ của các sở KH&CN khu vực miền núi phía Bắc là thấp
nhất, chỉ có 46,6 người, trong khi đó các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam bộ
là 102,3, cao nhất; và vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ có số
bình quân cao thứ hai: 71 - 72 người.
Nguồn nhân lực KH&CN ở các địa phương được tập hợp từ nhiều nguồn đào
tạo, hình thành trên cơ cấu ngành nghề không đồng bộ, số lượng cán bộ làm
công tác R&D quá mỏng, trình độ chưa tương xứng với nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của các địa phương.
Theo số liệu điều tra, trong số 366 tổ chức KH&CN ở địa phương có tới
9.616 người, trong đó chính nhiệm là 4.890 người (chiếm 50,85%), số người
kiêm nhiệm là 4.726 người (chiếm 49,15%). Số GS và PGS chính nhiệm là
25, kiêm nhiệm là 78; số TS và TSKH chính nhiệm là 85, kiêm nhiệm là
108; số thạc sỹ chính nhiệm là 286, kiêm nhiệm là 193; số đại học chính
nhiệm là 2.834, kiêm nhiệm là 1.699; số cao đẳng chính nhiệm là 179, kiêm
nhiệm là 247; số trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật chính
nhiệm là 1.190, kiêm nhiệm là 1.739; số còn lại chính nhiệm là 391, kiêm
nhiệm là 662.
Đội ngũ R&D của các địa phương còn nhiều hạn chế về: năng lực xác định
nhiệm vụ nghiên cứu triển khai phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa
phương; năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN địa phương; năng lực
xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch KH&CN; năng
lực tham mưu và tổ chức, giám sát thực hiện các cơ chế, chính sách,...
Cơ cấu của lực lượng lao động kỹ thuật còn bất hợp lý, tạo nên tình trạng
“thừa thầy, thiếu thợ”. Tỷ lệ cán bộ KH&CN/nhân viên kỹ thuật/công nhân
kỹ thuật hoặc nhân viên nghiệp vụ có bằng và chứng chỉ là 1/1,04/0,86.
Năng lực tiếp nhận chuyển giao công nghệ, đặc biệt là nguồn nhân lực tại
các doanh nghiệp địa phương hiện nay còn yếu. Đội ngũ cán bộ của hệ thống
khuyến nông quá mỏng, trình độ về kỹ thuật nông nghiệp lại hạn chế.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN được quan tâm ngày càng
đúng mức, đặc biệt là sau khi Luật KH&CN được ban hành. Hệ thống các cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và cán bộ KH&CN nói
riêng được xây dựng và củng cố; tính quy hoạch của hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng được nâng cao và đi vào nền nếp; chương trình, giáo trình thường
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 45
xuyên được cải tiến, nội dung đào tạo, bồi dưỡng bước đầu đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn và người học, từng bước khắc phục tình trạng bất hợp lý về cơ
cấu, trình độ của nguồn nhân lực, đáp ứng ngày càng tốt hơn các hoạt động
KH&CN ở địa phương.
Mối liên kết, phối hợp giữa các cơ quan KH&CN Trung ương và địa phương
trong công tác bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý KH&CN bước đầu đã đem lại
những kết quả đáng khích lệ.
1.5. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức khoa học
và công nghệ
Một trong những giải pháp đổi mới mạnh dạn và mang tính đột phá trong
những năm gần đây trong việc cải tổ hệ thống các tổ chức KH&CN Việt
Nam là việc triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và hình thành
doanh nghiệp KH&CN, đánh dấu bằng sự ra đời của hai văn bản quan
trọng: Nghị định số 115/2005/NĐ-CP và Nghị định số 80/2007/NĐ-CP.
Giải pháp này cho phép giải phóng tối đa năng lực nghiên cứu, sáng tạo
của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động KH&CN, xóa bỏ tư tưởng bao
cấp của các nhà khoa học, các tổ chức khoa học, đặt họ trước những cơ hội
và thách thức mới, từ đó, tạo thêm động lực, môi trường thuận lợi để có thể
tự do sáng tạo, nâng cao trình độ và năng lực công nghệ, nâng cao tiềm lực
và hiệu quả đầu tư cho KH&CN.
Bản chất của việc hình thành doanh nghiệp KH&CN chính là hình thành
một lực lượng sản xuất mới tiên tiến, trong đó, tập trung đưa hầu hết các
nhiệm vụ ứng dụng công nghệ mới cho cộng đồng doanh nghiệp nhằm tối
ưu hóa quá trình thương mại hóa sản phẩm công nghệ, tạo cơ hội hình
thành và phát triển các ngành nghề trình độ cao. Bên cạnh đó, với việc cho
phép các tổ chức KH&CN hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, được cấp
đăng ký kinh doanh như doanh nghiệp, được chuyển đổi thành doanh
nghiệp KH&CN, giúp các nhà khoa học Việt Nam có thể đưa nhanh kết
quả nghiên cứu vào sản xuất, được góp vốn vào doanh nghiệp bằng tài sản
trí tuệ và hưởng lợi nhuận trực tiếp từ hoạt động sản xuất, kinh doanh sản
phẩm KH&CN của mình. Đây là một tư duy đổi mới đã được thực tiễn
kiểm nghiệm, được cộng đồng KH&CN và doanh nghiệp trong nước đánh
giá cao3.
Cùng với hệ thống các viện nghiên cứu, các trường đại học cũng được tăng
cường đầu tư theo hướng thúc đẩy gắn kết giữa đào tạo và nghiên cứu, hỗ
3 Thời gian gần đây, đã xuất hiện các đơn vị điển hình phát triển rất mạnh theo mô hình tự chủ như BKIS,
BKMech, Trung tâm ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp, Trung tâm Kỹ thuật 3, Viện Nghiên cứu Mỏ
và Luyện kim, Viện Nghiên cứu Cơ khí, Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp, Công ty cổ phần Sơn Hải Phòng, Xí
nghiệp Cơ khí Quang Trung...
46 Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển KH&CN địa phương
trợ hợp tác trực tiếp giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp.
Thực hiện đầu tư đồng bộ để tạo dựng các tập thể, tổ chức KH&CN đủ
mạnh, có khả năng thực hiện các nhiệm vụ KH&CN quan trọng, có trình
độ quốc tế, tạo nên những đột phá trong các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn; đặc
biệt chú trọng đào tạo cán bộ có trình độ cao, các tổng công trình sư, các
nhà khoa học đầu ngành có trình độ quốc tế.
1.6. Đổi mới phát triển thị trường công nghệ, chuyển giao công nghệ
Đề án Phát triển thị trường công nghệ được Chính phủ phê duyệt theo Quyết
định số 214/2005/QĐ-TTg ngày 30/8/2005 đã hoàn thiện các thể chế cơ bản
của thị trường công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đồng thời
góp phần thúc đẩy và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, tăng
nhanh số lượng và chất lượng các giao dịch mua bán công nghệ, phấn đấu
mức tăng trưởng giá trị giao dịch mua bán công nghệ tăng bình quân 10%
năm, giai đoạn 2006 - 2010.
Các chợ công nghệ và thiết bị (Techmart) đã được tổ chức trong những năm
qua gồm: chợ công nghệ và thiết bị, với ba phiên quốc gia tại Hà Nội năm
2003 (giá trị giao dịch gần 1.200 tỷ đồng), thành phố Hồ Chí Minh năm
2005 (giá trị giao dịch gần 1.700 tỷ đồng) và Đà Nẵng năm 2007; sáu phiên
khu vực (giá trị giao dịch đạt gần 1.000 tỷ đồng) và trên 20 phiên ở các tỉnh,
thành trong cả nước (giá trị giao dịch ước khoảng vài chục tỷ đồng/phiên).
Trong năm 2006, các sàn giao dịch điện tử (hỗ trợ giới thiệu, tìm kiếm,
thương thảo, thỏa thuận công nghệ) đã được đưa vào hoạt động tại thành phố
Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Hải Phòng, thu hút sự tham gia của đông
đảo các nhà đầu tư công nghệ trong nước và nước ngoài (Hàn Quốc, Trung
Quốc, Hoa Kỳ, Nga, Đài Loan, Israel...).
Hoạt động giao dịch mua bán công nghệ ngày càng phổ biến với giá trị ngày
càng tăng tại các Techmart. Trung tâm Giao dịch Công nghệ được triển khai
ngày 15/6/2006 là địa điểm giao dịch công nghệ tập trung và thường xuyên
đặt tại Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia và Sàn giao dịch điện tử -
Techmart ảo.
Tuy nhiên, nhận thức của xã hội về sở hữu trí tuệ còn rất thấp so với đòi hỏi
bức bách của kinh thế thị trường và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. Nhiều
nhãn hàng của ta bị chiếm đoạt trên thị trường quốc tế, do chúng ta không
kịp thời đăng ký, như nhãn Vinataba, Cà phê Trung Nguyên,
PetroVietnam
Việc thực thi pháp chế về sở hữu trí tuệ chưa nghiêm minh, xử lý hành chính
chưa kịp thời, chưa đúng mức; đội ngũ thực thi các nhiệm vụ này quá yếu.
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 47
Chưa có cơ chế gắn kết, ràng buộc lợi ích của người sáng tạo, lợi ích người
áp dụng thành quả sáng tạo và lợi ích toàn xã hội.
Trong 5 năm qua cả nước chỉ có khoảng 200 sáng chế được đăng ký (năm
1996 chiếm 2,5%, năm 2000 chiếm 7,2% trong tổng số đơn đăng ký sáng
chế tại Cục Sở hữu công nghiệp), thua xa các nước trong khu vực.
Một khía cạnh quan trọng trong thực thi pháp chế sở hữu trí tuệ là quyền tài
sản trí tuệ không có trong truyền thống ở Việt Nam. Đây thực sự là một nét
thiếu trong văn hóa chúng ta. Người Nhật, người Hoa và hầu hết xứ sở chịu
ảnh hưởng của Nho giáo đã lần lượt biến xứ sở của họ thành xứ sở công
nghệ. Người Việt Nam chưa quen tiếp nhận tài sản trí tuệ, chưa biết giữ gìn
khai thác và làm giàu bởi thứ tài sản này. Việc cung cấp tài sản trí tuệ phần
lớn do Nhà nước đảm nhiệm. Thực sự đã đến lúc hình thành thị trường và
xúc tiến các tư duy phát triển thị trường tài sản trí tuệ, và tiến tới để thị
trường đó điều tiết hướng phát triển của trí tuệ Việt Nam. Làm ra tài sản trí
tuệ trước hết là công việc của toàn xã hội, trong đó Nhà nước đóng vai trò
quan trọng, chủ chốt trong bảo hộ quyền về tài sản trí tuệ. Đây là chìa khóa
tạo lập điều kiện cơ bản, cần thiết cho thị trường KH&CN phát triển.
2. Kiến nghị đổi mới cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công
nghệ địa phương trong thời gian tới
2.1. Đổi mới cơ chế và chính sách tài chính cho hoạt động khoa học và
công nghệ địa phương
Trước hết, Chính quyền địa phương nên chú trọng việc chỉ đạo cho thử
nghiệm đổi mới cơ chế tài chính của hoạt động KH&CN theo hướng thay cơ
chế tài chính hành chính hiện nay bằng cơ chế tài chính sự nghiệp để tạo
động lực cho các tổ chức sự nghiệp KH&CN hoạt động theo cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm. Cần sớm tháo gỡ những khó khăn về huy động các
nguồn lực cho phát triển KH&CN các tỉnh, thành phố như: triệt để dành ít
nhất mức chi ngân sách hàng năm cho KH&CN được cân đối từ Trung ương
theo Luật Ngân sách (bao gồm Ngân sách sự nghiệp khoa học và Vốn đầu tư
phát triển); thành lập, tạo điều kiện thực sự để Quỹ phát triển KH&CN hoạt
động, vận hành có hiệu quả; có cơ chế để khuyến khích, ràng buộc các doanh
nghiệp thực hiện tốt Điều 17, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (Trích lập
Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp). Ở cấp địa phương cũng cần tăng
cường vai trò chủ động của sở KH&CN, xây dựng cơ cấu hợp lý và xác định
các loại hình nhiệm vụ KH&CN phù hợp với các chương trình, mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Ở Trung ương, Nhà nước cần sớm nghiên cứu sửa đổi Luật Ngân sách nhằm
tăng cường đầu tư, tập trung quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý
48 Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển KH&CN địa phương
nhà nước về KH&CN trong đầu tư phát triển các ngành khoa học, các nhiệm
vụ trọng điểm quốc gia, các nhiệm vụ KH&CN có tính liên vùng, liên lĩnh
vực, có ảnh hưởng đột phá đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.2. Chính sách phát triển nhân lực, tổ chức khoa học và công nghệ
Các địa phương cần thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các nội dung của Nghị
quyết số 27-NQ/TW về phát triển đội ngũ trí thức. Cụ thể hóa và hiện thực
hóa các chính sách sử dụng, trọng dụng cán bộ KH&CN, trước hết là cán bộ
KH&CN địa phương; chính sách đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán
bộ KH&CN Đổi mới phương thức huy động, thu hút lực lượng nghiên cứu
vào việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, nhất là những người có năng lực
nghiên cứu khoa học tại địa phương, đồng thời chú trọng sự phối hợp giữa
các nhà nghiên cứu của Trung ương với đội ngũ cán bộ địa phương trong
hoạt động R&D ở địa phương, đặc biệt cần tranh thủ lực lượng nghiên cứu
trong các tổ chức KH&CN thuộc Trung ương đóng trên địa bàn địa phương.
Phân cấp mạnh hơn cho chính quyền địa phương trong việc tự quyết định
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực KH&CN địa phương.
Tăng cường phát triển tiềm lực KH&CN của địa phương thông qua các biện
pháp: quy hoạch hệ thống các tổ chức KH&CN; chỉ đạo xây dựng các dự án
đầu tư tiềm lực, nâng cao năng lực chuyển giao công nghệ của các tổ chức
KH&CN; có cơ chế liên kết chặt chẽ giữa các trung tâm ứng dụng KH&CN
với các trung tâm khuyến nông, khuyến công...; đổi mới chức năng, nhiệm
vụ để khuyến khích các tổ chức KH&CN sát cánh cùng doanh nghiệp, sản
xuất kinh doanh trong đổi mới công nghệ, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật.
2.3. Chính sách phát triển thị trường công nghệ
Sớm xây dựng hệ thống tiêu chí thống nhất (trong toàn quốc) và hệ phương
pháp để đánh giá trình độ công nghệ. Cung cấp các thông tin về công nghệ
để giúp cán bộ quản lý công nghệ ở địa phương nắm bắt được tình hình đổi
mới công nghệ diễn ra ở trong nước và trên thế giới. Các địa phương chủ
động ban hành chính sách riêng phục vụ cho công tác quản lý công nghệ trên
địa bàn. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý công nghệ địa phương.
Thành lập một số tổ chức trung gian KH&CN nòng cốt hoặc củng cố những
tổ chức đã có theo hướng chuyên môn hóa, thị trường hóa, xã hội hóa và quy
phạm hóa. Đảm bảo các ưu đãi về tài chính và hỗ trợ về thủ tục nhằm
khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào hoạt động cung cấp dịch vụ
trung gian KH&CN, nhất là các dịch vụ đánh giá, thẩm định và giám định
công nghệ. Xây dựng một bộ máy quản lý thị trường công nghệ phù hợp.
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 49
Có những cơ chế, chính sách phù hợp, hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới
công nghệ, nâng cao trình độ công nghệ, nhất là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Cần lấy doanh nghiệp là đối tượng trọng tâm của việc đẩy mạnh chuyển
giao công nghệ, tăng cường ứng dụng các thành tựu KH&CN vào sản xuất
và đời sống.
Có chính sách tập trung hỗ trợ, tài trợ để khuyến khích liên kết, hợp tác giữa
doanh nghiệp, viện nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ với trường
đại học trong việc đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, hình thành doanh
nghiệp KH&CN mới...
2.4. Tăng cường phối kết hợp trong công tác phát triển khoa học và
công nghệ
Các địa phương cần khẩn trương trong việc xây dựng kế hoạch phát triển
KH&CN giai đoạn 2011 - 2015. Trong đó, cần quan tâm đến công tác tổng
kết thực tiễn để bổ sung và phát triển lý luận trong sự nghiệp đổi mới; dự
báo kịp thời tình hình và xu thế phát triển của khu vực và trong nước; lý giải
những vấn đề thực tiễn đặt ra và cung cấp những luận cứ khoa học cho việc
hoạch định chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đổi
mới cơ chế tài chính của hoạt động KH&CN theo hướng thay cơ chế tài
chính hành chính hiện nay bằng cơ chế tài chính sự nghiệp. Lồng ghép
những nội dung KH&CN, nhất là những nội dung đổi mới công nghệ vào
các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố.
Tăng cường mối liên kết, phối hợp liên sở giữa các ngành: KH&CN, Kế
hoạch và Đầu tư, Tài chính; Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Công
thương... Mối liên kết, phối hợp này nhằm hiện thực hóa việc lồng ghép các
nội dung KH&CN vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội;
hiện thực hóa và nâng cao hiệu quả việc huy động các nguồn lực cho phát
triển KH&CN.
Sở KH&CN cần phối hợp với Bộ KH&CN và liên kết với các địa phương
khác để tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý KH&CN. Ban hành
các quyết định, các quy chế, hướng dẫn công tác quản lý KH&CN địa
phương. Phối hợp trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác
quản lý KH&CN địa phương, nhất là trong việc xây dựng hệ thống giữ
chuẩn đo lường, các trung tâm kiểm nghiệm, phân tích, kiểm định.
Bộ KH&CN tăng cường phối hợp với các Ủy ban nhân dân chỉ đạo hoạt
động KH&CN ở các địa phương; tăng cường kiểm tra giám sát tình hình
phân bổ, sử dụng các nguồn kinh phí cho KH&CN; tăng cường chỉ đạo các
Sở KH&CN để tổng kết những kinh nghiệm tốt trong quản lý KH&CN địa
phương và thông qua các hội nghị giao ban vùng giữa Bộ trưởng Bộ
50 Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển KH&CN địa phương
KH&CN và Giám đốc Sở KH&CN hoặc giữa các Sở KH&CN, thường
xuyên tổ chức giao lưu để trao đổi, học tập và nhân rộng các điển hình làm
tốt công tác quản lý KH&CN địa phương./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định số 263/CP ngày 26/7/1981 của Chính phủ về chế độ kế hoạch hóa khoa học
và kỹ thuật.
2. Nghị quyết số 51/HĐBT ngày 17/5/1983 của Hội đồng Bộ trưởng về một số vấn đề
trong công tác khoa học và kỹ thuật.
3. Nghị định số 35/HĐBT ngày 28/01/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về công tác quản lý
KH&CN.
4. Nghị định số 119/NĐ-CP ngày 18/9/1999 của Chính phủ về một số chính sách và cơ
chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động KH&CN.
5. Nghị định số 81/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật KH&CN.
6. Nghị định số 122/2003/NĐ-CP về Quỹ phát triển KH&CN Quốc gia.
7. Nghị định số 201/2004/NĐ-CP về Quy chế quản lý hoạt động khoa học xã hội nhân
văn.
8. Nghị định số 115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ
chức KH&CN công lập.
9. Nghị định số 117/2005/NĐ-CP về Điều lệ mẫu tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển
KH&CN của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
10. Nghị định số 80/2007/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về Doanh nghiệp KH&CN.
11. Quyết định số 175/CP của Hội đồng Chính phủ ngày 29/4/1981 Về việc ký kết và thực
hiện hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật.
12. Quyết định số 161-CT ngày 13/6/1983 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về chế độ
công tác kiêm nhiệm của cán bộ khoa học và kỹ thuật.
13. Quyết định số 134/HĐBT ngày 31/8/1987 của Hội đồng Bộ trưởng về một số biện
pháp khuyến khích công tác khoa học và kỹ thuật.
14. Quyết định số 419/TTg ngày 21/7/1995 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý
các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
15. Quyết định số 68/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương
trình hỗ trợ doanh nghiệp phát triển tài sản trí tuệ.
16. Quyết định số 214/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án phát
triển thị trường công nghệ.
17. Luật KH&CN, số 21/2000/QH10.
18. Luật Ngân sách Nhà nước, số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002.
JSTPM Vol 1, No 1, 2012 51
19. Đề án đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KH&CN (2004), ban hành kèm theo Quyết
định số 171/2004/QĐ-TTg ngày 28/9/2004 của Thủ tướng Chính phủ.
20. Chiến lược phát triển KH&CN đến năm 2010 (2003), Ban hành kèm theo Quyết định
số 272/2003/QĐ-TTg ngày 31/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ.
21. Bộ KH&CN. (2009) Kỷ yếu Hội nghị 50 năm ngành KH&CN Việt Nam.
22. Bộ KH&CN. (2010) Báo cáo hoạt động KH&CN địa phương 2006 - 2010.
23. Vũ Cao Đàm. (2008) Quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự trong Luật KH&CN.
Tạp chí hoạt động khoa học, số 8.
24. Hồ Ngọc Luật. (2006) Phát triển thị trường KH&CN. Tạp chí Khoa học xã hội và
Nhân văn, số 5.
25. Hồ Ngọc Luật. (2009) Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
KH&CN địa phương. Báo cáo đề án cấp Bộ KH&CN.
26. Hồ Ngọc Luật. (2009) Tình hình quản lý KH&CN địa phương và một số đề xuất. Tạp
chí Hoạt động khoa học, số 3.
27. Hồ Ngọc Luật. (2009) 50 năm KH&CN địa phương. Tạp chí Tuyên giáo, số 5.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_moi_co_che_chinh_sach_phat_trien_khoa_hoc_va_cong_nghe_d.pdf