Tăng trưởng kinh tế nhanh, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập ngày càng tăng, sẽ phát sinh thêm nhiều thách thức mới trong việc bảo vệ môi trường, một vấn đề vốn đã rất nhảy cảm và dễ bị tổn thương ở Việt Nam do những điểm đặc thù về địa lí và khí hậu cũng như mô hình phát triển kinh tế hiện nay của đất nước. Nhu cầu bức xúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế là điều dễ hiểu, dễ chia sẻ, song tác động tiêu cực của nó đối với môi trường lại rất lớn và có thể cản trở tương lai phát triển của đất nước. Sự mở cửa nền kinh tế và những nhiệm vụ nặng nề trong quá trình phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo phải được khảo sát, xem xét, phối hợp một cách hợp lý trong khuôn khổ một mô hình kinh tế – xã hội toàn diện.
Xoá đói giảm nghèo và phát triển nông thôn: vì đói nghèo vẫn còn rất phổ biến, đặc biệt ở các vùng nông thôn nên việc tiếp tục mở rộng sản xuất nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo. Hiện tượng phá huỷ môi trường do tài nguyên thiên nhiên bị khai thác kiệt quệ đã diễn ra ở nhiều nơi. tình trạng đánh bát quá mức, sử dụng các biện pháp huỷ diệt như chất nổ là mối đe doạ đối với sinh vật vùng ven biển và làm giảm đáng kể giá trị kinh tế của cá đánh bắt được. Do vậy, việc cân nhắc đến những hoạt động môi trường trong các chương trình kinh tế xã hội hỗ trợ xoá đói giảm nghèo là rất cần thiết nhằm tiếp tục duy trì và củng cố một cách bền vững những thành tích xoá đói giảm nghèo đã đạt được.
27 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1702 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đổi mới là quá trình mở rộng cơ hội phát triển toàn diện con người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng xã hội, gia đình và tính gay gắt của các vấn đề thất nghiệp, môi trường, giaó dục và y tế. Kết quả là các điều kiện phát triển trí tuệ văn hoá, thể lực của giống nòi có thể dần bị thui chột.
Nhờ thực hiện những chính sách, chiến lược dân số từ sau đổi mới đồng thời cũng phải tăng mạnh đầu tư cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình đem lại thành tích đáng kể trong lĩnh vực dân số và kế hoạch hoá gia đình. Từ mức trung bình 2,1% mỗi năm trong thập niên 1980, tỷ lệ phát triển dân số đã giảm xuống còn 1,76%/năm trong thập niên 1990.Việc cải thiện mức sống vật chất cũng như trong môi trường sống cởi mở hơn là những yếu tố chủ yếu làm tăng tuổi thọ của người dân từ 63,4 tuổi năm 1992 lên 70,1 tuổi năm 1999. Đặc biệt là phụ nữ được hưởng lợi ích từ việc giảm tỷ lệ sinh con. Nhờ giảm số lần sinh, thời gian mà phụ nữ phải chịu đựng những vất vả của việc mang thai và rủi ro sinh nở giảm xuống. Đồng thời do ít con thì gánh nặng của việc nuôi dạy con mà họ phải gánh vác phần lớn cũng bớt đi.
Tóm lại thành tựu giảm, tốc độ tăng dân số của VN là to lớn. Song cũng còn những vấn đề dáng lưu tâm. Quá trình di dân, một mặt tạo việc làm và thu nhập cho một bộ phận không nhỏ dân cư. Mặt khác, đang có tác động tiêu cực đến môi trường và gây căng thẳng thêm nhiều vấn đề xã hội ( tệ nạn xã hội, nhà ở, nước sạch...)
Thách thức của việc giải quyết nhiệm vụ nâng cao dân trí, yêu cầu phải thay đổi nhanh chóng và căn bản chất lượng của hệ thống cung cấp và sử dụng tri thức. Khi quá trình đổi mới và chủ động hội nhập được đẩy mạnh hơn thì khả năng xuất hiện các tầng lớp, các nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương cũng có thể sẽ nhiều hơn, đa dạng hơn. Cần có một hệ thống chính sách hỗ trợ cho các đối tượng yếu thế đó một cách toàn diện.
2.4. Thách thức to lớn đối với việc nâng cao dân trí và vai trò của khoa học và công nghệ.
Việt Nam không chỉ cần tận dụng được lợi thế về lao động với chi phí thấp, mà còn cần tiếp cận và phát triển các ngành nghề đòi hỏi kỹ năng, công nghệ hiện đại. Dưới góc độ nào thì việc nâng cao dân trí, kỹ năng và năng lực cho người lao động cũng đóng vai trò quyết định. Các bằng chứng thu nhập được từ các cuộc điều tra đều dẫn tới kết luận: ở điạ phương nào mà trình độ văn hoá của dân cư thấp, cơ hội tiếp cận hệ thống giáo dục khó khăn thì ở đó, người dân nghèo hơn, sống khó khăn hơn và họ gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cao mức sống. Hơn nữa, công nghệ đang biến đổi rất nhanh chóng và cũng khó có thể đo lường được tốc độ thay đổi của tri thức hiện nay. Sự phát triển hiện đại đòi hỏi phải tạo ra những kỹ năng và năng lực phát triển mới của con người. Con người phải đạt trình độ tối thiểu cao hơn và với chất lượng khác hẳn trước đây. yêu cầu này càng đúng đối với những nước đi sâu Việt Nam.
Thách thức của việc giải quyết nhiện vụ nâng cao dân trí với nội dung như trên có liên quan trực tiếp đến yêu cầu phải thay đổi nhanh chóng. Hệ thống này bao gồm các vấn đề chủ yếu là: hệ thống giáo dục - đào tạo; việc tiếp cận thông tin và tri thức; chiến lược phát triển khoa học công nghệ và môi trường ứng dụng cho phát triển kinh tế.
Hệ thống giáo dục và đào tạo còn nhiều bất cập: còn nhiều yếu kém. Yêu cầu dặt ra cho lĩnh vực này không còn là tiến hành đổi mới hay cải tiến một cách cục bộ.
Chương trình giáo dục và đào tạo hiện nay yếu kém trên những mặt quan trọng. Trước hết là vấn đề ‘dạy, học và hành ‘.Chương trình giáo dục - đào tạo của Việt Nam có hướng nặng nề vê cung cấp, áp đặt tri thức sách vở với mục tiêu về số lượng người học, còn học sinh thì tiếp rất thụ động trong tiếp nhận và hình thành tri thức, Hơn nữa trong hai vế “học và hành” của nguyên lý giáo dục thì vế sau bị coi nhẹ. Sự mất cân đối trong quan hệ “ học và hành” giải thích các hiện tượng bất hợp lý và không lành mạnh đang gia tăng khá nhanh.
Kết quả là chương trình học “quá tải” nhưng vẫn thiếu nhiều chi thức công cụ. Hiện nay, do mục tiêu chính và trực tiếp của việc học là vượt qua các kỳ thi nên “nhồi nhét” kiến thức trở thành phương thức học chủ yếu. Phương thức học đó làm cho học sinh luôn luôn căng thẳng tâm lý với khối lượng học quá tải. việc đổi mới hệ thống giáo dục - đào tạo đang vấp phải một vấn đề nữa là hiện trạng đội ngũ giáo viên các cấp chưa đáp ứng tốt các yêu cầu phát triển.
Đội ngũ giáo dục còn mất cân đối về cơ cấu, thiếu nhiều giáo viên phổ thông ở một số bộ môn, nhất là các bộ môn mới như ngoại ngữ, tin học, đặc biệt là ở nông thôn và miền núi. Nghiêm trọng nhất là trình độ đội ngũ giáo viên chưa đảm bảo và bắt nhịp được các đòi hỏi của hệ thống giáo dục hiện đại. Một phần do chương trình đào tạo, giáo dục chưa hợp lý, một phần do lương thấp nên sự quan tâm đến việc nâng cao chất lượng của giáo viên bị coi nhẹ. Trong khi đó, cơ sở vật chất của nhà trường, mặc dù đã sdược nâng cấp ít nhiều, song vẫn còn rất nghèo nàn và thiếu thốn. Thể hiện: thiếu lớp học, thiếu phương tiện học tập. Nguồn kinh phí cho nhà trường quá eo hẹp và một chương trình giáo dục nặng “dạy chữ”.
Mối liên hệ giữa nghiên cứu khoa học với đời sống kinh tế – xã hội và hoạt động kinh doanh được đánh giá là yếu ớt. Một căn nguyên của tình trạng trên là do các quan hệ thị trường chưa phát triển mạnh và rộng khắp. Mặt khác, việc xác định chiến lược và mô hình phát triển khoa học, công nghệ của Việt Nam ở đây là kinh nghiệm của các nước Đông á là một tham khảo tốt.
2.5. Bảo vệ môi trường để đảm bảo sự phát triển bền vững
Tăng trưởng kinh tế nhanh, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập ngày càng tăng, sẽ phát sinh thêm nhiều thách thức mới trong việc bảo vệ môi trường, một vấn đề vốn đã rất nhảy cảm và dễ bị tổn thương ở Việt Nam do những điểm đặc thù về địa lí và khí hậu cũng như mô hình phát triển kinh tế hiện nay của đất nước. Nhu cầu bức xúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế là điều dễ hiểu, dễ chia sẻ, song tác động tiêu cực của nó đối với môi trường lại rất lớn và có thể cản trở tương lai phát triển của đất nước. Sự mở cửa nền kinh tế và những nhiệm vụ nặng nề trong quá trình phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo phải được khảo sát, xem xét, phối hợp một cách hợp lý trong khuôn khổ một mô hình kinh tế – xã hội toàn diện.
Xoá đói giảm nghèo và phát triển nông thôn: vì đói nghèo vẫn còn rất phổ biến, đặc biệt ở các vùng nông thôn nên việc tiếp tục mở rộng sản xuất nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo. Hiện tượng phá huỷ môi trường do tài nguyên thiên nhiên bị khai thác kiệt quệ đã diễn ra ở nhiều nơi. tình trạng đánh bát quá mức, sử dụng các biện pháp huỷ diệt như chất nổ là mối đe doạ đối với sinh vật vùng ven biển và làm giảm đáng kể giá trị kinh tế của cá đánh bắt được. Do vậy, việc cân nhắc đến những hoạt động môi trường trong các chương trình kinh tế xã hội hỗ trợ xoá đói giảm nghèo là rất cần thiết nhằm tiếp tục duy trì và củng cố một cách bền vững những thành tích xoá đói giảm nghèo đã đạt được.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường: nó đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết đối với quản lý môi trường. Chỉ tiêu GDP tăng gấp đôi trong 10 năm tới mức tăng trưởng công nghiệp hàng năm tăng 13% sẽ là trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu vực công nghiệp và vùng đô thị vốn đã bị ô nhiễm ở mức báo động. Hơn thế nữa, năng lực kỹ thuật yếu kém, tình trạng môi trường của ngành công nghiệp với công nghệ lạc hậu, thiết bị lỗi thời và thô sơ của quá trình phát triển công nghiệp, thiếu khuôn khổ pháp lý và thể chế có hiệu lực cộng với việc thi hành các quy định về môi trường một cách yếu kém có thể gây ra vô số mối nguy hại đối với môi trường trong tương lai. Cùng với quá trình hội nhập VN phải sẵn sàng đối phó với tình huống mang lại bất lợi cho môi trường thông qua việc nhập khẩu chuyển giao công nghệ, tránh tình trạng trở thành nơi chứa chất thải và các thiết bị công nghệ lạc hậu từ những nước phát triển nhanh hơn.
Đô thị hoá: cùng với tốc độ công nghiệp hoá và hiện đại hoá, quá trình đô thị hoá cũng diễn ra với nhịp độ cao và có thể có những hậu quả đối với môi trường. Vn gặp phải một số vấn đề về quảnlý đô thị, quản lý rác thải, cung cấp nước sạch, hệ thống thoạt nước và các dịch vụ công cộng khác. Đây thực sự là một sức ép lớn vì tình trạng cơ sở hạ tầng và quản lý đô thị hiện nay rất yếu kém. Thêm vào đó, luồng di dân từ nông thôn ra thành thị sẽ tạo thêm gánh nặng lớn hơn với vấn đề quản lý đô thị.
Chương III: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, chủ động hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu phát triển con người.
Các chính sách kinh tế xã hội được thực hiện ở nước ta, dặc biệt trong quá trình đổi mới, rõ ràng đã nhìn nhận con người là trung tâm của sự phát triển. Trước đổi mới, cơ chế kế hoạch hoá đã hạn chế việc tạo ra động lực và cơ hội cho người dân nhằm xây dựng và phát huy năng lực lựa chọn của mình. Đổi mới đã mang lại những thành tựu đáng kể thông qua việc khuyến khích phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần với loại hình sở hữu đa dạng, chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường mở cửa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng.
Ta tập trung vào 5 nhân tố chính của chiến lược toàn diện phát triển con người ở Việt Nam:
Đẩy mạnh quá trình cải cách thể chế.
Tiếp tục điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Đẩy mạnh phát triển khu vực nông thôn.
Cải tổ giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.
Mở rộng và toàn thiện dịch vụ công cộng.
3.1. Củng cố và làm sâu sắc hơn thành quả của đổi mới:
Trong suất quá trình xây dựng và phát triển đát nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn khẳng định: con người, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính, tuổi tác và xét trên tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế – xã hội, là trung tâm của sự phát triển; con người là mục tiêu và cũng là động lực của sự phát triển. Những thành tựu đáng kể và quan trọng mà Việt Nam đạt được trong 15 năm qua, nhất là trong thập niên 1990, đã chứng tỏ, với nội dung chính là phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, chuyển sang cơ chế thị trường và mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường đúng đắn để giải quyết các vấn đề phát triển con người ở Việt Nam.
Đồng thời, tính chất chuyển đổi và đang phát triển của nền kinh tế Việt Nam cũng cho thấy đổi mới là quá trình phức tạp và còn chưa hoàn thiện trên nhiều mặt. Việt Nam còn phải đối mặt với các vấn đề đói nghèo, việc làm, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ vốn khó tránh khỏi của một nước nghèo, đông dân. Song thách thức chính ở đâylà thể chế, chính sách vẫn còn hạn chế việc khơi dậy và sử dụng hiệu quả các nguồn nhân lực, việc duy trì chất lượng tăng trưởng, và việc nâng cao khả nảng cạnh tranh của nền kinh tế. Kết quả là thành tựu phát triển con người trên nhiều mặt của Viêt Nam chưa lớn, chưa vững chắc và có khi chưa tương xứng với tổn phí xã hội bỏ ra. Hơn nữa, sự phát triển của Việt Nam lại đang diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá với những đặc trưng mới về công nghệ, tốc độ biến đổi và sự đan kết về kinh tế, văn hoá, quản lý trên phạm vi toàn thế giới. Chính vì vậy, việc củng cố và làm sâu sắc hơn thàh quả của đổi mới sẽ có quyết định đối với việc thực hiện thành công mục tiêu phát triển của đất nước trong hai thập niên đầu tiên của thiên niên kỷ mới.
tiến trình đổi mới hàm chứa những nội dung chuyển đổi sâu sắc trên tất cả đời sống kinh tế – xã hội. Trước hêt, đó là các vấn đề đổi mới thể chế kinh tế, cải cách và điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển khu vực nông thôn, cải cách hệ thống giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội và bảo vệ môi trường.
Các vấn đề đó có thể dược xem là những đường nét chính của chương trình tổng thể phát triển con người trong giai đoạn 10 năm tới, với mục tiêu là tập chung mọi nỗ lực để nâng cao chất lượng của các kết quả phát triển con người. Một yêu cầu khác có tính nguyên tắc của nhiệm vụ phát triển con người của Việt Nam cần được củng cố trong giai đoạn tới là giữ vững định hướn xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Với nội dung “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” ở Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với triết lý phát triển lấy con người làm trung tâm.
Đối với Việt Nam, tính chất chuyển đổi và phát triển của nền kinh tế làm cho việc vừa thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện, lại vừa nỗ lực duy trì tốc độ tăng nhanh để vượt qua nguy cơ tụt hậu, gặp rất nhiều khó khăn và không ít những đánh đổi giữa lợi ích phát triển lâu dài và lợi ích ngắn hạn, cục bộ. để bảo đảm phối hợp đồng bộ các mục tiêu và hạn chế đến mức thấp nhất tổn phí xã hội có thể phát sinh, chiến lược phát triển của giai đoạn tới phải nhấn mạnh hai yêu câu: tăng trưởng nhanh, hiệu quả và tạo lập năng lực phát triển mới. từ bài học kinh nghiệm của 15 năm đổi mới cùng với nhận thức đầy đủ về những thách thức trong nước và quốc tế đang và sẽ đặt ra với sự phát triển đất nước, có thể thấy rằng đổi mới thể chế kinh tế và phát triển nguồn nhân lực phải là hướng hành động ưu tiên trong giai đoạn tới và cần được tính đến trong tất cả các phương diện của tiến trình củng cố và làm sâu sắc hơn tiến trình đổi mới.
3.2. Các định hướng chính sách cơ bản trong tiến trình tiếp tục đổi mới vì sự nghiệp phát triển con người:
3.2.1. Đẩy mạnh quá trình đổi mới cơ chế kinh tế
Nhờ những thay đổi thể chế kinh tế thời gian qua, nông nghiệp, thương mại dịch vụ và sản xuất nhỏ của khu vực tư nhân đã có bước phát triển mạnh. Hiện nay, nhiệm vụ tạo dựng một thể chế kinh tế thị trường thích hợp trở nên phức tạp hơn vì nó đụng chạm đến nhiều vấn đề cơ bản liên quan đến quan điểm phát triển của Việt Nam. Đó là các vấn đề về đất đai, lao động, cải cách khu vực DNNN và tài chính-ngân hàng, cải cách hành chính và bộ máy quản lí nhà nước, hội nhập kinh tế, chính sách xã hội, và sự tham gia của nhân dân trong đời sống chính trị, xã hội. Do vậy, việc đẩy mạnh quá trình đổi mới thể chế kinh tế đòi hỏi không chỉ sự tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện khung pháp lý, xử lý thích hợp các hành vi kinh tế, sản xuất kinh doanh của một nền kinh tế thị trường và mở cửa.
Một là phải tạo ra “sân chơi bình đẳng” cho mọi thành phần kinh tế. Chủ trương xây dựng chỉ một luật đầu tư và một luật doanh nghiệp áp dụng thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp cần được khẩn trương triển khai trên thực tế.
Hai là phải hỗ trợ tích cực sự phát triển đồng bộ và có hiệu quả các loại hình thị trường: từ thị trường hàng hoá dịch vụ tiêu dùng thị trường sản phẩm khoa học-công nghệ, đến thị trường lao động, thị trường tài chính ... Bên cạnh đó cần xây dựng nhiều luật mới: luật về quyền sở hữu trí tuệ, luật thương mại điện tử ...
Ba là phải đảm bảo tính phù hợp với các nguyên tắc và quy định quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ cam kết thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là công việc phức tạp vì phải ra soát và đổi mới lại hệ thống văn bản pháp lý của Việt Nam. Một vấn đề nổi cộm ở đây là việc chỉnh sửa hệ thống pháp luật cho phù hợp với các nguyên tắc đối xử quốc gia trong quan hệ thương mại, đầu tư quốc tế.
Việc hoàn thiện khung khổ pháp lý sẽ mất đi nhiều ý nghĩa nếu bộ máy quản lý nhà nước không được cải cách mạnh mẽ. Chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất quản lý kinh doanh chưa được tách bạch rõ ràng. Chất lượng dịch vụ công thấp, cơ chế xin cho và nạn tham nhũng lãng phí còn phổ biến, không ít quy trình hành chính rắm rối, phức tạp. Kết quả là mức độ rủi ro trong việc thực hiện các quy định của pháp luật và hợp đồng thương mại gia tăng, chi phí giao dịch và do đó là chi phí kinh doanh nói chung cũng tăng lên. Nguy hại hơn, điều này đã và đang hạn chế đáng kể sự phát triển năng động, bền vững của các doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Những tư tưởng cải cách hành chính và bộ máy quản lý nhà nước là rõ ràng và thường được nhấn mạnh là: đơn giản hoá thủ tục hành chính, giảm thiểu cơ chế “xin - choạnh tranh của nền kinh tế. sẽ cam kết thực hiện trong qiasguyên tắc và quy định quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ cam kết thực hiện trong qias gian ”, tăng cường tính minh bạch, công khai và trách nhiệm giải trình của bộ máy quản lý Nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí, thu gọn đầu mối, giảm biên chế và nâng cao năng lực công chức và chất lượng dịch vụ công. Cải cách hành chính là một công việc hết sức khó khăn, phức tạp. Tuy nhiên có hai định hướng giải pháp cần được đặc biệt lưu ý. Một là thay đổi chức năng bộ máy theo hướng giảm bớt sự can thiệp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và các quy trình hành chính tương ứng. Cách làm này sẽ rất hiệu quả nếu gắn cùng với việc phát triển một thị trường lao động linh hoạt. Hai là tạo ra cơ chế giám sát có hiệu lực, chẳng hạn thông qua các cơ quan độc lập và có sự tham gia của đại biểu Quốc hội chuyên trách.
Mở rộng sự tham gia của người dân trong đời sống chính trị, xã hội cũng là một bộ phận cấu thành hữu cơ của công cuộc tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế vì mục tiêu phát triển và phát triển con người. Điều này còn là một yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần nâng cao năng lực và chất lượng của bộ máy quản lý nhà nước.
Trước hết, sự tham gia của người dân trong đời sống chính trị, xã hội chỉ có thể có hiệu quả trong một môi trường xã hội dân chủ, công khai và công bằng. Đối với Việt Nam, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh cải cách hành chính và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Thông qua đó, người dân có quyền được “biết, bàn, làm và kiểm tra” khai và công bằng. Đối với Việt Nam, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh cải iển con người. Điê, dễ dàng tiếp cận với các cấp chính quyền để bày tỏ ý kiến của mình đối với các vấn đề liên quan tới chính sách và hoạt động quản lý của nhà nước. Vai trò của các tổ chức hiệp hội và các tổ chức quần chúng với tính cách là người đại diện tiếng nói của doanh nghiệp và nhân dân cần được phát huy hơn nữa.
Hiệu quả tham gia của người dân còn phụ thuộc vào năng lực tham gia của chính họ. Việc tăng cường năng lực cho người dân là kết quả tổng hợp của các chính sách có liên quan đến điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển bền vững khu vực nông thôn, chuyển đổi căn bản hệ thống giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ, xây dựng hệ thống an sinh xã hội, và bảo vệ môi trường. Định hướng những chính sách chủ yếu đó sẽ được trình bày trong các phần tiếp theo của Báo cáo. Chỉ xin lưu ý hai điểm. Một là cần đặc biệt chú trọng tăng cường năng lực tham gia cho người nghèo cũng như người dân ở các vùng sâu, vùng xa và miền núi. Hai là cần nâng cao năng lực nhận thức pháp luật của người dân, giúp họ hiểu biết đầy đủ hơn về quyền lợi và trách nhiệm của mình. Tri thức pháp luật còn là điều kiện để người dân hạn chế tác động tiêu cực và sự phát triển của tệ quan liêu, tình trạng mất dân chủ cũng như các tệ tham nhũng, hối lộ và sách nhiễu nhân dân của các quan chức chính quyền.
3.2.2. Thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Việc đẩy mạnh đổi mới thể chế kinh tế là điều kiện quyết định thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Đến lượt mình, điều chỉnh cơ cấu kinh tế sẽ có tác động tích cực đến việc phân bổ hiệu quả các nguồn nhân lực, việc làm và thu nhập, nâng cao năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế trong giai đoạn tới. Điều chỉnh cơ cấu cần nhằm vào các khu vực/ lĩnh vực chủ yếu sau:
Cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước: bao gồm hai khía cạnh là giảm mạnh số lượng các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và nâng cao hiệu quả, nhất là đối với các Tổng công ty nhà nước. Cải cách doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc góp phần đảm bảo thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trong một nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu ở nước ta. Việc thực hiện chương trình của Chính phủ về cổ phần hoá, khoán, cho thuê và bán một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, và việc kiên quyết giải thể những doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, cần được phải được đẩy mạnh tổ chức lại các tổng công ty 90 và 91 cũng là những nội dung cải cách cần được đặc biệt quan tâm. Đổi mới chính sách đầu tư Nhà nước dựa trên cơ chế thị trường thay cho nguyên tắc trợ cấp, bao cấp, giảm thiểu bảo hộ, tạo “sân chơi bình đẳng” đối với các thành phần kinh tế và môi trường cạnh tranh, là những giải pháp chính sách quan trọng nhất để tăng cường hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước;
Cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng: Phát triển hệ thống tài chính ngân hàng là một yêu cầu tất yếu nhằm ổn định vĩ mô, huy động và phân phối các nguồn vốn có hiệu quả, tăng cường tính năng động của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Đồng thời, nếu không có bước đi cải cách thích hợp và vững chắc, hệ thống này trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế thường ẩn chứa những rủi ro và nguy cơ đổ vỡ, có thể gây khủng hoảng kinh tế xã hội. Hệ thống tài chính, ngân hàng của Việt Nam hiện được xem là tương đối yếu kém và chứa đựng nhiều nhiều rủi ro. Những cải cách cần thiết đối với hệ thống này là:
Chuyển đổi sang sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp là chủ yếu, nâng cao tính động lập và năng lực giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh vỡ, có thể gây khủng hoảng kinh tế xã hội. Hệ thống tài chính, ngân hàng của Việt Nam hiện được xem là tương đối yếu và ngân hàng cổ phần.
thị trường hoá đầy đủ hơn hoạt động của các ngân hàng thương mại (như tách bạch ngân hàng chính sách và ngân hàng thương mại, và tăng cạnh tranh).
Tạo hành lang pháp lý phù hợp với cấu trúc hệ thống tài chính, ngân hàng và thị trường tài chính hiện đại.
Đối với Việt Nam, có hai điểm cần lưu ý. Thứ nhất, cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng sẽ là nửa vời và không hiệu quả nếu không nằm trong tổng thể cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai, do năng lực và trình độ của hệ thống này còn yếu, nên việc mở cửa tài chính và tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế cần được thực hiện theo trình tự chặt chẽ, song kiên định để đảm bảo tính nhất quán của cả quá trình cải cách cơ cấu và hội nhập quốc tế.
Cải cách thương mại: Để thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi, một mặt, Nhà nước phải nhanh chóng giảm các nỗ lực bảo hộ không hợp lý, buộc các doanh nghiệp phải làm quen dần với môi trường cạnh tranh, và mặt khác, phải thực thi các giải pháp hỗ trợ có điều kiện và thời hạn nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Trước tiên, căn cứ vào khuôn khổ hội nhập đã và sẽ được cam kết, cần xây dựng một Chương trình Hành động chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai, sửa đổi, điều chỉnh các văn bản pháp lý, các quy định chính sách không phù hợp với yêu cầu hội nhập. Thứ ba, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và tiếp cận thị trường thế giới bằng các hoạt động cung cấp thông tin, cùng tìm kiếm đối tác, thị trường, đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập cảnh, tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận các nguồn ngoại hối, tín dụng, hỗ trợ đào tạo quản lý, phát triển các chương trình nghiên cứu và triển khai (R&D).
Phát triển mạnh kinh tế dân doanh, nhất là các công ty tư nhân vừa và nhỏ; thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài:a áti hối, tín dụng, hỗ trợ đào tạo quản lý, phát triển các chương trình nghiên cứu và triển khai (R&D),... hủ tục xuất nhập cảnh, tạo điê giới bằng các hoạt động cung cấp thông tin, cùng tìm kiếm đối tác, thị trường, đ Đây là một định hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều chỉnh cơ cấu theo hướng tạo việc làm và tăng năng lực cạnh tranh. Sự tiến triển của hai quá trình này sẽ tạo thành một cơ sở vững chắc đảm bảo sự phát triển năng động, hiệu quả của thị trường. Cần nhấn mạnh rằng chỉnh sửa khung khổ pháp lý, cải cách hành chính, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng thương mại quốc doanh, và cải cách thương mại sẽ là điều kiện cơ bản nhất cho sự phát triển lâu bền và hiệu quả của khu vực kinh tế dân doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Điều chỉnh cơ cấu đòi hỏi phải đổi mới chức năng và vai trò của Nhà nước nhằm tạo dung một môi trường kinh doanh cạnh tranh, năng động và thực hiện tốt mục tiêu phát triển con người.quan trọng trong việc điêu i: Trước hết, Nhà nước cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư, tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội và giải quyết các vấn đề bảo đảm xã hội (như về giáo dục, y tế, công bằng xã hội, phòng chống các tệ nạn...). Việc cải cách hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công, và thiết lập cơ chế cần thiết để phổ cập và thu nhận thông tin chính sách và thông tin kinh tế là bước tiến quan trọng thể hiện rõ tính minh bạch của chính sách và là sự hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Những nỗ lực mở rộng thị trường xuất khẩu, hỗ trợ đào tạo, R&D, hình thành các khu công nghệ cao của Nhà nước cũng đóng vai trò thiết thực đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và sự phát triển lâu bền của doanh nghiệp.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ không tránh khỏi những chi phí xã hội phát sinh, nhất là về ngắn hạn. Chính vì vậy, việc thiết lập mạng lưới an sinh xã hội là hết sức cần thiết. Những yếu tố chính của mạng lưới này bao gồm hệ thống bảo hiểm, quỹ hỗ trợ và sự giúp đỡ, cung cấp nhu cầu thiết yếu cho những người nghèo; sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp và của người dân cũng dần được chú trọng. Tuy nhiên, việc hạn chế những chi phí xã hội chỉ có thể được giải quyết một cách vững chắc thông qua việc thúc đẩy sự phát triển có hiệu quả của khu vực kinh tế tư nhân, tạo ra các kỹ năng lao động mới.
3.2.3 Phát triển bền vững khu vực nông thôn
Trong hơn 10 năm qua, việc mở rộng cơ hội lựa chọn và khuyến khích lao động và sự sáng tạo của người nông dân trên cơ sở các trao đổi thị trường và mở của đã tạo ra những thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển nông nghiệp; đời sống nông dân ở nhiều vùng đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong thập niên tới, nông thôn vẫn là địa bàn và lĩnh vực sinh sống của đa số dân cư và người nghèo, trong khi khoảng cách về mứcn là địa bàn và lĩnh vực sinh sống của đa số dân cư và người nghèo, trong khi khoảng cac sống giữa thành thị và nông thôn có nguy cơ gia tăng mạnh do chênh lệch cao về tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa hai khu vực. Hơn nữa, người nông dân vẫn phải tiếp tục đối mặt với những rủi ro phát sinh do thiên tai, biến động bất thường của thị trường nông sản quốc tế.
Triển vọng phát triển bền vững khu vực nông thôn, và do đó cả đất nước trong thập kỷ tới đang đặt ra không ít vấn đề. Việc tiếp tục đổi mới thể chế và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chuyển dịch có hiệu quả các nguồn lực, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp và nông thôn phát triển, hạn chế nguy cơ gia tăng cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Đồng thời cũng cần kết hợp với các chính sách đặc thù đối với khu vực nông thôn và nông nghiệp theo hướng:
Nâng cao hiệu lực các quyền đối với ruộng đất của người nông dân. Điểm mấu chốt ở đây là việc đảm bảo các điều kiện pháp lý và hành chính trên thực tế để người nông dân thực hiện đầy đủ các quyền đối với ruộng đất, nhất là quyền chuyển đổi mục đích sử dụng, quyền chuyển nhượng và thế chấp ruộng đất. Điều này sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân sử dụng ruộng đất một cách hiệu quả, hướng vào những sản phẩm có giá trị. Đây cũng là một cơ sở kích thích quá trình đa dạng hoá sản xuất trong khu vực nông thôn và phát triển thị trường nông sản.
Mở rộng cơ hội cho người nông dân đa dạng hoá sản xuất, theo hướng phá thế độc canh lương thực, nhất là độc canh lúa, chuyển sang phát triển mạnh những ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng và thu nhập cao hơn. Cùng với việc đảm bảo đầy đủ trên thực tế các quyền đối với ruộng đất của người nông dân, việc trợ giúp kỹ thuật, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ tài chính thông qua các chương trình phát triển và/hoặc cung cấp tín dụng với các điều kiện phù hợp (không nhất thiết phải là ưu đãi) và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, nhất là trong giai đoạn đầu, sẽ phát huy tính năng động của người nông dân và do đó, thúc đẩy mạnh mẽ cả quá trình đa dạng hoá sản xuất. Đây cũng là một yếu tố cần thiết để phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông sản và gia công ở nông thôn, qua đó làm sôi động thị trường, cải thiện và ổn định việc làm và thu nhập cho người nông dân. Một điều kiện tiên quyết đảm bảo tính khả thi của chính sách đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp là việc tạo cơ chế khuyến khích mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ nông nghiệp (khuyến nông, dịch vụ tài chính, dịch vụ kỹ thuật và thương mại). Đối với những vùng tương đối bị cô lập và nghèo thì tác dụng của cơ chế này càng có ý nghĩa tích cực. Người nông dân, nhất là các hộ nghèo giảm được chi phí cho việc hấp thụ kỹ thuật tiên tiến, tiếp cận nguồn vốn, thị trường, Họ có thêm điều kiện để tự vươn lên thay vì phải kéo dài thời gian dựa vào sự cứu trợ xã hội.
Cải thiện điều kiện mua bán sản phầm của người nông dân nhằm hạn chế các rủi ro thị trường và thiệt hại kinh tế cho họ. Xoá bỏ tình trạng độc quyền, giảm thiểu các điều kiện gia nhập thị trường cho các doanh nghiệp là một yếu tố căn bản giúp người nông dân nâng cao vị thế “lựa chọn” và “mặc cả” trong các giao dịch thị trường, qua đó bảo vệ và duy trì được lợi ích của họ. Cải thiện kết cấu hạ tầng giao thông và thông tin, thông tin thị trường kịp thời,… cũng là những yếu tố quan trọng tạo thuận lợi cho người nông dân trong giao dịch thị trường. Việc lập quỹ bảo hiểm rủi ro về giá nông sản có thể là một giải pháp cân thực hiện để nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, “trung hoà hoá” sự bất ổn còn cao đối với thị trường nông sản. Tuy nhiên, quỹ này nên được sử dụng để hỗ trợ trực tiếp cho thu nhập của người nông dân hơn là để hỗ trợ qua giá.
Phát triển mạnh kinh tế trang trại. Kết quả nhiều mặt và đáng kể mà kinh tế trang trại đem lại trong những năm gần đây là rất rõ ràng. Kinh tế trang trại cho phép tận dụng tốt các nguồn lực ít/chưa được khai thác, đặc biệt là ở các vùng sâu và vùng duyên hải, biến chúng thành lợi thế phát triển hiện thực. Kinh tế trang trại còn tạo ra nhiều việc làm với mức thu nhập tương đối cao. Nhà nước đã có chủ trương khuyến khích sự phát triển của loại hình kinh tế này trở nên thực sự bền vững và phát huy hết thế mạnh của nó, cần ban hành các quy định và giải pháp chính sách đồng bộ. Trong số này, những quy định về đất đai, về thuế, về lao động cần được điều chỉnh cho phù hợp với tinh thần khuyến khích; các giải pháp hỗ trợ về cung cấp tín dụng, tổ chức thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển kinh tế trang trại.
Giữ vững an ninh lương thực. Mặc dù mỗi năm Việt Nam xuất khẩu hàng triệu tấn gạo, song vấn đề về an ninh lương thực vẫn phải đặc biệt quan tâm theo hai nghĩa. Thứ nhất, những rủi ro về thiên tai là rất lớn và thường tập trung vào những vùng nghèo. Thứ hai, số hộ nông dân nghèo cũng như số hộ nông dân có nguy cơ rơi trở lại tình trạng đói nghèo vì các rủi ro bất thường còn nhiều. Vì vậy, bảo đảm an ninh lương thực là biện pháp trước hết hướng tới người nghèo, củng cố và làm vững chắc các cơ sở xã hội của sự phát triển bền vững. Việc giữ vững an ninh lương thực đòi hỏi không chỉ một quỹ dự trữ lương thực dồi dào của Nhà nước với một mạng lưới phân phối/cứu trợ hoạt động có hiệu quả. Điều quan trọng không kém, thậm chí còn quan trọng hơn về phương diện phát triển là việc chuyển đổi thể chế chính sách (như đã trình bày ở trên) để tạo cơ hội việc làm và thu nhập cho các hộ nghèo. Hiện nay, ở một số vùng, việc bảo đảm cho các hộ nông dân nghèo có ruộng đất là cần thiết để họ không bị rơi vào tình trạng bần cùng. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ có kết quả nếu các hộ nông dân nghèo có được các điều kiện sản xuất tối thiểu (giống, công cụ) thông qua các chương trình phát triển của Nhà nước và sự hỗ trợ, giúp đỡ của cộng đồng và các tổ chức xã hội.
3.2.4 Chuyển biến căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệg qua các chương trình phát triển của Nhà nước và sự hỗ trợ, giúp đỡ của cộng đô
Lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ không chỉ biểu hiện định hướng hiện thực hoá chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, mà còn phản ánh sinh động các giá trị nhân văn của sự phát triển con người trong giai đoạn tới của Việt Nam. Chuyển biến căn bản và toàn diện trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là một trong những khâu đột phá chiến lược cho sự phát triển của Việt Nam.
Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Trong bối cảnh Việt Nam tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế và tạo cơ sở để tong bước tiếp cận và thích ứng với nền kinh tế tri thức, đáp ứng yêu cầu phát triển con người với tư cách là mục tiêu và lực lượng quyết định của sự phát triển nhanh, bền vững, sự chuyển biến căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo cần được nhìn nhận trên một loạt các vấn đề; từ xác định cấp độ ưu tiên, cải cách chương trình cho đến việc đổi mới cách dạy và học, cân đối cung – cầu lực lượng lao động được đào tạo.
Giáo dục và đào tạo luôn được Nhà nước xác định là lĩnh vực ưu tiên. Vấn đề được cân nhắc hiện nay là xác định cấp độ ưu tiên cho các mục tiêu giáo dục và đào tạo là mở rộng và nâng cấp mức độ phổ cập giáo dục; phát triển hệ thống dạy nghề; và đào tạo ở bậc đại học và trên đại học.
Nhà nước cần đóng vai trò cơ bản nhất thông qua chi tiêu cho giáo dục, củng cố vững chắc kết quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, từng bước phổ cập trung học cơ sở cả nước. Đây là giải pháp quan trọng giúp đông đảo người nghèo, trước hết là các trẻ em nghèo, có cơ hội tiếp cận tri thức cơ bản cũng như giúp nâng cao năng lực phát triển chung của xã hội. Đối với các bậc giáo dục và đào tạo cao hơn, cần có sự chia sẻ giữa Nhà nước và những người được hưởng thụ tri thức. Sự hỗ trợ tài chính mang tính ưu tiên của Nhà nước, nếu có, chỉ nên dành cho những học sinh, sinh viên đặc biệt xuất sắc.
Tính tích cực của chủ trương “xã hội hoá công tác giáo dục, đào tạo” cần khai thác tốt hơn nữa. Việt Nam đã thu được kết quả khả quan nhất định trong việc đa dạng hoá các kênh đào tạo, giáo dục (xem chương 2). Vai trò của trường bán công, dân lập và cách thức truyền tải giáo dục khác nhau cần được tiếp tục phát huy. Việc lôi cuốn khu vực doanh nghiệp tham gia, chẳng hạn vào việc phát triển hệ thống đào tạo nghề cần được khuyến khích. Sự giúp đỡ, hỗ trợ quốc tế cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo của Việt Nam, nhất là trong giai đoạn tới, cũng đóng vai trò rất quan trọng.
Cải cách chương trình giáo dục, đào tạo và cách dạy và học đang là yêu cầu bức xúc và có tầm quan trọng hàng đầu trong toàn bộ nhiệm vụ đổi mới hệ thống giáo dục - đào tạo. Chương trình phải đáp ứng được mục tiêu tạo nền tảng tri thức cho sự phát triển con người toàn diện, đồng thời, phải phù hợp với yêu cầu mới của thời đại toàn cầu hoá và kinh tế tri thức. Theo nghĩa đó, chương trình cũng cần dành một tỷ lệ thích đáng cho các môn học cung cấp các loại tri thức công cụ – tối thiểu của thời đại. Hiện nay, việc đọc thông viết thạo tiếng mẹ đẻ là chưa đủ; việc phổ cập tiếng Anh và kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin và internet cho học sinh trung học phổ thông và nối mạng internet cho tất cả các trường phổ thông trung học là những nhiệm vụ cần nỗ lực thực hiện.
Hiện nay, cách học thụ động và cách dạy theo lối ‘áp đặt’ và với mục tiêu cung cấp khối lượng lớn thông tin đã tỏ ra lạc hậu, thậm chí có hại. Cách dạy và học cần được chuyển sang hướng trang bị các phương pháp thu nhận, xử lý thông tin và tri thức cũng như phát triển năng lực xác định và giải quyết vấn đề. Ngay trong nhà trường, các kênh chuyển tải trí thức cũng phải được đa dạng hoá. Chương trình, cách dạy và học mới, dĩ nhiên đòi hỏi chất lượng mới đối với đội ngũ giáo viên. Sự hỗ trợ của Nhà nước và quốc tế và nỗ lực của chính bản thân nhà trường, giáo viên trong môi trường ngày càng nhiều cơ hội học tập có thể lựa chọn sẽ tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Mối liên hệ cần thiết giữa việc cung cấp nhân lực được đào tạo với nhu cầu sử dụng nhân lực sẽ được thiết lập và trở nên chặt chẽ thông qua việc phát triển thị trường lao đọng và thị trường sản phẩm khoa học, công nghệ. Sự phát triển của các thị trường này sẽ cung cấp các chỉ báo cần thiết cho việc chuyển đổi hệ thống đào tạo, từ yêu cầu cải cách nội dung và nâng cấp chất lượng chương trình đào tạo cho đến số lượng và cơ cấu các cơ sở đào tạo (Các thị trường này cũng sẽ định hướng hoạt động của các cơ sở nghiên cứu khoa học – công nghệ; chúng còn buộc các cơ sở này tuyển chọn và sử dụng cán bộ khoa học, công nghệ có hiệu quả hơn). Như vậy, để chuyển đổi có hiệu quả hệ thống giáo dục - đào tạo, điều hết sức quan trọng vẫn là đẩy mạnh quá trình đổi mới về thể chế kinh tế nhằm tạo ra một môi trường khuyến khích sự tham gia của tất cả các lực lượng xã hội.
Đối với lĩnh vực khoa học công nghệ
Hệ thống khoa học công nghệ của Việt Nam hiện còn rất bất cập trước yêu cầu phát triển và cần được đổi mới một cách căn bản và toàn diện hơn. Tuy nhiên, có ba nhiệm vụ lớn cần được ưu tiên xử lý trong chiến lược phát triển khoa học – công nghệ giai đoạn tới; đó là việc chọn lựa hướng ưu tiên, công tác chuẩn bị đội ngũ cán bộ nghiên cứu trẻ có đủ năng lực, và việc tạo dựng sự gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và các nhu cầu kinh tế- xã hội.
Lựa chọn hướng phát triển khoa học công nghệ ưu tiên. Việc phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để giải quyết tốt nhất các vấn đề phát triển hiện đại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập vào thế giới toàn cầu hoá và chuyển sang kinh tế tri thức đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất mới. Triển vọng phát triển bền vững của Việt Nam trong thập niên tới phụ thuộc rất lớn vào việc lý giải và trả lời những vấn đề này. Chính vì vậy, khoa học xã hội và nhân văn cần được chú trọng phát triển và hướng vào việc cung cấp những luận cứ khoa học cho các chủ trương, cơ chế và chính sách phát triển kinh tế – xã hội và phát triển con người.
Đối với khoa học tự nhiên và công nghệ, Nhà nước đã hình thành bốn chương trình công nghệ ưu tiên (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu và công nghệ tự động hoá). Tuy nhiên, một vấn đề nảy sinh là làm thế nào để đảm bảo được tính hiệu quả của việc triển khai bốn chương trình trong hoàn cảnh nguồn lực còn eo hẹp và định hướng cơ bản là ưu tiên cho nghiên cứu ứng dụng. Có lẽ cần cân nhắc kỹ hơn về bước đi và thứ tự ưu tiên trong triển khai các chương trình (chẳng hạn như các chương trình về công nghệ thông tin và chương trình công nghệ sinh học có thể triển khai sớm và mạnh mẽ hơn). Đồng thời, với các chương trình đó, trong giai đoạn trước mắt, cần đặc biệt coi trọng phát triển và áp dụng các công nghệ thích hợp, chấp nhận được về khía cạnh bảo vệ môi trường và có khả năng thu hút nhiều lao động. Hướng được chú trọng này nhất quán với nhiệm vụ tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo của chiến lược phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2002.
Đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu, làm thực hành có năng lực. Đây là khâu then chốt, có vai trò quyết định đến triển vọng phát triển của nền khoa học, công nghệ nói riêng cũng như của Việt Nam nói chung.
Có một loạt vấn đề được xử lý ở đây. Một là vấn đề đổi mới chính sách đào tạo và sử dụng trí thức. Thị trường, với tư cách là nơi phát tín hiệu về nhu cầu nhân lực và là cơ chế phân bổ hiệu quả nguồn nhân lực có một vai trò đặc biệt quan trọng để thực hiện sự đổi mới. Đồng thời chính sách ưu đãi và trọng dụng trí thức của Nhà nước cũng là đòn bẩy rất quan trọng. Hai là vấn đề đào tạo ra những người làm thực hành và có khả năng tiếp nhận, áp dụng và thích ứng nhanh với công nghệ mới. Đối với Việt Nam hiện nay, ưu tiên đào tạo lực lượng này là sự lựa chọn thiết thực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ba là vấn đề phát huy tính sáng tạo, dân chủ trong hoạt động khoa học – công nghệ. Mấu chốt của vấn đề này là ở việc tạo ra khả năng tiếp cận các nguồn thông tin, môi trường cạnh tranh trong nghiên cứu và ứng dụng iếp cận các nguồn thông tin, môi oá. ba ch ứng nhanh với công nghệ mới. Đối với vkhoa học – công nghệ, và các diễn đàn tranh luận thẳng thắn và cởi mở.
Tạo dựng sự gắn kết có hiệu quả giữa hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ với các nhu cầu kinh tế – xã hội. Một vấn đề hiện nay là Nhà nước cần xác định rõ hơn vai trò của mình đối với việc thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D). Nhà nước có thể khuyến khích hoạt động R&D bằng việc hoàn thiện luật sở hữu trí tuệ, ưu đãi thuế, trợ cấp mua các phát minh công nghệ,… Tuy nhiên, điều còn quan trọng hơn ở đây là việc cải thiện môi trường gắn kết có hiệu quả doanh nghiệp với các trung tâm nghiên cứu khoa học – công nghệ. Về nguyên tắc, việc định hình đồng bộ thể chế kinh tế thị trường sẽ đóng vai trò quyết định nhất; đồng thời các chương trình hợp tác R&D của Nhà nước và sự ưu tiên phát triển hạ tầng thông tin quốc gia cũng có vai trò hỗ trợ đáng kể trong việc tạo dung sự gắn kết đó. Việc xây dung các khu công nghệ cao cũng cần được coi là một trong những nội dung quan trọng của chiến lược kết hợp khoa học – công nghệ với sản xuất kinh doanh và công nghiệp hoá.
Đối với Việt Nam, việc phát triển mạnh hoạt động khuyến nông với nội dung chủ yếu là cung cấp kỹ thuật và công nghệ ứng dụng tiên tiến cho nông dân giữ một vai trò rất quan trọng. Mặc dù đã khá phát triển, mạng lưới khuyến nông ở Việt Nam cần gắn bó hơn nữa với các hướng R&D của các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp và cần mở rộng đến các vùng p và cần mởi ới khuyến nông ở Việt Nam cần gắn bó hơn nữa với các hướng R&D của các trung tâm nghiên cứu nôngsâu, vùng xa và miền núi. Nâng cấp đội ngũ cán bộ có đủ năng lực cập nhật công nghệ và kỹ thuật mới cho mạng lưới khuyến nông cũng là một yêu cầu bức xúc hiện nay.
3.2.5 Hoàn thiện hệ thống y tế, chương trình dân số, và các hoạt động bảo trợ xã hội
Hệ thống an sinh xã hội bao hàm rất nhiều nội dung với các đối tượng và khía cạnh xã hội khác nhau. Xuất phát từ các đặc thù và mục tiêu phát triển con người của Việt Nam trong giai đoạn 10 năm tới, có thể thấy ba lĩnh vực trong hệ thống an sinh xã hội cần được đặc biệt quan tâm là y tế và chăm sóc sức khoẻ, chương trình dân số, và hoạt động bảo trợ xã hội.
Đối với hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ và chương trình dân số
Trong giai đoạn tới, đòi hỏi cấp thiết trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ chưa phải là việc phát triển các dịch vụ cao cấp, mà là những nỗ lực mở rộng diện cung cấp và nâng cao chất lượng các dịch vụ cơ bản. Tính ưu tiên của sự lựa chọn này xuất phát từ quan điểm phát triển vì tất cả mọi người và cũng là nhằm giảm thiểu mức độ bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư có thu nhập khác biệt thuộc các vùng và các tầng lớp khác nhau. Các mục tiêu cụ thể phản ánh sự ưu tiên đó là: mở rộng cơ hội để mọi người dân tiếp cận dễ dàng đến y tế dự phòng; bảo đảm cho mọi người dân được chữa các bệnh thông thường; giảm nhanh tỷ lệ trẻ em và phụ nữ có thai bị suy dinh dưỡng; thực hiện tốt chương trình dân số – kế hoạch hoá gia đình.
Định hướng ưu tiên với các mục tiêu trên đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống y tế và chăm sóc sức khoẻ cũng như chương trình dân số – kế hoạch hoá gia đình, tập trung khắc phkhoẻ cũng như chương trình dân sốân tiếp cận dễ dàng đến y tế dự phòng' au. cácản. tínhcác đặc thù và mục tiêu phát triển cog với các đối tượng và khía cạnh xã hội khác nhau. xuiâ ục các nguyên nhân cản trở người dân, nhất là người nghèo và nhân dân ở những vùng sâu, vùng xa và miền núi, tiếp cận đến các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ cơ bản.Tăng mức chi Ngân sách cho lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ, trong đó cần ưu tiên hơn cho:
Những vùng tương đối bị cô lập, ví dụ như các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, các biện pháp phòng bệnh, nhất là một số bệnh dịch như sốt rét, bại liệt, lao, bướu cổ
Việc củng cố và nâng cấp mạng lưới y tế ở thôn, bản và xã.
Các chương trình cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường và vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Cho phép khu vực tư nhân tham gia rộng rãi hơn vào lĩnh vực y tế (với sự đảm bảo những điều kiện nhất định do Nhà nước quy định). Mở rộng phạm vi bảo hiểm y tế, nhất là đối với khu vực ngoài Nhà nước và người nghèo, và nâng cao chất lượng hoạt động bảo hiểm y tế bằng các quy chế rõ ràng và một cơ chế giám sát có hiệu quả.
Tăng cường năng lực bộ máy y tế và chăm sóc sức khoẻ thông qua việc mở rộng hoạt động đào tạo cán bộ y tế, đặc biệt là đào tạo y tá và cán bộ bảo vệ sức khoẻ cho các vùng nông thôn, miền núi. Cùng với hệ thống thông tin đại chúng, cán bộ y tế ở địa phương cũng là nhân tố quan trọng trong mạng lưới thông tin tuyên truyền về việc phòng, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ.
Với mục tiêu đạt tốc độ tăng dân số 1.1-1,2% và quy mô dân số 80 – 90 triệu người vào năm 2010, cần tiếp tục đẩy mạnh chương trình dân số – kế hoạch hoá gia đình thông qua việc mở rộng thông tin, tuyên truyền và giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân về dân số, giới tính và phát triển, và việc cung cấp đầy đủ các biện pháp và phương tiện phòng tránh thai cho mọi người.
Gắn vấn đề dân số với các chương trình và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Xu hướng đô thị hoá và sự di chuyển dân cư, xu hướng giảm dần tỷ lệ trẻ em, tăng dần tỷ lệ người già, xu hướng thay đổi cấu trúc gia đình, phải được coi là những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạch định chính sách và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và phát triển con người.
Đối với các hoạt động bảo trợ xã hội
Việt Nam là một nước còn đông người nghèo/cận nghèo và những người dễ bị tổn thương khác như những người bị tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa, những người vướng vào các tệ nạn xã hội, bị nhiểm HIV và bệnh AIDS. Chính vì vậy, bảo trợ xã hội đối với những nhóm người này là một hoạt động phản ánh rõ nét nhất quan điểm toàn thể về phát triển con người.
Đối với nhóm người nghèo/cận nghèo dễ phải hứng chịu rủi ro thiên tai và các sự cố bất thường, nhiệm vụ đặt ra là ngăn chặn và giảm thiểu mức độ thiệt hại cho họ. Mức hỗ trợ cao hơn là tạo ra các điều kiện để nhóm người nghèo/cận nghèo vượt qua tình trạng đói nghèo và thiếu thốn một cách vững chắc. Các giải pháp ở đây là:
Phát triển hệ thống cảnh báo và giám sát.
Hoàn thiện hoạt động cứu trợ (mở rộng mạng lưới, nâng cấp chất lượng phương tiện và công cụ cứu trợ, bao đảm tính sẵn sàng và tính chuyên môn cao).
Phát triển hệ thống bảo hiểm và xây dựng quỹ phòng chống rủi ro.
Ưu tiên cung cấp các dịch vụ công cộng (giáo dục, y tế, chăm sóc sức khoẻ, hạ tầng giao thông, mạng lưới giao thông công cộng, thuỷ lợi) cho người nghèo, địa phương nghèo thông qua các chương trình xúc tiến việc làm và xoá đói giảm nghèo.
Đối với nhóm người dễ bị tổn thương: Tuy hoàn cảnh khác nhau, song tất cả bọn họ đều có mục tiêu chung cơ bản là bảo đảm cuộc sống cá nhân và hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng. Về nguyên tắc, việc bảo đảm cuộc sống cho nhóm người này phải dựa vào phúc lợi xã hội để duy trì và phát triển các hoạt động chăm sóc và hỗ trợ. Tuy nhiên, cần căn cứ vào đặc điểm của từng nhóm cụ thể để xây dung quỹ phúc lợi với các quy chế sử dụng phù hợp.
Yếu tố quan trọng nhất giúp các nhóm người dễ bị tổn thương hoà nhập cuộc sống cộng đồng là thái độ tích cực và chủ động của xã hội đối với họ. Sự xa lánh, thờ ơ, thái độ kỳ thị, phân biệt sẽ đẩy xa những cá nhân của các nhóm này khỏi cuộc sống cộng đồng. Để khắc phục tình trạng này cần phải:
Tuyên truyền rộng rãi để mọi người trong xã hội nhận thức đầy đủ hơn về hoàn cảnh và đặc điểm của các nhóm dễ bị tổn thương; cổ động lòng khoan dung, tính vị tha của con người.
Thực hiện các chương trình hỗ trợ của Nhà nước, coi đây là những biểu hiện cụ thể để lôi kéo, khuyến khích các thành viên xã hội quan tâm và tham gia các chương trình.
Thành lập các tổ chức xã hội hỗ trợ cho từng nhóm dễ bị tổn thương; tổ chức các phong trào giao lưu, tiếp xúc với các nhóm này để giúp họ thoát khỏi các mặc cảm.
Một yếu tố nữa thúc đẩy quá trình hoà nhập cộng đồng là tạo điều kiện để những người thuộc các nhóm dễ bị tổn thương chứng tỏ được tính hữu dụng và khả năng cống hiến của mình cho xã hội. Điểm mấu chốt ở đây là giúp cho những người còn khả năng lao động có việc làm phù hợp. Để giải quyết vấn đề này, cần mở các lớp dạy văn hoá và các lớp dạy nghề và cần có các chương trình tạo việc làm đặc thù phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh riêng của họ. Riêng đối với một số nhóm người vướng vào các tệ nạn xã hội và bị nhiễm HIV/bệnh AIDS, vấn đề đặt ra còn là ở các giải pháp phòng ngừa và ngăn chặn sự lây lan. Tăng cường giáo dục cộng đồng, đặc biệt là giáo dục cho lớp trẻ và ở nhà trường về mối nguy hiểm này, sử dụng các biện pháp hành chính và pháp luật một cách kiên quyết là những hướng hành động chủ yếu.
3.2.6 Bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững
Những thách thức về môi trường và phát triển bền vững là không nhỏ trong giai đoạn phát triển mới của Việt Nam. Nhà nước có một trách nhiệm đặc biệt về lĩnh vực này. Các mối quan tâm về môi trường cần được lồng ghép trong quá trình ra quyết định phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ động hội nhập quốc tế. Cần nhấn mạnh sự tham gia của nhân dân, nâng cao nhận thức của công chúng về các vấn đề môi trường. Ngoài ra, cũng cần phải thực hiện và thi hành luật pháp về môi trường cũng như tăng cường năng lực quản lý môi trường bền vững cho cán bộ các ngành, các cấp. Cần tăng cường phân bổ ngân sách Nhà nước cho các hoạt động về môi trường, kết hợp với việc tăng cường áp dụng các biện pháp kinh tế trong công tác quản lý môi trường.
gũ cán bộ có đủ năng lực cập nhật công nghệ và kỹ thuật mới cho mạng lưới khuyến nông cũng là một yêu cầu bức xúc hiện nay.
kiên quyết giải ê và bán một bộ phận các doanh nghiệp nhà nước, và việc h phủ về ảo thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế na
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH1808.DOC