Đề xuất thực hiện
Trong quá trình triển khai công tác đổi mới
phương pháp giảng dạy, Khoa nhận thấy cần
thiết có sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị
trong ngành để đạt được hiệu quả cao nhất. Các
đơn vị thuộc Tổng cục Khí tượng Thủy văn sẽ là
những đơn vị ưu tiên nhất với các lý do: Là
những đơn vị đã có quá trình phối hợp chặt chẽ
trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, cũng là
những nhà tuyển dụng tương lai để tiếp nhận
nguồn nhân lực đào tạo. Các đơn vị này sẽ phối
hợp trong các công tác: Triển khai nghiên cứu
khoa học chung, hội thảo hội nghị, đào tạo nâng
cao các cán bộ trong ngành (sau đại học và các
khóa học nâng cao), hỗ trợ thực tập và làm đề tài
tốt nghiệp, chia sẻ dữ liệu và thông tin. Trong
quá trình xây dựng khung chương trình cũng như
đề cương chi tiết các học phần, các nhà tuyển
dụng cần đóng góp các ý kiến, yêu cầu để giảng
viên đưa các kiến thức cần thiết vào trong giảng
dạy, xác định đúng chuẩn đầu ra cho mã ngành
đào tạo phù hợp với vị trí việc làm.
Đổi mới phương pháp giảng dạy, đồng nghĩa
với việc sẽ cần đổi mới cả tư duy và giáo án, giáo
trình, vì vậy, đối với các giảng viên, Trường và
ngành cũng cần có sự quan tâm chú ý, dành thời
gian và có chương trình/chính sách cụ thể để xây
dựng/cập nhật bải giảng cũng như giáo trình.
Song song với việc đầu tư nâng cao năng lực,
việc đầu tư về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị dụng
cụ giảng dạy cũng là điều cấp thiết. Các thiết bị
máy móc thí nghiệm, giáo cụ, internet giảng
đường để phục vụ tương tác thầy và trò là những
ưu tiên trước mắt.
Ngoài ra, không chỉ đổi mới phương pháp
giảng dạy, điều thực sự cần làm là nhà nước cần
có các chính sách cụ thể hơn với ngành Khí
tượng Thủy văn, hiểu được các đặc trưng của
ngành để có các hỗ trợ cần thiết, cho sinh viên an
tâm theo học và xác định tương lai.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 361 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới phương pháp đào tạo thích ứng với nhu cầu nhân lực ngành khí tượng thủy văn tại trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
42 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố phục vụ Hội thảo chuyên đề
BÀI BÁO KHOA HỌC
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP ĐÀO TẠO THÍCH ỨNG VỚI
NHU CẦU NHÂN LỰC NGÀNH KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN,
ĐHQG HÀ NỘI
Công Thanh1, Nguyễn Quang Hưng1*, Mai Văn Khiêm2
1Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN,
2Trung tâm dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, Tổng cục Khí tượng Thủy văn
Email: hungnq@hus.edu.vn
1. Mở đầu
Trong nhiều năm gần đây, thuật ngữ giảng
dạy lấy người học làm trung tâm đang trở nên
quen thuộc, đã được ghi nhận trong nhiều
nghiên cứu của nước ngoài cũng như trong nước.
Đối với giáo dục và đào tạo của Việt Nam,
phương pháp đào tạo lấy người học làm trung
tâm đã được nghiên cứu trong một số các trường
sư phạm một cách nghiêm túc, rất nhiều các
khóa đào tạo đã được xây dựng áp dụng phương
pháp này và đều thu nhận những kết quả khả
quan [1].
Vào những năm đầu thập kỷ 90, Kevin Bary
và Len King (1998) [2] đưa ra các nhận định
tổng kết về dạy học tại New Zealand và Úc, theo
các tác giả thì những người đầu tiên đã tổng hợp
đúc kết và hoàn thiện phương pháp dạy học lấy
người học làm trung tâm là những công trình của
Dewey (1938) [3] và Rogers và Freiberg (1994)
[4]. Những nghiên cứu này đều đề cao nhu cầu,
lợi ích của người học, đề xuất việc để cho người
học lựa chọn nội dung học tập, được tự lực tìm
tòi nghiên cứu, giáo viên sẽ chịu trách nhiệm
hướng dẫn, gợi mở và giúp đỡ người học trong
quá trình lựa chọn mục tiêu cũng như truyền thụ
các kiến thức theo nhu cầu. Chính với các định
hướng như vậy, khác với xu hướng truyền thống
thiết kế chương trình dạy học lấy logic nội dung
môn học và vai trò người dạy làm trung tâm thì
ở phương pháp mới này xu hướng thiết kế
chương trình học tập lại lấy nhu cầu, lợi ích của
người học làm trung tâm. Tuy nhiên, phải khẳng
định rằng như vậy không đồng nghĩa với việc
người dạy sẽ đứng bên rìa của quá trình học tập.
Trong một số nghiên cứu khác, ngoài Dewey
thì Jean Piaget và Lev Vygotsky cũng được vinh
danh như những người tiên phong trong việc
nghiên cứu đánh giá phương pháp lấy người học
tập làm trung tâm. Các nhà nghiên cứu lý luận
này đều có tư tưởng ủng hộ giáo dục tiến bộ, và
Ban Biên tập nhận bài: 11/12/2019 Ngày phản biện xong: 12/12/2019 Ngày đăng bài: 20/12/2019
Tóm tắt: Trong thời kỳ cách mạng công nghệ 4.0 cũng như đối mặt với những thách thức mới về
yêu cầu công việc của ngành Khí tượng Thủy văn, công tác đào tạo nhân lực đòi hỏi có những thay
đổi thích ứng sự thay đổi từ phía nhà tuyển dụng. Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học,
trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN đã nhân thức được những vấn đề đó trong đào tạo
và chủ động tìm tòi, thay đổi phương pháp giảng dạy để đáp ứng với sự phát triển của xã hội.
Phương pháp lấy người học làm trọng tâm được nghiên cứu xem xét và triển khai áp dụng trong
giảng dạy và bước đầu cho những kết quả khả quan. Sinh viên đã thay đổi thái độ với học tập theo
chiều hướng tích cực. Trong quá trình triển khai, một số vấn đề cũng đã được ghi nhận và có những
đề xuất cụ thể để cho công tác đào tạo được hiệu quả hơn nữa.
Từ khóa: Người học làm trọng tâm, đào tạo, Khí tượng Thủy văn, Tổng cục Khí tượng Thủy văn.
43TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố phục vụ Hội thảo chuyên đề
BÀI BÁO KHOA HỌC
họ tin rằng học tập là một quá trình xã hội và
kinh nghiệm. Họ cho rằng một môi trường lớp
học trong đó học sinh có thể học cách suy nghĩ
nghiêm túc và giải quyết các vấn đề trong thế
giới thực là cách tốt nhất để chuẩn bị cho người
học về tương lai. Ngoài ra, Rogers và Freiberg
(1994) [5] đã nhận định sự định hình của mỗi cá
nhân cũng đóng góp vào quá trình học tập lấy
người học làm trung tâm, với câu phát biểu:
“Việc học duy nhất ảnh hưởng đáng kể đến hành
vi (và giáo dục) là tự khám phá”.
2. Phương pháp giảng dạy lấy người học
làm trung tâm
Theo Trầm Bá Hoành (2003) [6], bản chất
quá trình dạy học gồm hai mặt quan hệ hữu cơ:
hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học
của học sinh. Trong lí luận dạy học có những
quan niệm khác nhau về vai trò của giáo viên và
vai trò của học sinh nhưng tựu chung lại có hai
hướng: hoặc tập trung vào vai trò hoạt động của
giáo viên hoặc tập trung vào vai trò hoạt động
của học sinh. Từ rất lâu trong ngành giáo dục của
chúng ta đã có câu khẩu hiệu “Tất cả vì học sinh
thân yêu”, đó cũng là tư tưởng đã xem học sinh
như một trung tâm của mọi hoạt động giáo dục
trong nhà trường. Giáo dục nhà trường là một
quá trình có mục đích, có kế hoạch, được tiến
hành dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của giảng viên.
Thực hiện ý tưởng lấy người học làm trung tâm
không những không hạ thấp vai trò của giáo viên
mà trái lại đòi hỏi giáo viên phải có trình độ cao
hơn nhiều về phẩm chất và năng lực nghề
nghiệp. Rassekh và Vaideneau (1987) [7] viết:
“Với sự tham gia tích cực của người học vào quá
trình học tập tự lực, với sự đề cao trí sáng tạo của
mỗi người học thì sẽ khó mà duy trì mối quan hệ
đơn phương và độc đoán giữa thày và trò. Quyền
lực của giáo viên không còn dựa trên sự thụ động
và dốt nát của học sinh mà dựa trên năng lực của
giáo viên góp phần vào sự phát triển tột đỉnh của
các em Một sáng tạo là một GV biết giúp đỡ
HS tiến bộ nhanh chóng trên con đường tự học.
Giáo viên phải là người hướng dẫn, người cố vấn
hơn là chỉ đóng vai trò công cụ truyền đạt tri
thức”. Tương tự như vậy, trong nghiên cứu của
mình, Đào Hồng Thu (1996) [8] cũng đã đúc kết:
“Khi học sinh đóng vai trò trung tâm trong quá
trình dạy và học thì quá trình này là quá trình
hoạt động tri thức sáng tạo. Ở đây, người thầy là
người hướng dẫn và luôn luôn đi đầu trong mọi
hoạt động sáng tạo của cả quá trình học tập.”
Trong quá trình phát triển, kiểu dạy học lấy
học sinh làm trung tâm ngày càng được chú ý so
với kiểu dạy học lấy giáo viên làm trung tâm. Lê
Khánh Bằng (1994) [9] đã đưa ra so sánh.
Như vậy có thể thấy, học tập lấy học sinh làm
trung tâm có nghĩa là đảo ngược sự hiểu biết
truyền thống của giáo viên về quá trình học tập
và đưa học sinh vào trung tâm của quá trình học
tập. Trong lớp học lấy giáo viên làm trung tâm,
giáo viên là nguồn kiến thức chính. Mặt khác,
trong các lớp học lấy học sinh làm trung tâm, học
tập tích cực được khuyến khích mạnh mẽ. Thông
qua tương tác ngang hàng, tư duy hợp tác có thể
dẫn đến sự phong phú về kiến thức. Khi đặt một
giáo viên gần với cấp độ ngang hàng, kiến thức
và học tập được nâng cao, mang lại lợi ích chung
cho học sinh và lớp học.
Hình 1. Dịch chuyển mô hình giáo dục từ Giáo
viên làm trung tâm sang Người học làm trung tâm
44 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố phục vụ Hội thảo chuyên đề
BÀI BÁO KHOA HỌC
Bảng 1. So sánh giữa phương pháp Người học làm trung tâm và Giáo viên làm trung tâm [9]
!
"" !
""
#$ % #
&'
()*"+
,-.,
/
(0",
/123
4
5
67
4
589
:
:
;$-< 3 312 =
;$-< =,
5> ?@2
&'
A+ 5
A+ 5
B0
C=%"8& D2 B)
9E *
& D
FG"H3"I
JKL
-< 3
L+C+
E
FI
J= -M
NOP
Q*M28RDK> NS7
5
H2< Q*M2
8
T031/ T031/
U)+D U)+D
&
V)+& "+> * D"
K
923=,
%
V+> :-! * D& /
,,
7,-,= )
#" *
+L+2 K
#W3
HL
+L
3. Hiện trạng đào tạo tại Khoa Khí tượng
Thủy văn và Hải dương học
Hiện nay, Khoa cung cấp nhân lực ở trình độ
Đại học và sau đại học trong lĩnh vực khí tượng
thủy văn. Các cơ sở đào tạo về lĩnh vực này với
quy mô lớn trong nước có thể kể đến Đại học
Khoa học Tự nhiên, Đại học Thủy lợi, Đại học
Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, Đại học Tài
nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh,
Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh, Đại
học Cần Thơ, Viện Khoa học Khí tượng Thủy
văn và Biến đổi khí hậu. Riêng với chuyên ngành
Khí tượng thì việc đào tạo hầu hết tập trung tại
trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Khoa Khí
tượng Thủy văn và Hải dương học với bề dày
hơn 20 năm thành lập và hơn 60 năm đào tạo.
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học
thuộc trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
ĐHQG có 25 giảng viên trong đó gồm 2 giáo sư,
11 phó giáo sư, 4 tiến sĩ và 8 thạc sĩ đảm nhận
giảng dạy cho cả ba chuyên ngành Khí tượng,
Thủy văn và Tài nguyên nước và Hải dương học.
Lượng giảng viên nói chung là đang ở mức tối
thiểu theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo
để tổ chức đào tạo. Ngoài ra, các giảng viên
cũng tham gia tích cực trong các nghiên cứu
khoa học thông qua các đề tài cấp trường, cấp
quốc gia hay các đề tài ứng dụng của Bộ, của
tỉnh. Trong thời gian ngắn sắp tới, đội ngũ giảng
viên sẽ gặp khó khăn về số lượng khi các thầy
cô đến tuổi nghỉ hưu, trong khi khoảng cách giữa
lớp các cán bộ sắp về hưu và lực lượng trẻ kế cận
chưa được cân bằng. Để có thể duy trì và đẩy
mạnh công tác đào tạo, việc xây dựng lực lượng
kế cận đang là một nhiệm vụ hàng đầu của các
cơ sở đào tạo, tuy nhiên ngay cả việc tuyển sinh
viên mới ra trường hoặc thu hút các tiến sĩ tốt
nghiệp ở nước ngoài về đều đang gặp nhiều trở
ngại.
Con số sinh viên trung bình của toàn khoa
trong vài năm gần đây là khoảng 300 sinh viên,
và cung cấp cho xã hội khoảng 40 cử nhân ngành
Khí tượng, 30 cử nhân ngành Khoa học và Công
nghệ Biển, và 30 cử nhân ngành Thủy văn Tài
nguyên nước.
Đối với đào tạo sau đại học, mỗi năm có
khoảng 20-30 học viên cao học và 5 nghiên cứu
sinh nhập học. Ngoài đào tạo, các công tác
nghiên cứu khoa học cũng được chú trọng, mỗi
năm các cán bộ Khoa tham gia chủ trì 1-2 đề tài
45TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố phục vụ Hội thảo chuyên đề
BÀI BÁO KHOA HỌC
dự án cấp quốc tế, 7-9 đề tài cấp quốc gia và 3-
5 các đề tài với các Tỉnh. Số lượng công bố của
Khoa mỗi năm đều đặn khoảng 40 bài báo trong
nước và quốc tế, 20 báo cáo khoa học, như vậy
mỗi cán bộ trong khoa có gần 9 công bố trong
một năm, xếp hạng giữa trong số các khoa của
trường Đại học Khoa học Tự nhiên.
Hướng đào tạo của Khoa đã được cập nhật
theo trường bao gồm cả hai hướng ứng dụng và
nghiên cứu khoa học cơ bản, tuy nhiên thực tế
cho thấy cơ sở vật chất của ngành đào tạo Khí
tượng Thủy văn được đầu tư rất hạn chế. Khoa
chưa có phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc gia
nào để phục vụ sinh viên. Các trang thiết bị thí
nghiệm đo đạc hiện trường, thực hành có được
trang bị nhưng không đồng bộ, nhiều trang thiết
bị thiếu điều kiện để bảo quản và bảo dưỡng
thường xuyên theo định kỳ. Các khung chương
trình đào tạo của Khoa nói chung khá đầy đủ các
học phần cơ bản và các học phần chuyên ngành
và đều có các đợt cập nhật, xây dựng mới khung
chương trình liên tục. Thời gian đào tạo theo quy
định là 4 năm đối với bằng cử nhân, sinh viên
cần hoàn thành từ 134 đến 140 tín chỉ để nhận
được bằng, giữa các học kỳ đều có các đợt thực
tập thực tế tại các đơn vị như các trạm quan trắc,
đài Khí tượng Thủy văn, hay Trung tâm dự báo.
Tuy nhiên, theo đánh giá từ phía các nhà tuyển
dụng, còn một số khoảng cách cần xem xét và
chỉnh sửa cập nhật giữa kiến thức giảng dạy với
yêu cầu triển khai công việc thực tế trong ngành.
Trong vài năm gần đây, lượng thí sinh đăng
ký vào các ngành Khí tượng Thủy văn đều giảm
sút, thậm chí có nhiều cơ sở không tuyển được
sinh viên. Điểm chuẩn xét tuyển nhiều trường
Đại học đang ở mức trung bình khá tới trung
bình nhưng vẫn không thu hút được nhiều sự
quan tâm. Đầu vào thấp do đó quá trình đào tạo
cũng càng khó khăn, nhiều sinh viên không xác
định mục tiêu phấn đầu theo ngành ngay từ khi
còn ngồi trên ghế nhà trường, chất lượng đào tạo
bị ảnh hưởng nhiều. Khoa Khí tượng Thủy văn
và Hải dương học cũng không nằm ngoại lệ của
ảnh hưởng này. Có thể nói nguyên nhân của việc
khó tuyển sinh một phần là do nhiều cơ quan
trong ngành dọc đang thực hiện tinh giảm bộ
máy nên nhu cầu tuyển dụng giảm, chế độ chính
sách tiền lương còn thấp so với đặc thù công
việc, các cơ chế chính sách đào tạo ngành Khí
tượng Thủy văn chưa thực sự được quan tâm và
chia sẻ các khó khăn nên rất khó để thu hút học
sinh. Một phần nữa là các thông tin về đào tạo
ngành nghề chưa được truyền bá rộng rãi, nên
việc lựa chọn ngành học ban đầu của các em học
sinh cấp 3 thiếu sự đánh giá đúng mực về ngành
Khí tượng Thủy văn. Ngoài ra, trong quá trình
đào tạo, có nhiều sinh viên chán nản, học tập đối
phó hoặc nghỉ thi lại đại học, hoặc bỏ học vì
chương trình học khá nặng, nhiều môn học vẫn
giảng dạy theo các phương pháp truyền thống, ít
được cập nhật, nặng về lý thuyết, dẫn đến học
sinh học đuối và chán nản rồi bỏ dở. Đặc biệt,
việc giảng dạy tại khoa hiện chỉ đạt hiệu quả thấp
vì lý do thiếu sự đầu tư cơ bản về trang thiết bị
phòng thí nghiệm và các máy móc để sinh viên
có thể thực hành tại trường. Chính các nguyên
nhân này dẫn đến việc khảo sát số sinh viên sau
khi ra trường đi làm theo đúng chuyên ngành của
luôn luôn dưới 40%.
Tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
việc ngành Khí tượng Thủy văn không thu hút
được học sinh, số lượng sinh viên đào tạo ra
trường giảm sút, số lượng sinh viên sau tốt
Hình 2. Số lượng công bố trung bình của các
Khoa trong trường Đại học Khoa học Tự
nhiên, ĐHQGHN
Hình 3. Số lượng công bố trung bình trên đầungười của các khoa trong Đại học Khoa học
Tự nhiên
46 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố phục vụ Hội thảo chuyên đề
BÀI BÁO KHOA HỌC
nghiệp làm đúng chuyên ngành đào tạo lại càng
giảm hơn nữa, dẫn đến việc tình trạng thiếu hụt
nhân sự trong ngành Khí tượng Thủy văn trong
vài năm tới sẽ trở nên trầm trọng. Nhận thức
được vấn đề này, trong hàng loạt các giải pháp
đưa ra như tăng cường công tác quảng cáo tuyển
sinh, tăng cường tham gia nghiên cứu khoa học
để thu hút đầu tư cơ sở hạ tầng cũng như đẩy
mạnh phát triển nhân lực, xiết chặt chất lượng
đào tạo và đánh giá sinh viên, đẩy mạnh hợp tác
với các nhà tuyển dụng, kéo dài các đợt thực tập
chuyên ngành tại các đơn vị trong ngành dọc, và
đổi mới đào tạo, nâng cao chất lượng của sinh
viên. Đổi mới phương pháp đào tạo, thu hút sự
quan tâm chú ý của sinh viên, phát huy tính chủ
động, đánh thức lòng yêu nghề, rèn luyện các kỹ
năng mà vị trí công việc của ngành Khí tượng
Thủy văn đòi hỏi là một trong những việc mà
Khoa có thể chủ động triển khai và thực sự là
một biện pháp đáng quan tâm để có những ghi
chép, đánh giá cụ thể, nhằm phổ biến lại kinh
nghiệm, thay đổi chỉnh sửa sao cho mang lại hiệu
quả nhất.
4. Đổi mới với phương pháp lấy người học
làm trọng tâm
Như đã phân tích ở trên, đây là phương pháp
giảng dạy đặt học sinh, sinh viên vào vị trí trung
tâm của giáo dục. Phương pháp dạy học này bắt
đầu với việc tìm hiểu các môi trường giáo dục
liên quan mà sinh viên xuất phát. Khoa đã triển
khai liên tục các đợt khảo sát về sinh viên khi
nhập học, các thông tin về trường cấp 3, địa
phương của sinh viên đều được thu thập, sau đó
dựa trên các buổi làm việc của giáo viên chủ
nhiệm với các học sinh để hiểu rõ các phương
pháp học, thói quen của từng học sinh trong lớp,
qua đó có thể điều chỉnh cách tiếp cận khi giảng
bài. Rõ ràng, có rất nhiều học sinh khi bước chân
vào giảng đường đại học đều bỡ ngỡ với cách
học tập ở mức đại học, mất một thời gian để làm
quen với cách học tập mới, khi phải chủ động
nhiều hơn, đọc và tìm tài liệu nhiều hơn.
Trong các giờ giảng, Khoa đã yêu cầu các
giáo viên dành một thời lượng nhỏ cuối buổi để
cùng đánh giá mức độ tiếp thu bài giảng của sinh
viên. Việc giảng viên đưa ra các mục tiêu học
chi tiết cho từng giai đoạn và hướng dẫn sinh
viên cùng đánh giá tiến độ học của học viên sẽ
giúp cho người học có được các kỹ năng cơ bản
để học tập. Phương pháp này tạo cho sinh viên
nền tảng cho việc học, sinh viên tự sẽ có trách
nhiệm với việc học của bản thân, tự đánh giá
nhìn nhận được khả năng của mình, tiến độ của
mình và nhận thức được mình cần điều chỉnh
những gì để đạt được mục tiêu môn học.
Với phương pháp này giảng viên đóng vai trò
là người hướng dẫn sinh viên trong quá trình
học. Phương pháp giảng dạy người học là trung
tâm mang đến nhiều lợi ích, trước hết nó loại bỏ
cách dạy và học: Giảng viên đọc giáo án, sinh
viên cắm cúi chép. Việc giảng dạy tại trường
Khoa học Tự nhiên đã được hỗ trợ mạnh mẽ từ
cấp trường nên đa số các phòng đều sử dụng máy
chiếu, các phòng học thông minh còn có những
dụng cụ hỗ trợ tối tân hơn nhiều, do đó, tương
tác giữa thầy vào trò được khuyến khích và có
môi trường để phát triển. Trong giờ giảng, các
giáo viên sẽ liên tục đặt câu hỏi để nắm được khả
năng tiếp thu bài của sinh viên, hoặc đặt các câu
hỏi gợi mở để sinh viên tự tìm hướng ưa thích,
hoặc đặt các câu hỏi để sinh viên tự tư duy đặt
mình vào vị trí của người giảng. Bài giảng lúc
nào rõ ràng sẽ phải chuẩn bị mở hơn, nhưng
ngược lại, không đòi hỏi quá chi tiết, do đó các
giảng viên cũng không nhất thiết phải tăng thời
lượng dành cho chuẩn bị giáo án. Các làm này
cũng khuyến khích sự sáng tạo từ giảng viên và
sinh viên một cách tối đa, đồng thời tạo nên sự
thân thiện giữa giảng viên và sinh viên thông qua
việc tăng cường trao đổi, học hỏi qua lại.
Trước đây, trong rất nhiều giờ học, các sinh
viên mệt mỏi, buồn ngủ, không tập trung, thậm
chí làm việc riêng. Nhưng từ khi các giảng viên
Hình 4. Thầy và trò K56TV trải nghiệm thực tế
môn học Các phương pháp xử lý nước tại Xí
nghiệp kinh doanh nước sạch quận Hoàn Kiếm
47TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố phục vụ Hội thảo chuyên đề
BÀI BÁO KHOA HỌC
triển khai phương pháp người học là trung tâm
thì rõ ràng với việc tương tác liên tục của thầy
giáo đến sinh viên cũng như các câu hỏi kích
thích suy nghĩ của sinh viên đã làm cho lớp học
trở nên nhiệt tình hơn, sinh viên chủ động hơn
trong suốt quá trình khám phá tìm tòi. Việc thay
vì kiểm tra viết bằng những bài tập nhóm có
trình bày cũng tạo cho sinh viên thói quen trình
bày, đặt câu hỏi, tranh luận, phân tích, bảo vệ các
ý kiến sáng tạo của mình. Việc giảng dạy theo
phương pháp này không có nghĩa là với mỗi sinh
viên sẽ có một yêu cầu riêng hay một giáo án
riêng, mà các giáo án sẽ được chuẩn bị ở dạng
mở hơn, kiến thức rộng hơn, và giảng viên sẽ tạo
điều kiện cho mỗi sinh viên có thể tìm tòi hướng
yêu thích của mình và cung cấp những kiến thức
để các bạn khám phá. Giờ học có phân hóa theo
trình độ và năng lực cho các sinh viên, tạo điều
kiện thuận tiện cho các sinh viên bộc lộ và phát
triển tiềm năng của mỗi bạn.
Việc học chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các mối
quan hệ giao tiếp với mọi người xung quanh, rất
rõ ràng thấy nếu người học có cơ hội tiếp xúc với
những người khác, học hỏi, thừa hưởng những
kinh nghiệm đi trước, không chỉ như vậy mà nó
còn làm cho tác phong làm việc linh hoạt, phản
xạ tốt hơn trong nhiều tình huống giao tiếp với
nhiều người khác nhau. . Các môi trường học
cho phép tạo ra các mối tương tác xã hội, tôn
trọng tính đa dạng, khuyến khích lối tư duy linh
hoạt. Qua việc tiếp xúc và hợp tác với giáo viên
hướng dẫn, cá nhân người học sẽ có cơ hội tiếp
thu nhận thức và tư duy phản ánh, từ đó phát
triển trình độ hiểu biết và hoàn thiện bản thân.
Khoa liên tục tổ chức các buổi giao lưu giữa sinh
viên với các cán bộ làm việc trong ngành, tổ
chức các buổi thực địa theo các dự án để sinh
viên tham gia (Hình 4), hoặc các đợt thực tập tại
các trạm quan trắc hoặc các cơ quan trong ngành
dọc Khí tượng Thủy văn.
Cuối cùng, Khoa đã đề nghị các giảng viên
trong quá trình giảng bài đan xen lồng vào những
kiến thức là các hiểu biết về vị trí việc làm, yêu
cầu công việc sau này của sinh viên sau khi ra
trường. Bản chất chiến lược của việc này là để
sinh viên phải biết được sau khi học xong, cần
đạt được những tiêu chuẩn nào, các kiến thức
nào cần làm chủ, các kỹ năng nào phải thành
thạo, để có thể đảm nhận được công việc ở vị trí
mà mình đang mong muốn hướng tới. Đó cũng
chính là cách khơi gợi để sinh viên tạo ra các
mục tiêu cho bản thân và theo đuổi các mục tiêu
đó. Khởi đầu, các mục tiêu ngắn và việc học có
thể sơ sài trong một phạm vi nào đó nhưng qua
thời gian, mức độ hiểu biết của học viên có thể
được xác định thông qua trình tự tìm hiểu, trao
đổi và tích luỹ các tri thức cần thiết.
Quá trình thay đổi hướng giáo dục lấy người
học làm trọng tâm được một số thầy cô trẻ trong
Khoa đang triển khai và có những biểu hiện khả
quan, tích cực đối với sinh viên. Có rất nhiều
sinh viên sau những đợt đi thực tập về có thái độ
tích vực với môn học, ngành học, nhiều bạn sinh
viên thể hiện trong các báo cáo thời gian đi thực
tế lại hiểu bài và thu được nhiều kiến thức hơn là
học trên giảng đường. Các kết quả này đang
được ghi nhận và Khoa sẽ cần phải tìm hiểu về
các phương pháp đánh giá, để triển khai một
cách nghiêm túc và có những nhận định chuẩn
xác, và xác định có triển khai đồng bộ trong toàn
Khoa hay không. Tuy nhiên, để thay đổi các
phương pháp, nhận thức về quá trình dạy học, để
nâng cao chất lượng đầu ra của sinh viên, còn
nhiều phương pháp khác được triển khai đồng
thời.
4. Đề xuất thực hiện
Trong quá trình triển khai công tác đổi mới
phương pháp giảng dạy, Khoa nhận thấy cần
thiết có sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị
trong ngành để đạt được hiệu quả cao nhất. Các
đơn vị thuộc Tổng cục Khí tượng Thủy văn sẽ là
những đơn vị ưu tiên nhất với các lý do: Là
những đơn vị đã có quá trình phối hợp chặt chẽ
trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, cũng là
những nhà tuyển dụng tương lai để tiếp nhận
nguồn nhân lực đào tạo. Các đơn vị này sẽ phối
hợp trong các công tác: Triển khai nghiên cứu
khoa học chung, hội thảo hội nghị, đào tạo nâng
cao các cán bộ trong ngành (sau đại học và các
khóa học nâng cao), hỗ trợ thực tập và làm đề tài
tốt nghiệp, chia sẻ dữ liệu và thông tin. Trong
quá trình xây dựng khung chương trình cũng như
đề cương chi tiết các học phần, các nhà tuyển
dụng cần đóng góp các ý kiến, yêu cầu để giảng
viên đưa các kiến thức cần thiết vào trong giảng
dạy, xác định đúng chuẩn đầu ra cho mã ngành
48 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố phục vụ Hội thảo chuyên đề
BÀI BÁO KHOA HỌC
đào tạo phù hợp với vị trí việc làm.
Đổi mới phương pháp giảng dạy, đồng nghĩa
với việc sẽ cần đổi mới cả tư duy và giáo án, giáo
trình, vì vậy, đối với các giảng viên, Trường và
ngành cũng cần có sự quan tâm chú ý, dành thời
gian và có chương trình/chính sách cụ thể để xây
dựng/cập nhật bải giảng cũng như giáo trình.
Song song với việc đầu tư nâng cao năng lực,
việc đầu tư về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị dụng
cụ giảng dạy cũng là điều cấp thiết. Các thiết bị
máy móc thí nghiệm, giáo cụ, internet giảng
đường để phục vụ tương tác thầy và trò là những
ưu tiên trước mắt.
Ngoài ra, không chỉ đổi mới phương pháp
giảng dạy, điều thực sự cần làm là nhà nước cần
có các chính sách cụ thể hơn với ngành Khí
tượng Thủy văn, hiểu được các đặc trưng của
ngành để có các hỗ trợ cần thiết, cho sinh viên an
tâm theo học và xác định tương lai.
Tài liệu tham khảo
1.
nguoi-hoc-lam-trung-tam-o-trung-tam-ngoai-ngu-tin-hoc-3249.html
2. Barry, K., King, L., (1998), Beginning teaching and beyond. 3rd ed. South Melbourne: Cen-
gage Learning, pp. 686.
3. Dewey, J., (1938), Experience & Education. New York, NY: Kappa Delta Pi, pp. 91.
4. Rogers, C.R., Freiberg, H.J., (1994), Freedom to Learn. Merrill, pp. 406.
5. Cari, C., Pamela, D., d’Angelo, S., (2014), Pedagogies for Student-Centered Learning: Online
and On-Ground. Augsburg Fortress Publishers, ô. 126.
6. Trần Bá Hoành (2003), Tạp chí Thông tin khoa học giáo dục, 96/2003, 1.
7. Rassekh, S., Vaideneau, G., (1987), Les contenus de I'éducation - Perspectives mondiales d'ici
a I'an 2000. UNESSCO, Paris, pp. 311.
8. Đào Hồng Thu (1996), Về vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm, T/T Công trình khoa
học, ĐHBK Hà Nội, 17-23.
9. Lê Khánh Bằng (1994), Tài liệu hướng dẫn nghiên cứu và tham khảo về phương pháp dạy học
ở đại học và công nghệ dạy học.
INNOVATING EDUCATION METHOD TO ADAPT TO THE HUMAN
RESOURCES NEEDS OF METEOROLOGY AND HYDROLOGY AT
HANOI UNIVERSITY OF SCIENCE, VNU
Cong Thanh1, Nguyen Quang Hung1*, Mai Van Khiem2
1Faculty of Meteorology, Hydrology, and Oceanography, VNU University of Science,
Vietnam National University, Hanoi
2National Centre for Hydro-Meteorological Forecasting,
Viet Nam Meteorological and Hydrological Administration
Abstract: During the 4.0 technology revolution period as well as facing new challenges in the
work requirements of the Meteorology and Hydrology industry, the education task also requires up-
dated changes to keep up with the new challenge from employers. Faculty of Meteorology, Hydrol-
ogy and Oceanography, VNU University of Science has been aware of this and actively exploring,
changing consciousness and teaching methods to respond to transformation of society. The learner-
centered approach has been studied, tested and implemented in teaching and has begun to produce
positive results. Students have changed their attitude to learning in a positive way. During the im-
plementation process, a number of issues were also noted and specific proposals were made to make
the training more effective.
Keywords: Learners-centered, Education, Hydrometeorology, Vietnam Meteorological and Hy-
drological Administration.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_moi_phuong_phap_dao_tao_thich_ung_voi_nhu_cau_nhan_luc_n.pdf