MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã và đang là một nguồn thu quan trọng, tập trung của ngân sách nhà nước, là phương tiện vật chất để nhà nước hoạt động và thực hiện chức năng quản lý của mình. Trong những năm qua chính sách và cơ chế quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có những thay đổi lớn và đạt được những kết quả quan trọng cả về yêu cầu thu ngân sách và quản lý điều tiết vĩ mô trong quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở nước ta nói chung, quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan nói riêng bộc lộ nhiều bất cập như: hệ thống chính sách và cơ chế quản lý chưa đồng bộ và chưa theo kịp với sự phát triển của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa ngày càng gia tăng; nạn buôn lậu và gian lận thương mại để trốn thuế còn tồn tại phổ biến, tình trạng chiếm dụng tiền thuế gây nợ đọng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu lớn và kéo dài chưa được xử lý triệt để; hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chính sách thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu chưa được chú trọng đúng mức gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trước đòi hỏi bức xúc của thực tế, đồng thời là người trực tiếp tham gia xây dựng chính sách và quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan, tác giả lựa chọn đề tài "Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của ngành Hải quan hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
117 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1924 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của ngành Hải quan hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chi cục cửa khẩu, cần phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ mô hình tổ chức bộ máy cụ thể phù hợp với từng loại hình cửa khẩu. Đồng thời, phải tính toán chặt chẽ, khoa học để xác định biên chế, bố trí công chức phù hợp với yêu cầu từng khâu nghiệp vụ. Đối với các cửa khẩu lớn, khối lượng công việc nhiều thì có thể thành lập các đội như: Đội tiếp nhận tờ khai; Đội kiểm tra thuế (bao gồm cả kiểm tra thực tế hàng hoá - nếu có); Đội giám sát; Đội thuế và phúc tập hồ sơ hải quan. Trên tinh thần mỗi tổ chức, mỗi công chức hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, có sản phẩm cụ thể. Với sự thay đổi về cơ cấu tổ chức theo hướng kết hợp giữa quản lý theo đối tượng và theo chức năng trên sự đảm bảo được sự tập trung thống nhất trong hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra thực hiện các khâu nghiệp vụ trong quy trình thủ tục hải quan, giảm bớt các khâu đầu mối, tinh gọn bộ máy ở một số các đơn vị Hải quan địa phương, góp phần khắc phục tình trạng thừa cán bộ lãnh đạo, thiếu công chức thừa hành, từ đó tăng cường cán bộ làm trực tiếp tại các cửa khẩu.
Đổi mới công tác xây dựng đội ngũ cán bộ:
Để đảm bảo nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác quản lý thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách thuế phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế cũng như đáp ứng các yêu cầu của xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới nói chung, hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA nói riêng thì công tác xây dựng đội ngũ cán bộ thuế hải quan phải nhằm đạt được mục tiêu: Phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ thuế, giỏi về kế toán, thành thạo kỹ năng làm việc, kỹ năng quản lý, có trình độ tin học và ngoại ngữ, với phẩm chất đạo đức tốt và có tinh thần phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân cao; đội ngũ cán bộ lãnh đạo phải có trình độ, năng lực chỉ đạo điều hành có phẩm chất đạo đức tốt và có khả năng đoàn kết tập hợp anh em. Để công tác xây dựng đội ngũ cán bộ thuế hải quan đạt mục đích nêu trên, luận văn đề xuất một số giải pháp sau:
Về công tác quản lý cán bộ: Cần phải quy định rõ trách nhiệm của từng loại cán bộ trên từng vị trí công tác, đánh giá cán bộ chủ yếu căn cứ vào kết quả công tác, vào số lượng và chất lượng công việc đươc giao, coi trọng phẩm chất chính trị, đạo đức, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm.
Về công tác đào tạo: Cần đào tạo theo hướng chuyên môn hóa sâu theo từng chức năng công việc, phù hợp với cơ chế quản lý đối tượng nộp thuế tự khai, tự tính, tự nộp thuế; trang bị kiến thực đầy đủ về lý luận và thực tiễn, đảm bảo cán bộ có năng lực tốt trong việc đánh giá, phân tích khả năng thực thi của chính sách thuế làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách cũng như đề xuất các biện pháp quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Đào tạo lực lượng cán bộ thực sự giỏi, cán bộ đầu ngành, nhiều kinh nghiệm quản lý, để đảm đương công việc mũi nhọn và các lĩnh vực quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phức tạp, đồng thời đáp ứng yêu cầu của công tác đào tạo cán bộ thuế Hải quan trong quá trình hội nhập, cụ thể:
+ Nâng cấp chương trình và hệ thống giáo trình, tài liệu đào tạo, bảo đảm nâng cao chất lượng cả về kiến thức chuyên môn và kiến thức sư phạm; tài liệu, giáo trình đào tạo phải dễ hiểu, dễ tra cứu và có thể tự học. Đặc biệt, là mở rộng các loại tài liệu, giáo trình nói về kinh nghiệm quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đào tại giỏi cả về chuyên môn nghiệp vụ thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu, cả về ngoại ngữ, thu hút các cán bộ giỏi đầu ngành vào công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
+ Nâng cấp trường Cao đẳng Hải quan thành Học viện Hải quan, ngoài nhiệm vụ đào tạo cơ bản, đào tạo chuyên sâu, đào tạo nâng cao đối với các cán bộ hải quan còn đào tạo cho các cán bộ ngoài ngành Hải quan thậm chí cả các cán bộ của các nước trong khu vực ASEAN.
+ Giành nguồn kinh phí thỏa đáng để đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo hướng chuyên sâu bao gồm cả đào tạo trong nước và ngoài nước.
Về phân bổ nguồn lực cán bộ: Cần tập trung phân bổ vào các công việc chính như: Thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền và dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế, thu hồi nợ đọng và cưỡng chế thuế, tin học và xử lý thông tin. Đây là những khâu công việc chính nhưng thực tế lực lượng cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ, việc phân bổ phải dựa trên cơ sở đánh giá khảo sát thực tiễn về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề nghiệp của cán bộ từ đó bố trí công việc phù hợp với trình độ, ngành nghề đào tạo, sở trường công tác của cán bộ, công chức. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam phải cam kết thực hiện các quy định trong khuôn khổ tham gia AFTA và tiến tới gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), để hạn chế gian lận trong vấn đề khai báo trị giá tính thuế, xuất xứ hàng hóa, ngoài những biện pháp đã đề cập như hoàn thiện môi trường pháp lý về kiểm tra sau thông quan, xác định trị giá tính thuế … thì vấn đề bố trí đại diện Hải quan Việt Nam ở nước ngoài để kiểm soát trị giá tính thuế, xuất xứ của hàng hóa… đảm bảo mối liên hệ thông tin chặt chẽ và kịp thời giữa trong nước và ngoài nước cần được đặt ra khi bố trí cán bộ.
Về bổ nhiệm cán bộ: Ngoài những tiêu chuẩn quy định đối với một cán bộ được xem xét đề bạt, bổ nhiệm làm chức vụ lãnh đạo, để khắc phục những mặt còn tồn tại hiện nay như chạy chức, chạy quyền… dẫn đến tình trạng cán bộ lãnh đạo không đủ trình độ, năng lực để đảm được công việc; cần phải mạnh dạn thực hiện quy chế bổ nhiệm có thời hạn khoảng 3 năm, hết thời hạn 3 năm giữ chức vụ lãnh đạo nếu người được đề bạt không hoàn thành tốt nhiệm vụ, không đoàn kết được quần chúng, không có uy tín với quần chúng thuộc cấp thì thực hiện miễn nhiệm chức vụ lãnh đạo; nếu cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, có uy tín đối với quần chúng thì thực hiện bổ nhiệm lại để từ đó hình thành nên tâm lý “có lên, có xuống” là chuyện bình thường trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ; khắc phục được tâm lý, ý tưởng phấn đấu lên “nghề quan” sau đó an phận không chịu phấn đấu mà chỉ lo quan hệ để củng cố vị trí đã dành được, thậm chí còn tìm cách để chạy tiếp lên vị trí lãnh đạo cao hơn.
Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, không nên để một người giữ chức vụ lãnh đạo quá lâu, dễ có điều kiện tạo nên những “ê kíp” không vì mục đích làm việc có hiệu quả mà vì mục đích tạo bè phái để làm ăn, tiêu cực theo kiểu “kẻ tung người hứng” để trục lợi cho cá nhân.
Vấn đề tuyển dụng cán bộ: cần phải công khai hóa chỉ tiêu, tiêu chuẩn được xét tuyển và tổ chức thi tuyển một cách công khai, đảm bảo khách quan vô tư, tránh tình trạng tổ chức một cách hình thức, chủ yếu để giải quyết nội bộ hoặc cho những người thân quen. Đây là một trong những nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến tình trạng tiêu cực trong vấn đề tuyển dụng cán bộ hiện nay.
3.2.3. Tăng cường chống gian lận thương mại
- Về sơ hở của chính sách thuế:
Phải tiến hành xây dựng biểu thuế theo hướng đánh thuế theo bản chất, tính chất lý, hoá của sản phẩm hàng hoá chứ không thể như hiện nay vừa đánh theo bản chất vừa theo mục đích sử dụng của hàng hoá nhập khẩu; cần xem xét lại chế độ ưu đãi về ân hạn nộp thuế, nên chăng đối với các doanh nghiệp hoạt động có kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu đơn thuần thì phải đóng thuế ngay tránh tình trạng như hiện nay cho nợ thuế gây thất thu thuế hàng ngàn tỷ đồng như hiện nay.
- Tính kém ý thức tự giác của đối tượng nộp thuế:
Cần phải tăng cường hoạt động của lực lượng kiểm tra sau thông quan cả về số lượng lẫn chất lượng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất việc gian lận qua khai báo giảm số lượng, chất lượng của hàng hoá nhập khẩu nhằm trốn thuế; kiểm tra kỹ, có thể kiểm tra tới 100% hàng hoá theo loại hình hàng đổi hàng.
- Ngăn ngừa tư tưởng thoái hoá biến chất của công chức hải quan khi thừa hành nhiệm vụ:
Cần tăng cường công tác giáo dục thường xuyên đối với cán bộ đi đôi với việc bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn chuyên sâu cho họ, làm cho họ thấu hiểu họ phải làm gì, trách nhiệm đến đâu khi để xảy ra sai sót. Tăng cường trang bị máy móc thiết bị hiện đại trong khâu kiểm tra thực tế hàng hoá.
- Về gian lận thông qua biên giới không được kiểm soát:
Nhà nước cần qui định cho lực lượng Hải quan được phép kiểm tra tất cả hàng hoá nhập khẩu vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam, vấn đề này phù hợp thông lệ quốc tế đối với doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá chỉ có hai lực lượng được quyền kiểm tra doanh nghiệp đó là cơ quan thuế và cơ quan hải quan; hạn chế và đi đến xoá bỏ cơ chế thanh toán bằng tiền mặt trong mua bán hàng hoá...
- Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra:
Việc chấp hành chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là đặc biệt quan trọng phù hợp với Luật Hải quan và quản lý hải quan hiện đại. Đây là một nội dung không thể thiếu trong công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Bởi vì, chỉ có qua thanh tra kiểm tra mới giúp phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; cũng chỉ qua thanh tra, kiểm tra mới phát hiện ra những sơ hở, bất cập trong chính sách dễ tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng nộp thuế lợi dụng để lách thuế, trốn thuế. Qua nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác phòng chống vi phạm chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, đặc biệt là thực trạng hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá cho thấy: thủ đoạn gian lận có tính chất bao trùm của gian thương là triệt để lợi dụng những khiếm khuyết, sơ hở trong hệ thống cơ chế, chính sách đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cũng như sự yếu kém, bất cập trong công tác phòng chống. Điều đó cho thấy, nếu cơ chế và chính sách đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được xây dựng hợp lý sẽ góp phần chống buôn lậu và gian lận thương mại, ngược lại chỉ khi nào thực hiện tốt công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại sẽ tác động tích cực đến việc thực thi chính sách đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội hỗ trợ cho cơ quan Hải quan và đối tượng nộp thuế thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của mình:
Tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thu được góp phần phục vụ cho lợi ích xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, giáo dục, y tế và đầu tư phát triển kinh tế. Vì vậy, các ngành, các cấp chính quyền, các cơ quan, đơn vị và các cá nhân phải có nghĩa vụ hỗ trợ cho các cơ quan Hải quan và đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thực hiện đúng các quy định của chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đảm bảo thu đúng, thu đủ, nộp kịp thời vào ngân sách nhà nước. Theo quy định hiện hành của pháp luật thì các tổ chức, cá nhân biết hoặc phát hiện các trường hợp vi phạm pháp luật mà không tố cáo, ngăn chặn cũng là tiếp tay và vi phạm pháp luật, nên các tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm cung cấp thông tin và phối hợp với cơ quan Hải quan trong việc thu thuế và xử lý vi phạm về thuế để đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của các tổ chức, cá nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá.
3.2.4. Tăng cường và hiện đại hoá cơ sở vật chất của ngành Hải quan
- Đẩy mạnh tin học hoá các qui trình quản lý thu thuế xuất nhập khẩu:
Trong thời đại ngày nay, khi khoa học công nghệ mà đặc biệt là công nghệ tin học đã đạt trình độ phát triển cao, để tiến tới trình độ quản lý tương đồng với các nước trong khu vực ASEAN thì hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế phải là nội dung trọng tâm của cải cách hành chính thuế. Việc áp dụng một hệ thống quản lý thu thuế phải là nội dung trọng tâm của cải cách hành chính thuế. Việc áp dụng một hệ thống quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được tin học hoá sẽ giúp cho ngành thuế hải quan giảm bớt gánh nặng công việc, hợp lý hoá các quy trình thủ tục, giúp cơ quan thuế Hải quan tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực quan trọng góp phần làm tăng tính hiệu quả của quản lý thuế. Các thành tựu công nghệ thông tin cần được áp dụng vào quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm đẩy sự tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế, tăng cường hiệu quả công tác xử lý thông tin về xuất khẩu, nhập khẩu, phát hiện nhanh các trường hợp vi phạm nhằm hạn chế tình trạng trốn tránh thuế.
Hiện nay, khi Đảng và Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nên số lượng các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá ngày càng lớn, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá diễn ra rất đa dạng dưới nhiều hình thức và quy mô ngày càng phát triển, biên chế ngành Hải quan không thể tăng lên mãi, trong khi việc quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bằng thủ công thì hiệu quả rất thấp. Vì vậy, chỉ có đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ tin học thì mới nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế và mới phục vụ tốt nhất cho đối tượng nộp thuế khác hàng của cơ quan thuế Hải quan; đồng thời phù hợp với xu hướng quản lý thuế trên thế giới và khu vực. Để triển khai việc áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong thời gian tới cần tập trung vào các nội dung sau:
+ Xây dựng hệ thống thu thập và xử lý dữ liệu trên tờ khai hải quan, từ khâu đăng ký tờ khai, tính thuế, kiểm hoá đều được cập nhật vào máy tính tại chi cục hải quan cửa khẩu, định kỳ hàng ngày được truyền về cục Hải quan tỉnh, thành phố, sau đó tổng hợp và tuyên truyền lên Tổng cục Hải quan để phân tích, tổng hợp báo cáo theo yêu cầu lãnh đạo Tổng cục Hải quan, Bộ Tài Chính, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan.
+ Xây dựng hệ thống quản lý đối tượng nộp thuế và theo dõi nợ thuế. Chức năng chủ yếu của hệ thống này là: tính thuế, ra thông báo thuế, các quyết định điều chỉnh thuế, tổng hợp danh sách doanh nghiệp bị cưỡng chế thuế, theo dõi tình hình nợ thuế của từng doanh nghiệp và in các báo cáo kế toán theo chế độ kế toán thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thông qua việc đăng ký thuế, cấp mã số thuế để quản lý toàn bộ số lượng các đối tượng nộp thuế theo từng lĩnh vực quản lý.
+ Xây dựng hệ thống quản lý thông tin vi phạm hải quan đảm bảo cập nhật và cung cấp thông tin kịp thời về quá trình chấp hành pháp luật của doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu, là kênh thông tin giúp cho Chi cục trưởng Hải quan ra quyết định hình thức kiểm tra hàng hoá.
+ Xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu giá tính thuế đảm bảo quản lý thu thập thông tin chi tiết về hàng hoá đặc biệt là những thông tin liên quan đến việc xác định trị giá của hàng hoá để xây dựng một ngân hàng dữ liệu về giá tính thuế, phục vụ cho yêu cầu tính thuế theo GATT tại các Chi cục Hải quan.
Trên cơ sở các nội dung nêu trên, nếu được triển khai kịp thời sẽ đảm bảo quản lý được số lượng các đối tượng nộp thuế, phục vụ cho công tác thanh tra kiểm tra đối tượng nộp thuế, xử lý thông tin để xác định các khoản nộp ngân sách, xác định nợ và tính phạt chậm nộp thuế, quản lý được ấn chỉ, đảm bảo cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho đối tượng nộp thuế qua tin học, quản lý được trị giá tính thuế…
- Đầu tư trang thiết bị hiện đại để giám định kỹ thuật hàng hoá :
Theo quy định của Biểu thuế nhập khẩu hiện hành thì có rất nhiều các hàng hóa nhập khẩu đòi hỏi phải thông qua công tác giám định về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật thì mới đảm bảo việc áp mã số thuế được chính xác. Sở dĩ phải trưng cầu giám định lượng hàng hoá lớn như vậy là vì hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng đa dạng về mẫu mã, chủng loại, được sản xuất bằng công nghệ hiện đại. Trong khi đó trình độ nghiệp vụ kiểm tra hàng hoá cũng như việc trang bị máy móc thiết bị cho công tác kiểm tra của Hải quan còn nhiều thiếu thốn. Ở tầm vĩ mô chưa có qui định cơ quan cụ thể nào có quyền quyết định kết quả cuối cùng. Để khắc phục tình trạng trên, hạn chế thất thu thuế nhập khẩu qua công tác giám định, Tổng cục Hải quan cần trang bị kỹ thuật hiện đại đáp ứng được yêu cầu giám định hàng hoá và các cơ quan chức năng cần sớm có quy định thống nhất về công tác giám định, tăng cường quản lý công tác giám định, kiên quyết rút giấy phép hoạt động của những doanh nghiệp chưa đủ điều kiện. Có như vậy việc giám định hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu mới đạt được chuẩn mực và yêu cầu đặt ra.
3.2.5. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát
- Tăng cường chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới:
Tình hình buôn lậu thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong giai đoạn hiện nay đang diễn biến cực kỳ phức tạp cả về mặt không gian, thời gian và chủng loại hàng hoá với nhiều phương thức và thủ đoạn cực kỳ tinh vi, gây nên những hậu quả hết sức nghiêm trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội và đạo đức, làm tổn hại, giảm sút lòng tin của nhân dân vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, phá hoại nền sản xuất trong nước, gây rối loạn thị trường xã hội, tâm lý sùng bái hàng ngoại, làm thoái hoá biến chất một số lượng không nhỏ các cán bộ, đảng viên làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước; tạo nên những nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự phát triển đất nước nói chung, làm giảm sút hiệu quả công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng. Để tăng cường công tác chống buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới khi Việt Nam tham gia hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA cần thiết.
+ Xây dựng một chiến lược đầu tư phát triển kinh tế, chăm lo đời sống việc làm của nhân dân tại các vùng cửa khẩu biên giới và ven biển. Thực tế hoạt động buôn lậu hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thời gian qua cho thấy, tuy hàng lậu có mặt khắp thị trường nội địa nhưng những địa bàn trọng điểm nơi hàng lậu đi qua thường không nhiều và chỉ tập trung ở một số cảng và vùng biển bãi ngang như: cảng Cửa Lò - Nghệ An, cảng Quy Nhơn - Bình Định và một số khu vực trên các tuyến biên giới phía Bắc, miền Trung và miền Tây Nam Bộ như: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang. Mặc dù trong thời gian qua Nhà nước đã có chính sách ưu tiên phát triển những khu vực kinh tế cửa khẩu, các khu khuyến khích thương mại và đầu tư đang được triển khai ở Móng Cái, Quảng Ninh; Lao Bảo tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên thực tế đời sống của nhân dân các vùng biên giới này vẫn còn gặp nhiều khó khăn, một thực tế cho thấy hoạt động buôn lậu hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được diễn ra chủ yếu do sự tiếp tay tham gia tích cực của nhân dân các vùng biên giới bằng phương thức vận chuyển thuê qua đường mòn, cánh gà, vì họ không có việc làm hoặc tham gia vận chuyển hàng lậu thuế kiếm được nhiều tiền hơn so với tham gia sản xuất. Đây là một thực tế không thể khắc phục được ngay trong một sớm một chiều mà cần phải có một chiến lược cụ thể cho trước mắt và lâu dài.
+ Làm tốt công tác tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng nhân dân để họ thấy được hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội do buôn lậu và gian lận thương mại gây ra, làm cho đất nước suy yếu về kinh tế dẫn đến suy yếu về chính trị, tạo điều kiện cho kẻ địch, bọn phản cách mạng gây bạo loạn; tuyên truyền cho nhân dân vùng biên thấy được trách nhiệm của họ là không tiếp tay, không bao che dung túng cho buôn lậu và gian lận thương mại, phải mạnh dạn tố giác và giúp đỡ các cơ quan chức năng chống buôn lậu; với các hình thức tuyên truyền như: đài phát thanh, truyền hình, báo chí, hội nghị, phát động phong trào.
+ Tăng cường hiệu lực của cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong cuộc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại, bọn buôn lậu, gian lận thương mại đã làm tổn hại đến thanh danh của các cơ quan nhà nước, làm sa đoạ phẩm chất một số cán bộ dẫn đến tiếp tay và tham gia trực tiếp buôn lậu, gian lận thương mại; phải tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thường xuyên trong nội bộ các cơ quan Nhà nước để phát hiện và uốn nắn kịp thời những sai phạm của cán bộ, công chức nhà nước, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Từ những kết quả đạt được trong đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại cho thấy đa số những vụ vi phạm lớn như: Tân Trường Sanh, Đỗ Thị Mỹ Phượng hay ở Hang Dơi tỉnh Lạng Sơn…sở dĩ tồn tại và hoạt động được trong một thời gian dài là do sự tiếp tay, bao che của một số cán bộ trong cơ quan nhà nước như: Hải quan, Biên phòng và chính quyền địa phương. Vì vậy, làm trong sạch nội bộ để tăng cường hiệu lực của cơ quan thực thi pháp luật trong đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
+ Cụ thể hoá trách nhiệm của các cơ quan trong công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Theo qui định hiện hành cơ quan Hải quan được giao nhiệm vụ phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới trong địa bàn hoạt động hải quan, ngoài phạm vi địa bàn hoạt động hải quan, cơ quan Hải quan có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan thực hiện các biện pháp phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới.
Thực tế cho thấy khi Hải quan chủ trì cùng các lực lượng phối hợp như: Bộ đội biên phòng, Công an, Chính quyền địa phương tăng cường công tác chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới trong phạm vi địa bàn hoạt động của hải quan nên đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, hàng trăm vụ buôn lậu hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu với trị giá lên tới hàng trăm tỷ đồng đã bị bắt giữ và xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, do lực lượng mỏng, địa bàn buôn lậu trải dài dọc tuyến biên giới nên số vụ buôn lậu hàng hoá được bắt giữ là rất ít so với thực tế hàng hoá nhập lậu. Trong khi đó hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu nhập lậu khi đã trốn tránh được sự kiểm tra, kiểm soát của các lực lượng chống buôn lậu tại biên giới cửa khẩu đưa vào nội địa, thì được bày bán công khai trên khắp thị trường cả nước từ thành phố, thị xã cho đến các vùng nông thôn mà không bị xử lý triệt để, kể cả đối với các mặt hàng quy định phải dán tem nhập khẩu. Vấn đề đặt ra là trách nhiệm của các lực lượng như Quản lý thị trường, Thuế vụ, Công an trên thị trường nội địa ra sao? trước sự tràn ngập của hàng hoá nhập lậu được bày bán công khai.
Đây là một trong những vấn đề mấu chốt dẫn đến tình trạng buôn lậu hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu vẫn tồn tại tràn lan như hiện nay. Bởi vì, nếu giải quyết triệt để được tình trạng này, hàng hoá nhập lậu không có đất dung thân, không có nơi tiêu thụ tất yếu tình trạng buôn lậu hàng hoá tại các cửa khẩu và vùng biên giới sẽ giảm. Để góp phần khắc phục tình trạng này cần quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm và cơ chế phối hợp của các lực lượng như Hải quan, Quản lý thị trường, Thuế vụ, Công an khi xử lý những hàng hoá nhập lậu được bày bán, cất giấu trên thị trường nội địa.
+ Hoàn chỉnh hệ thống chính sách pháp luật, bởi vì một trong những nguyên nhân của tình trạng buôn lậu gian lận thương mại như hiện nay là do những khiếm khuyết sơ hở và bất cập trong hệ thống chính sách pháp luật. Trước mắt cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế như Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Đầu tư, Luật Hải quan và hệ thống luật Hình sự, liên quan đến việc điều chỉnh các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá.
+ Phải tập trung vào những đối tượng trọng điểm và buôn lậu có tổ chức. Thực tiễn hoạt động chống buôn lậu ở các cửa khẩu biên giới trong thời gian qua cho thấy số lượng buôn lậu hàng hoá bị bắt giữ tại khu vực cửa khẩu và dọc tuyến biên giới là rất lớn nhưng những đối tượng bị bắt giữ chủ yếu là những người vận chuyển thuê để kiếm tiền công, kết quả đạt được chỉ phản ánh phần nổi, phần ngọn của vấn đề buôn lậu. Vấn đề đặt ra là ai là người đứng đằng sau họ? Họ vận chuyển thuê cho ai và hàng hoá được tập kết đem đi tiêu thụ ở đâu? nếu không giải quyết được vấn đề này thì công tác chống buôn lậu hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu chưa thể cải thiện được tình hình do phần chìm, phần gốc của vấn đề chưa được giải quyết. Vì vậy, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chống buôn lậu như Hải quan, Quản lý thị trường, Thuế vụ, Công an trong vấn đề triệt phá những đối tượng buôn lậu trọng điểm chuyên nghiệp, những đường dây hoạt động có tổ chức.
- Tăng cường kiểm tra kiểm soát, đặc biệt là kiểm tra trị giá tính thuế khi Việt Nam gia nhập AFTA:
Khi gia nhập AFTA, Việt Nam phải thực hiện cam kết quốc tế trong đó có cam kết thực hiện xác định trị giá Hải quan theo quy định của Tổ chức Thương mại thế giới WTO/GATT, theo đó trị giá tính thuế của hàng nhập khẩu được xác định theo trị giá giao dịch thực tế của lô hàng hoặc là giá mà với mức giá ấy hàng hoá đó hoặc hàng hoá tương tự được bán trong kỳ kinh doanh bình thường với các điều kiện cạnh tranh không hạn chế và được xác định tuần tự theo các phương pháp xác định trị giá của Hiệp định GATT.
Đây là vấn đề hoàn toàn mới, lần đầu tiên được đưa vào thực hiện ở Việt Nam, trong khi chưa có một hệ thống văn bản pháp quy hoàn chỉnh quy định việc xác định trị giá tính thuế theo Hiệp định. Đội ngũ cán bộ Hải quan và cộng đồng doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm thực tế trong xác định trị giá theo các nguyên tắc của Hiệp định, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác xác định giá còn chưa đồng bộ và đầy đủ, trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp còn ở mức hạn chế, sức ỳ và tâm lý ngại thay đổi của một số cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp còn tồn tại, mà đặc biệt là tình trạng gian lận thuế do việc khai thấp trị giá phổ biến nhưng chưa có hệ thống các biện pháp kiểm tra tính trung thực trong khai báo của doanh nghiệp. Đây là những mặt tồn tại lớn cần được khắc phục khi Việt Nam tham gia AFTA. Nếu không tình trạng gian lận thông qua việc khai thấp trị giá nhằm trốn thuế sẽ không giảm mà thậm chí còn tăng lên.
+ Đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống kiểm tra sau thông quan đủ mạnh từ Tổng cục đến Cục Hải quan địa phương. Để thực hiện tốt Hiệp định trị giá Hải quan, đảm bảo chống gian lận thương mại hiệu quả, cần thiết phải xây dựng hệ thống kiểm tra kiểm soát hải quan chặt chẽ, đồng bộ ở tất cả các khâu: kiểm tra trước, kiểm tra trong và kiểm tra sau thông quan bao gồm: kiểm tra hồ sơ khai báo khi làm thủ tục hải quan, kiểm tra thực tế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và kiểm tra sau thông quan, trong đó kiểm tra sau thông quan là khâu quyết định đảm bảo khả năng thực thi Hiệp định trị giá WTO/GATT. Chỉ thực hiện việc kiểm tra sau thông quan mới có thể thẩm định được tính chính xác, trung thực của nội dung các chứng từ mà chủ hàng hoặc người được uỷ quyền khai, xuất trình, nộp cho cơ quan hải quan, từ đó ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, gian lận thuế, vi phạm chính sách quản lý đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Vì vậy ,việc này không thể thực hiện được ngay toàn bộ đối với các hồ sơ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu khi doanh nghiệp khai báo, đăng ký làm thủ tục hải quan do yêu cầu thông quan nhanh hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Áp dụng hệ thống Kiểm tra sau thông quan sẽ đảm bảo đẩy nhanh quy trình thủ tục hải quan, rút ngắn thời gian thông quan hàng hoá, đảm bảo thu đủ thuế và khuyến khích ý thức tự giác chấp hành pháp luật của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa có một hệ thống kiểm tra sau thông quan hoàn hảo cả về môi trường pháp lý, tổ chức bộ máy, cơ chế phối hợp và hệ thống nhân lực. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý như: xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy để triển khai Nghị định số 155/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ để áp dụng thí điểm đối với một số đối tượng để từ đó nghiên cứu triển khai áp dụng đầy đủ Hiệp định GATT; chuẩn hoá quy trình nghiệp vụ, xây dựng cẩm nang về kiểm tra sau thông quan chuyển đổi cơ chế kiểm tra theo từng lô hàng sang cơ chế kiểm tra theo doanh nghiệp, áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong công tác kiểm tra sau thông quan.
Đi đôi với việc hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế phối hợp, tổ chức bộ máy, cần phải tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ hải quan có đủ trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức; những cán bộ này phải có khả năng nắm vững các kỹ thuật xác định trị giá, kế toán, kiểm toán, phân tích và tổng hợp các thông tin về trị giá hàng nhập khẩu; phải hiểu biết đầy đủ Hiệp định trị giá GATT và luật pháp quốc gia để có thể vận dụng linh hoạt các nguyên tắc của Hiệp định trong điều kiện Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ chuyển sang thực hiện hoàn toàn xác định trị giá hải quan theo GATT khi Việt Nam ra nhập Tổ chức Thương mại thế giới.
+ Xây dựng chiến lược tự nguyện chấp hành pháp luật. Một trong những giải pháp tích cực hỗ trợ cho quá trình chống gian lận thương mại là hình thành nên một chiến lược tự nguyện tuân thủ pháp luật, trên cơ sở những thông tin được cung cấp từ hệ thống xác định trị giá, hệ thống kiểm tra sau thông quan, hệ thống quản lý rủi ro, cơ quan quản lý nhà nước sẽ đánh giá và lựa chọn doanh nghiệp nhằm đưa ra một cơ chế công bằng, hợp lý giúp cho các doanh nghiệp làm ăn trung thực không phải thường xuyên đối phó với các hoạt động kiểm tra, đồng thời thực hiện các biện pháp xử lý thích đáng đối với những doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Các nguyên tắc của hệ thống tuân thủ đòi hỏi phải được thiết lập trên cơ sở sự tin tưởng được tạo dựng từ cả hai phía. Các cơ quan có thẩm quyền phải thông báo cho các doanh nghiệp về quyền và nghĩa vụ của mình đảm bảo việc điều hành các hoạt động của cơ quan quản lý sẽ tạo ra các tác động công bằng. Ngược lại, các doanh nghiệp phải đặt lòng tin vào khả năng quản lý và tính công bằng của các cơ quan quản lý nhà nước. Sự tin tưởng này sẽ dẫn đến việc hầu hết các doanh nghiệp đều muốn tuân thủ pháp luật để được hưởng các quyền lợi nếu họ được cung cấp đầy đủ thông tin và những dịch vụ giúp họ hiểu hết sự cần thiết của việc tuân thủ và hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Với sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào chiến lược tự nguyện tuân thủ pháp luật, từ đó đảm bảo rằng hệ thống xác định trị giá là đầy đủ trong khi giải quyết các vấn đề liên quan.
Trong thời gian trước mắt khi chưa xây dựng đầy đủ các biện pháp ngăn chặn gian lận thương mại, cơ quan Hải quan vẫn phải duy trì các biện pháp kiểm soát hiện có và có thể nghiên cứu các biện pháp có thể áp dụng ngay để hạn chế phần nào tình trạng gian lận thương mại phổ biến hiện nay như: cập nhật thống kê các mặt hàng thường gian lận thương mại về giá về thuế suất, để đề xuất điều chỉnh cơ sở tính thuế hợp lý, đảm bảo kinh doanh có lãi của người nhập khẩu, sử dụng các chuyên gia về mặt hàng vì họ là những người hiểu biết sâu sắc về tính năng kỹ thuật, đặc điểm vật chất, có thể phân biệt rõ nguồn gốc xuất xứ, năm sản xuất của hàng hóa từ đó phát hiện ra mâu thuẫn giữa thực tế hàng hóa và hồ sơ hải quan do doanh nghiệp cung cấp, khai báo. Nâng dần tác dụng chống gian lận thương mại đảm bảo giá gần sát với giá thị trường, tránh tình trạng xây dựng giá quá cao hoặc quá thấp gây thua thiệt cho doanh nghiệp và thất thu ngân sách nhà nước. Thực hiện kiểm tra kiểm soát có trọng điểm một số doanh nghiệp có ý đồ gian lận rõ ràng, trên cơ sở thông tin do các bộ phận chức năng khác cung cấp. Vì vậy, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan trên cơ sở cụ thể hóa trách nhiệm quản lý đối với những phần việc chồng chéo, lẫn lộn trong chức năng nhiệm vụ của các cơ quan.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, thanh tra, kiểm tra thường xuyên việc chấp hành chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Trong thời gian qua, Tổng cục Hải quan đã triển khai nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại hải quan các địa phương và đã thu được những kết quả bước đầu, nhiều vụ vi phạm chính sách thuế đã được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, đề nghị truy thu cho Nhà nước hàng chục tỷ đồng tiền thuế gian lận. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh của tình hình mới do tác động ảnh hưởng của vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế mà đặc biệt là thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế, việc xác định số thuế phải nộp chủ yếu dựa vào sự khai báo của doanh nghiệp. Trong khi đó ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu chưa cao, tình trạng gian lận thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn diễn ra phổ biến ở khắp nơi và các loại hình xuất khẩu, nhập khẩu. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác điều tra, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, trong thời gian tới công tác điều tra, thanh tra, kiểm tra cần được cải cách theo hướng sau:
+ Phân loại đối tượng cấn phải điều tra, thanh tra kiểm tra: trên cơ sở tổng hợp, phân tích đánh giá hệ thống thông tin thu thập được về các doanh nghiệp, mặt hàng loại hình xuất khẩu, nhập khẩu, cần tập trung điều tra, thanh tra kiểm tra thường xuyên đối với các đối tượng có nhiều rủi ro về thuế như:
Các doanh nghiệp thường xuyên vi phạm chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để gian lận thuế.
Các mặt hàng thường xuyên xảy ra gian lận thương mại.
Các loại hình dễ xảy ra gian lận nhưng thực tế chứng ta chưa quản lý được như: loại hình nhập đầu tư miễn thuế, mặc dù trong luật đã quy định truy thu thuế đối với các trường hợp sử dụng sai mục đích miễn thuế ban đầu nhưng thực tế chứng ta chưa kiểm soát được các đối tượng này; loại hình nhập nguyên liệu sản xuất xuất khẩu, theo báo cáo của Hải quan các địa phương số nợ thuế của các doanh nghiệp nhập nguyên liệu sản xuất xuất khẩu không đến thanh khoản vì chưa xuất hết hàng hóa hoặc đã tiêu thụ nội địa nhưng không khai báo Hải quan là rât lớn lên tới hàng tỷ đồng.
+ Xây dựng chương trình hỗ trợ của máy tính phục vụ cho công tác điều tra, thanh tra kiểm tra.
+ Các chế tài về xử lý vi phạm, cưỡng chế thuế phải được quy định rõ ràng, cụ thể trong các văn bản pháp luật.
+ Tăng cường chức năng cho cơ quan thuế Hải quan được quyền điều tra, khởi tố những vụ vi phạm về thuế lớn và đưa vụ án ra toà để xét xử vì thực tế hiện nay những vụ vi phạm về thuế lớn, cơ quan Hải quan đều chuyển hồ sơ cho các cơ quan có chức năng điều tra, khởi tố và chỉ quy định Cục Điều tra chống buôn lậu và Cục Kiểm tra sau thông quan - Tổng cục Hải quan được phép điều tra ban đầu và khởi tố nên làm giảm quyền hạn của cơ quan Hải quan.
3.3. KIẾN NGHỊ
3.3.1. Về luật pháp và chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
- Hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu:
+ Hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải đảm bảo sự động viên đóng góp hợp lý nguồn thu ngân sách nhà nước phù hợp với quá trình cải cách hệ thống thuế nước ta.
+ Hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải đảm bảo mục tiêu: bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hiệu quả, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu. Chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành bảo hộ sản xuất trong nước mang tính tràn lan và thiếu chọn lọc, không được phân định theo những ngành sản xuất mà Nhà nước cần đầu tư phát triển và những ngành sản xuất khác
+ Hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải tiến tới phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế về ưu đãi thuế nhập khẩu và các cam kết ưu đãi khác. Trước tiên, phải thực hiện các cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo Hiệp định CEPT để thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA, các cam kết về thuế nhập khẩu để thực hiện Hiệp định thương mại với EU, Hoa kỳ và tiến tới là cam kết với APEC, WTO…
- Nội dung cơ bản của việc hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Về biểu thuế: Xây dựng biểu thuế nhập khẩu phù hợp với định hướng bảo hộ có chọn lọc đối với các ngành kinh tế. Thực tế cho thấy, trong bất kỳ thời điểm nào kể cả ở các nước phát triển và chậm phát triển, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đều phải có vai trò bảo hộ nền kinh tế của nhà nước đó. Vì thế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần phải nghiên cứu cân nhắc để có chính sách bảo hộ doanh nghiệp trong nước thích hợp, không thể một sớm một chiều giảm nhanh sự bảo hộ qua thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Về thuế suất: Có thể nói đây là linh hồn của luật thuế, nó thể hiện mức độ động viên vào ngân sách nhà nước, khuyến khích hay hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu, đồng thời nó thể hiện sức cạnh tranh của sản phẩm. Trong bối cảnh hội nhập AFTA, Việt Nam phải thực hiện lịch trình cắt giảm thuế theo Hiệp định CEPT. Vì vậy, việc xây dựng mức thuế suất hợp lý vừa đảm bảo thực hiện các cam kết về cắt giảm thuế, vừa phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước đang là một vấn đề bức xúc đặt ra. Ngoài vấn đề xây dựng các mức thuế suất theo từng cấp độ bảo hộ như đã trình bày, vấn đề thuế suất cần phải:
+ Thực hiện tăng thuế suất bình quân của biểu thuế nhập khẩu bằng cách tăng dần thuế suất nhập khẩu của một số mặt hàng có mức thuế suất nhập khẩu hiện hành thấp và những mặt hàng chưa phải thực hiện cắt giảm theo cam kết với AFTA lên mức cao hơn, thực hiện thu trên diện rộng nhằm bao quát hết nguồn thu.
+ Giảm khoảng cách chênh lệch về mức thuế suất giữa các mặt hàng có cùng tính chất, đặc điểm, phạm vi sử dụng, bảo đảm mặt hàng có cùng tính chất sử dụng giống nhau thì cùng mức thuế tương tự nhau để đơn giản thủ tục kê khai áp mã tạo thuận lợi cho thực hiện.
- Thu hẹp diện miễn giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Cần phân định rõ thu ngân sách và chi ngân sách, để tính hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực kinh tế cũng như trong lĩnh vực xã hội; những đối tượng nào cần được sự ưu đãi của Nhà nước sẽ hỗ trợ từ ngân sách, với một chính sách thuế trung lập sẽ giúp cho công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được đơn giản, thuận lợi, dễ dàng và minh bạch hơn. Trong khi đó chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành áp dụng chế độ miễn giảm thuế quá rộng đối với hàng nhập khẩu phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc phòng, hàng phục vụ giáo dục đào tạo, đây là một sơ hở rất lớn cho việc lách thuế, trốn thuế vì thực chất của việc quy định này là thực hiện việc miễn giảm thuế theo mục đích sử dụng của hàng hoá; trong khi hàng hoá nhập khẩu phục vụ cho an ninh quốc phòng ngoài những mặt hàng chuyên dụng đặc biệt như vũ khí, khí tài quân sự còn phần lớn các mặt hàng khác như ô tô, xe máy… vẫn có thể được sử dụng cho các đối tượng khác. Mặc dù chính sách thuế hiện hành có quy định là phải truy thu thuế nhập khẩu đối với các trường hợp được miễn giảm thuế nhưng sử dụng sai mục đích, song trên thực tế chưa thể quản lý để truy thu thuế đối với các trường hợp này.
Để hạn chế các trường hợp lợi dụng lách thuế, trốn thuế, thì chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu cần phải được sửa đổi theo hướng chỉ miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu đối với các hàng hoá chuyên dùng đặc biệt phục vụ cho an ninh, quốc phòng như: vũ khí, khí tài quân sự và các hàng hoá đặc dụng khác. Đối với hàng hoá phục vụ cho giáo dục đào tạo, y tế vẫn phải nộp thuế, trường hợp cần ưu đãi thì hỗ trợ qua ngân sách nhà nước.
- Xoá bỏ thời gian ân hạn nộp thuế:
Để phù hợp với thông lệ quốc tế và các nước trong khu vực ASEAN, các trường hợp cần thiết phải cho ân hạn về thời gian nộp thuế thì nhất thiếu phải có sự bảo lãnh của cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo chắc chắn thu hồi được số thuế cho ân hạn, có như vậy mới có thể tiến tới khắc phục cơ bản tình trạng nợ đọng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu kéo dài như hiện nay.
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản dưới luật:
Quy định cho hoàn thuế đối với xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá gián tiếp đối với doanh nghiệp Việt Nam; quy định và hướng dẫn cách tính thuế đối với những trường hợp mở tờ khai một lần nhưng thực nhập theo nhiều chuyến khác nhau vào các thời điểm khác nhau mà trong thời gian nhập khẩu lại có sự thay đổi về mức thuế suất thuế nhập khẩu theo hướng: tờ khai có thể mở một lần, nhưng thuế tính theo từng chuyến hàng, tại thời điểm hàng thực nhập khẩu; những qui định về cưỡng chế thuế...
- Tăng cường quyền lực cho lực lượng Hải quan:
Hải quan được phép kiểm tra toàn bộ hàng hoá nhập khẩu trong lãnh thổ quốc gia như các nước, hạn chế và tiến tới xoá bỏ cơ chế thanh toán bằng tiền mặt trong giao dịch mua bán hàng hoá nhập khẩu.
3.3.2. Kiến nghị đối với các cơ quan liên quan
- Xây dựng quy chế phối hợp với các ngành:
Hải quan cần phối hợp với Ngân hàng, Tài chính, Thuế vụ… để kiểm tra phần thanh toán qua ngân hàng và kiểm tra các thông tin về giá cả trên thị trường trong và ngoài nước, với Bộ Công an (Tổng cục Cảnh sát, Tổng cục An ninh...), Bộ Thương mại (cơ quan quản lý thị trường) và các ngành khác có liên quan nhằm chống đường dây ổ nhóm buôn lậu, chống gian lận thương mại, thực hiện các biện pháp điều tra, truy tố được thuận lợi.
- Thành lập tòa án chuyên xét xử các vụ tranh chấp về thuế và bộ máy cưỡng chế thi hành luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Để đảm bảo chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thực thi một cách công bằng, đảm bảo quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp, chống thất thu ngân sách nhà nước, đồng thời xử lý nghiêm minh những cán bộ, những doanh nghiệp vi phạm chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm mục đích trục lợi cho cá nhân, tổ chức.
- Phải có sự ủng hộ và phối hợp đồng bộ chặt chẽ của các ngành, các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương và quần chúng nhân dân đối với công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Thực tiễn quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thời gian qua cho thấy, hiệu quả quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không thể được cải thiện nếu như thiếu sự ủng hộ của các ngành, các cấp. Bởi vì chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công việc có tính chất nhạy cảm cao, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các tổ chức cá nhân hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa. Do vậy, nếu không có sự ủng hộ tích cực và kiên định từ phía các cơ quan công quyền và quần chúng nhân dân, thì hiệu quả của công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu khó mang lại hiệu quả cao.
Trên đây là những điều kiện không thể thiếu và phải được triển khai đồng bộ khi thực thi các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong thời gian tới của Việt Nam.
Trong tiến trình hội nhập AFTA mục tiêu chủ yếu của công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là vừa bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, phát huy những lợi thế có được và khắc phục những ảnh hưởng bất lợi do quá trình hội nhập tạo ra; vừa phù hợp với thực tiễn phát triển của nền kinh tế đất nước. Xuất phát từ thực trạng công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội và quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đề ra, kết hợp với những bài học được rút ra từ sự tổng kết kinh nghiệm quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của một số nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời nhận thức vai trò của công cụ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
KẾT LUẬN
Khi trở thành thành viên chính thức của hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), nền kinh tế Việt Nam chính thức đi theo con đường hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Hội nhập kinh tế, một mặt sẽ đem lại những cơ hội phát triển, mặt khác cũng phải đương đầu với những thách thức đặt ra từ đó. Trong điều kiện kinh tế đang phát triển của Việt Nam hiện nay, việc tăng cường quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và mở cửa hội nhập là một đòi hỏi khách quan. Luận văn đã tổng hợp, phân tích, lý giải và đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay. Tuy chưa thật đầy đủ và toàn diện, song đã đạt được một số kết quả sau:
- Tổng kết và khái quát hóa những vấn đề cơ bản về thuế và quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như: khái niệm, đặc điểm, bản chất, vai trò, mục tiêu và nội dung của thuế và quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu .
- Hệ thống hóa một số quan điểm, nhận thức về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế; phân tích rõ các vấn đề cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế; trình bày rõ các vấn đề thuộc khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA, đặc biệt là những tác động của AFTA đối với Việt Nam.
- Trên cơ sở phân tích những tác động của AFTA đối với hoạt động kinh tế của Việt Nam, tham chiếu vào nền tảng lý luận về thuế và quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, luận văn đã phân tích làm rõ sự cần thiết phải tăng cường quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, đồng thời đặt ra những vấn đề đối với quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần được xem xét khi Việt Nam tham gia AFTA.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng theo từng nội dung của công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; luận văn đã khái quát hóa những kết quả, tồn tại đồng thời chỉ rõ những nguyên nhân của tồn tại trong công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua.
- Trên cơ sở tìm hiểu công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của một số nước trên thế giới, luận văn đã đưa ra những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong thực thi thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2006-2010, luận văn đã chỉ rõ những yêu cầu đặt ra trong công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu, luận văn đã đề xuất bốn nhóm giải pháp với mong muốn góp phần cải thiện công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong thời gian tới ở nước ta.
Do công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một việc phức tạp, bao trùm nhiều lĩnh vực, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, với trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của các nhà khoa học để nội dung của luận văn hoàn thiện hơn, đáp ứng phần nào yêu cầu đặt ra từ công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2000), Chiến lược cải cách hệ thống thuế Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.
2. Bộ Tài chính, Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam (2001) thuế nhập khẩu Việt Nam AFTA giai đoạn 2001-2006.
3. C.Mác-Ph.Ăng nghen (1972), Tuyển tập, Tập22, NXB Sự thật, Hà Nội.
4. Đại học Kinh tế quốc dân (1997), Hội nhập AFTA - Cơ hội và thách thức.
5. Giáo trình thuế Nhà nước (2000), NXB Thống kê Hà Nội.
6. Hiệp định trị giá GATT.
7. Luật Hải quan, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành.
8. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các văn bản hướng dẫn thi hành.
9. Vụ Chính sách Tài chính (1999), Định hướng chính sách tài chính 2001-2010.
10. Nguyễn Văn Hiệu (2002), Các giải pháp hoàn thiện cải cách hệ thống thuế ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện Tài chính.
11. Nguyễn Danh Hưng (2003), Các giải pháp tăng cường quản lý thuế XNK trong tiến trình gia nhập AFTA của Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện Tài chính.
12. Nguyễn Văn Biên (1996), Chính sách thuế XNK của Việt nam trong bối cảnh Việt Nam gia nhập ASEAN, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Ngoại thương.
13. Quyết định số 810/QĐ-BTC ngày 16/3/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về "Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hoá ngành Hải quan giai đoạn 2004 - 2006".
14. Quách Đức Pháp (1999), Thuế công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, NXB Xây dựng, Hà Nội.
15. Tổng cục Hải quan (2005), Báo cáo kết quả công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại, các năm 1994 - 2005.
16. Tổng cục Hải quan (2005), Báo cáo tình hình nợ thuế xuất khẩu, nhập khẩu, các năm 1998 - 2005.
17. Tổng cục Hải quan (2005), Báo cáo thu nộp ngân sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu và thu khác, các năm 1996 - 2005.
18. Thủ tục Hải quan các nước ASEAN, NXB Tài chính, Hà Nội - 1996.
19. Thuế, lệ phí Hải quan, NXB Tài chính, Hà Nội - 1996.
20. Thuế Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, tập 1 và tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2000.
21. Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN (2001), NXB Thống kê, Hà Nội - 2001.
22. Xây dựng lực lượng Hải quan trong sạch vững mạnh, Tổng cục Hải quan - 1996.
23. Xây dựng lực lượng Hải quan thành lực lượng biên phòng trên mặt trận kinh tế, NXB Tài chính, Hà Nội - 1995.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AEM
:
Hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN
AFTA
:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN
:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APEC
:
Hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
AHTN
:
Danh mục biểu thuế ASEAN
CEPT
:
Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
C/O
:
Giấy chứng nhận xuất xứ
EU
:
Liên minh Châu Âu
GATT
:
Hiệp định chung thuế quan thương mại
L/C
:
Chứng thư tín dụng
NAFTA
:
Hiệp định khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
UNDP
:
Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc
WTO
:
Tổ chức thương mại thế giới
WCO
:
Tổ chức Hải quan thế giới
IMF
:
Quỹ tiền tệ thế giới
SEV
:
Cộng đồng kinh tế khối các nước Đông Âu
IKD
:
Bộ linh kiện xe hai bánh gắn máy không đồng bộ
CKD
:
Bộ linh kiện xe hai bánh gắn máy đồng bộ
SKD
:
Bộ linh kiện xe hai bánh gắn máy đã lắp rắp một số cụm chi tiết
CIF
:
Giá nhập khẩu tại cửa khẩu nhập
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1. Báo cáo số nợ thuế quá hạn đến 31/12/2005
46
Bảng 2.2. So sánh nợ thuế
47
Bảng 2.3. Tình hình XNK & thu thuế hàng hoá XNK thời kỳ 1992 - 2005
52
Bảng 2.4. Báo cáo số nợ thuế quá hạn đến 31/12/2005
63
Bảng 2.5. Kết quả đấu tranh chống buôn lậu hàng hoá XNK (1996 - 2005)
Kết quả thanh tra, kiểm tra (1994 - 2005)
73
73
Biểu đồ 2.1. So sánh nợ thuế
47
Bảng 2.5: Kết quả đấu tranh chống buôn lậu hàng hoá xuất nhập khẩu (Giai đoạn 1996 - 2005) (Nguồn số liệu: Tổng cục Hải quan)
Kết quả
Năm 1996
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tổng cộng
Số vụ vi phạm phát hiện và bắt giữ
12.500
17.600
11.600
9.500
6.463
8.603
7.319
13.050
11.327
13.074
111.036
Trị giá hàng vi phạm (Tỷ đồng)
370
530
270
270
237
173,5
130
912,3
405
591,6
3.889,4
Kết quả thanh tra, kiểm tra giai đoạn 1994 – 2005 (Nguồn số liệu: Tổng cục Hải quan)
Đơn vị : Tỷ đồng
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng cộng
Số vụ kiểm tra
33
66
62
35
99
90
110
150
85
10
17
18
775
Kiến nghị thu hồi
7,12
4,7
3,0
2,0
6,69
3,0
3,56
1,044
1,056
1,0
3,0
3,0
39,17
Ghi chú: Theo quy định từ năm 2003 trở đi phải kiểm tra toàn diện nên số vụ kiểm tra của các năm 2003, 2004, 2005 chỉ là số lần kiểm tra mang tính chất toàn diện, như: số lượng đơn vị Cục Hải quan hoặc Chi cục Hải quan được kiểm tra.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 82.doc