Cần cải cách mô hình cung ứng dịch vụ công theo hướng tăng cường sự tham
gia của khu vực tư nhân và cộng đồng. Theo đó, có thể đẩy mạnh việc áp dụng mô
hình “Quản lý công mới”, với yêu cầu tinh giảm bộ máy nhà nước, đề cao nguyên
tắc thị trường, áp dụng phương thức lãnh đạo doanh nghiệp cho các tổ chức công và
khuyến khích các công ty tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công để giảm gánh
nặng cho chính quyền,.1 Để thoả mãn nhu cầu dịch vụ ngày càng cao và đa dạng
của người dân, cần đưa cơ chế thị trường và tạo dựng chính quyền dạng doanh
nghiệp theo hướng trao quyền cho tổ chức cung cấp dịch vụ công, bảo đảm cho các
tổ chức này có quyền tự chủ cao về bộ máy, con người và tài chính.
Cần xây dựng bộ máy hành chính có trách nhiệm giải trình dựa trên ba trụ
cột: Một là, tăng cường tính minh bạch trong chu trình chính sách. Hai là, bảo đảm
có các nhóm chủ thể khác biệt chịu trách nhiệm trong việc xây dựng, thực thi và
đánh giá chính sách. Ba là, tăng cường vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu.
Áp dụng mạnh m chính phủ số ở mọi lĩnh vực để giảm thiểu và hiện đại hóa thủ tục
hành chính, hạn chế tham nhũng và tiếp nhận được sự phản hồi của người dân. Thiết
lập các cơ chế đối thoại liên tục nhằm giám sát nền hành chính công và dỡ bỏ
những rào cản, bất cập xuất hiện trong quá trình thực thi chính sách2.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34
ĐỔI MỚI TƢ DUY VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
-----
GS.TS Vũ Văn Hiền
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
Vấn đề phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm đang nổi lên như một lời hiệu
triệu có sức hấp dẫn lôi cuốn và lan tỏa khắp thế giới. Điều này thật dễ hiểu bởi cho
đến nay chưa một quốc gia nào có thể khẳng định đã phát triển một cách bền vững,
sáng tạo và bao trùm. Ngay cả ở các nước phát triển nhất, việc phát triển bền vững
cũng chỉ là tương đối, phát triển sáng tạo cũng chỉ ở một vài lĩnh vực và phát triển
bao trùm thì còn khó mà đạt được. Vì thế phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm lại
trong điều kiện cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đã trở thành một hướng đi mới thiết
thực mà quốc gia nào cũng thấy cần thiết đáp ứng nhu cầu và mục tiêu trước mắt,
cũng như lâu dài.
Đối với mỗi quốc gia, để phát triển theo định hướng tốt đẹp đó nhất định
phải biết kết hợp giữa nỗi lực trong nước và sức mạnh quốc tế, phát triển kinh tế
trong nước với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vậy, khi đặt vấn đề đổi mới
tư duy kinh tế để phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm cần phải quan tâm đến đổi
mới tư duy trong hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Về nhận thức
Đảng ta đã xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, coi hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ
thống chính trị. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại
lực; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập các lĩnh vực khác từng bước mở rộng;
nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế đi đôi với chủ động, tích cực tham gia
xây dựng, thực hiện các chuẩn mực chung bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc. Nhận
thức sâu sắc hơn yêu cầu giải quyết một cách thỏa đáng mối quan hệ giữa hội nhập
quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Nhận thức rõ hơn, đầy đủ
hơn các đặc điểm của môi trường quốc tế cũng như các hệ thống công cụ, quyền lực
được sử dụng để chi phối, kiểm soát trong quá trình hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế là quá trình chủ động tham gia ngày càng sâu, rộng vào đời
sống mọi mặt của quốc tế. Hội nhập quốc tế đang là lực hấp dẫn lớn, là lời vẫy gọi
đối với mọi quốc gia, ngày càng có sự cuốn hút mạnh mẽ, trở thành một hy vọng,
một cuộc chơi như “trảy hội” đối với một quốc gia này, lại như đành phải chấp nhận
35
đối với quốc gia khác bởi không ai muốn bị tụt hậu hoặc bị thế giới bỏ rơi. Nói một
cách khác, hội nhập là một cuộc chơi, dám chịu chơi, chấp nhận cuộc chơi để phục
vụ cho lợi ích của đất nước mình. Tuy nhiên, đây là cuộc chơi quyết liệt, gay gắt,
đầy kịch tính. Người ta còn tính rằng, tham gia cuộc chơi này, giỏi giang thì ăn bảy,
mất ba; trung bình thì được năm, mất năm; yếu kém thì được ba mất bảy, thậm chí
còn mất nhiều hơn.
Thực tiễn chứng tỏ, hội nhập không giới hạn trong một phạm vi và một lĩnh
vực nào của đời sống quốc tế mà nó lan tỏa ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực trên phạm vi
khu vực và toàn cầu. Tham gia vào mọi mặt đời sống quan hệ quốc tế có nghĩa là
phải tham gia vào các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh. Hội nhập
quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời cuộc nói chung, vừa là nhu cầu nội tại
của mỗi nước. Quá trình hội nhập quốc tế diễn ra ở nhiều cấp độ và nhiều phương
thức khác nhau. Tùy theo tình hình cụ thể, tùy theo thời gian và không gian cũng
như lĩnh vực cụ thể mà sự tham gia hội nhập quốc tế được tiến hành ở những hình
thức khác nhau như song phương, tam giác, tứ giác, khu vực và toàn cầu. Có thể
nói, cả thế giới đang diễn ra cao trào hội nhập quốc tế với tốc độ nhanh và các lĩnh
vực ngày càng mở rộng, dẫn tới sự tùy thuộc lẫn nhau tăng lên. Chính vì thế, hội
nhập quốc tế là quá trình phức tạp, vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Khi tham gia hội nhập quốc tế, phải tính toán rất thận trọng tác động và hậu
quả lâu dài của việc hội nhập và chuyển dịch kinh tế - xã hội trong nước. Phải gắn
kết được chiến lược phát triển kinh tế xã hội, những bước đi cụ thể trong nước với
những biến động của kinh tế thế giới, với các mục tiêu và lộ trình của khuôn khổ
hợp tác song phương, tiểu khu vực, liên khu vực và toàn cầu, sao cho các cam kết
và thỏa thuận trong các khuôn khổ hợp tác đó hài hòa, không vênh nhau hoặc mâu
thuẫn nhau. Để tránh gây ra những đảo lộn về xã hội, cần luôn luôn bảo đảm sự cân
bằng hợp lý giữa các quan hệ: quan hệ giữa đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước
với chủ đông, tích cực hội nhập quốc tế; quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của đất
nước trong các thể chế hội nhập, giữa mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước
ta với yêu cầu, đòi hỏi của bên ngoài; giữa lĩnh vực kinh tế với các lĩnh vực khác.
Cần kịp thời thích ứng, phản ứng linh hoạt tạo lập về tăng cường khai thác lợi thế so
sánh của đất nước để hội nhập thành công.
Tuy nhiên, về mặt nhận thức còn những hạn chế nhất định. Trong quan hệ
quốc tế, vấn đề cốt lõi là lợi ích quốc gia - dân tộc, nhưng một số cán bộ các cấp,
các ngành vẫn bị chi phối bởi tư tưởng cục bộ, địa phương, chưa nhận thức một
cách đầy đủ và toàn diện các khía cạnh của lợi ích quốc gia - dân tộc. Việc nghiên
cứu về mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và bảo đảm độc lập, tự chủ, giữ vững chủ
36
quyền quốc gia chưa thật thấu đáo. Vẫn còn có những ý kiến trái ngược nhau, có ý
kiến lo ngại về khả năng giữ độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập, thấy cái “mất”
nhiều hơn cái “được”; hoặc chỉ thấy cái “được” mà ít cân nhắc đầy đủ đến cái
“mất”. Nơi này, nơi khác, nhận thức về đối tượng, đối tác chưa thật sâu sắc.
Đối chiếu theo định hướng phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm thì tư duy
về hội nhập quốc tế của chúng ta còn những hạn chế nhất định. Có tư tưởng chỉ nghĩ
đến lợi trước mắt không tính đến tác hại lâu dài, muốn đẩy mạnh hội nhập quốc tế,
đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi cách để nhanh chóng tăng trưởng
kinh tế, bất chấp những mặt trái của nó là có thể gây tác hại ô nhiễm môi trường
hoặc công nghệ lạc hậu. Một cách nhận thức khác là hoàn toàn ỷ lại vào công nghệ
bên ngoài, không tin và không quan tâm đến việc đổi mới sáng tạo trong nước dẫn
tới quá trình phát triển thiếu năng động và thiếu sáng tạo. Lại có tư tưởng chỉ thấy
lợi ở lĩnh vực kinh tế nào thì chú trọng thúc đẩy hội nhập hoặc đầu tư mà không
nhận rõ tính tổng thể, bao trùm của cả nền kinh tế - xã hội để dẫn tới sự mất cân đối,
không hài hòa trong quá trình phát triển.
2. Về thực tiễn
2.1. Những kết quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Với chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” trong những năm
qua, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã tiến lên một tầm cao mới trên tất
cả các lĩnh vực. Tiến trình hội nhập quốc tế đã có những tác động to lớn, nhiều mặt
đến thế và lực của Việt Nam trong phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng
cao thu nhập cho người dân; tạo sức ép và điều kiện để hoàn thiện thể chế kinh tế;
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Bình quân đầu
người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt 86 USD -
mức thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng gần như liên tục qua các năm sau đó và đến
hết năm 2016 đã đạt 2.200 USD, năm 2017 đạt 2.385 USD. Nếu như tăng trưởng
GDP bình quân thời kỳ 1986 - 1990 chỉ đạt 4,4%/năm thì bình quân thời kỳ 1991 -
2011 đạt 7,34%/năm. Đặc biệt, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã duy trì tốc độ
tăng trưởng cao, trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,46% (mức cao nhất
trong vòng 11 năm trước đó). Do ảnh hưởng từ những biến động của nền kinh tế thế
giới, tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011 - 2013 giảm xuống còn 5,6%. Tuy
nhiên, sang năm 2014 đạt 5,98%, năm 2015 đạt 6,68% và 2016 đạt 6,1%, năm 2017
GDP đạt 6,81%, năm 2018 đạt 7%, quy mô nền kinh tế khoảng 240 tỷ USD, bình
quân đầu người đạt 2.540 USD, mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua
(2008-2018). Năm 2018 Việt Nam chính thức ký kết và phê chuẩn FTA thế hệ mới
(ký kết CPTPT tháng 3/2018), rà soát pháp lý Hiệp định EVFTA tháng 6 năm 2018,
37
thúc đẩy đàm phán RCEP. Đây là những FTA toàn diện, quy mô rộng, mức độ cam
kết cao, bao hàm nhiều nội dung mới.
Việt Nam đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu với tổng kim
ngạch xuất khẩu, nhập khẩu đạt gần 480 tỷ USD, gấp gần 2 lần GDP. Thực hiện các
cam kết từ khi gia nhập WTO như tự do hóa quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu, xóa
bỏ các hạn chế xuất, nhập khẩu, xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu gây bóp méo cạnh tranh,
giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp, các cam kết
mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, minh bạch hóa chính sách hệ thống pháp
luật của Việt Nam đã và đang tiếp tục được hoàn thiện theo hướng ngày càng trở
nên rõ ràng, minh bạch hơn, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng. Nước ta có vị
thế ngày càng lớn trong xuất khẩu hàng hóa toàn cầu và được xếp vào nhóm 30 nền
kinh tế xuất khẩu hàng hóa hàng đầu thế giới. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt
Nam đã chuyển sang cân bằng xuất, nhập khẩu, thậm chí là có xuất siêu.
Phát triển kinh tế theo hướng bền vững, sáng tạo, bao trùm một cách thiết thực
cũng là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ: Đó là nền kinh tế có cơ cấu kinh
tế hợp lý, hiệu quả và bảo đảm độ an toàn cần thiết; nền kinh tế phát triển bền vững
và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất, nhập khẩu cân đối; đầu tư trực tiếp của
nước ngoài trong một số ngành kinh tế, nhất là những ngành kinh tế quan trọng,
chiếm một tỷ lệ không thể chi phối được nền kinh tế; hạn chế hoặc không cho phép
đầu tư nước ngoài vào những ngành nhạy cảm... Nói cách khác, một nền kinh tế độc
lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với
những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động
đó; trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động
bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực nhiệm vụ quốc phòng - an ninh.
Xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta, được thể hiện ở độc lập, tự chủ về
đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ
mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao; tập trung phát triển
các ngành, lĩnh vực và sản phẩm kinh tế chủ yếu có vai trò quan trọng hàng đầu, hiệu
quả Cùng với đó, phải bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; an toàn năng lượng, tài
chính - tiền tệ, môi trường; đất nước phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững.
Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, độc lập về kinh tế của một
quốc gia không phải là biệt lập, khép kín, tự cung, tự cấp. Tự chủ không phải là tự
quyết định một cách cứng nhắc và tuyệt đối, không tính đến các quy định của các
thể chế kinh tế - tài chính quốc tế, không thực hiện đúng các cam kết, luật pháp và
thông lệ quốc tế... Tham gia vào sân chơi quốc tế, chúng ta đã thực hiện mở cửa thị
38
trường nội địa, chủ động thay đổi kết cấu kinh tế, đã hình thành các khu công
nghiệp tập trung và hướng tới hình thành một số đặc khu hành chính – kinh tế để
đáp ứng đòi hỏi thu hút một khối lượng lớn vốn đầu tư. Đây là hình thức hợp đồng
thuê nhượng, có thời hạn một vùng lãnh thổ với những quyền nhất định. Mặt khác,
chúng ta thực hiện tự do hoá nền kinh tế theo các cam kết quốc tế, tức là chuyển
giao một số quyền đáng kể từ nhà nước sang thị trường. Trong điều kiện kết cấu độc
lập về kinh tế thay đổi như vậy, trọng tâm của việc bảo đảm chủ quyền kinh tế là
tăng cường toàn diện năng lực tự chủ kinh tế.
Từ việc xác định đúng mục tiêu, nội dung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ, chúng ta đã tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực trọng yếu tạo nền tảng
cho phát triển bền vững, vừa đáp ứng nhu cầu trong nước trên mọi tình huống, vừa
bảo đảm cho xuất khẩu. Nguồn lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ được thu hút cả trong nước và ngoài nước, kết hợp hài
hòa giữa ngoại lực và nội lực, trong đó phát huy mạnh mẽ nội lực.
Thành công trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong hơn 30 năm qua
chính là nền kinh tế có bước phát triển tốt và ổn định, tăng trưởng kinh tế được duy
trì ở mức hợp lý, xu hướng phát triển năm sau cao hơn năm trước, chất lượng tăng
trưởng được nâng lên. Nền kinh tế từng bước được cơ cấu lại gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tăng cường, nguồn nhân lực
để cung ứng cho phát triển kinh tế - xã hội ngày càng phát triển. Nền kinh tế Việt
Nam đã đứng vững và phát triển trước những thách thức to lớn từ các cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu. Chính phủ đã thực hiện tốt vai trò quản lý và kiến tạo. Môi
trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, minh bạch, bình đẳng hơn, năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế đang được nâng lên. Đáng chú ý, các chỉ số về kết quả hội
nhập kinh tế đã đạt được ở mức cao. Theo báo cáo của Chính phủ, tổng số vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tính đến hết tháng 9/2018, sau 30 năm đã có số vốn
đăng ký là 334 tỷ USD. Hiện đã có 128 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đầu tư
vào Việt Nam. Vốn FDI vào Việt Nam chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Các
đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỷ USD cho Việt Nam từ 2018 đến 2020. Năm
2017, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 13 triệu lượt người. Đến hết
năm 2017, đầu 2018, đã có hơn 70 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị
trường đầy đủ. Hội nhập kinh tế quốc tế thành công đã tạo thêm nội lực cho đất nước.
2.2. Những hạn chế
Xem xét dưới góc độ phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm, trong lĩnh vực
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam còn nhiều hạn chế, thể hiện trên một số khía
cạnh sau:
39
(1) Việc ban hành các chính sách, pháp luật vừa thiếu, vừa chưa đồng bộ. Việc
tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
hội nhập quốc tế chưa nghiêm, chưa mạnh mẽ, quyết liệt. Trình độ năng lực điều
hành, quản lý kinh tế mà nhất là của các doanh nghiệp trong nước còn yếu kém.
Hạn chế đó tác động tiêu cực tới việc làm tăng nguồn lực cho phát triển.
(2) Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế chưa toàn diện, chưa cụ thể dẫn đến chưa
tận dụng được hết lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế trong việc làm tăng nguồn lực
cho phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt
Nam chưa xây dựng được một chiến lược hội nhập kinh tế với một lộ trình cụ thể, phù
hợp với điều kiện chung của đất nước. Do đó, định hướng phát triển bền vững, sáng
tạo, bao trùm trong hội nhập kinh tế quốc tế tại một số khâu, giai đoạn còn chưa được
triển khai đồng bộ đầy đủ. Trong một số trường hợp, hội nhập kinh tế quốc tế còn bị
động, chưa có cơ sở khoa học, thực tiễn phù hợp với thực trạng phát triển đất nước,
chưa phát huy được đầy đủ các hiệu quả và lợi ích của hội nhập mang lại.
(3) Những hạn chế nội tại của nền kinh tế là một nhân tố tác động tiêu cực đến
việc làm tăng nguồn lực cho phát triển: (i) Cân đối vĩ mô và các cân đối lớn của nền
kinh tế chưa vững chắc. Bội chi ngân sách khá cao. Nợ công ở mức chạm ngưỡng; (ii)
Môi trường đầu tư kinh doanh và năng lực cạnh tranh chậm được cải thiện. Thủ tục
hành chính còn nhiều vướng mắc, tình hình sản xuất, kinh doanh còn nhiều khó khăn,
số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động lớn. Năng lực tài chính, quản trị của
phần lớn doanh nghiệp trong nước còn hạn chế.
(4) Do hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề có liên quan đến nhiều bộ, ban, ngành
nên đòi hỏi phải có sự phối hợp thường xuyên giữa các bộ, ban, ngành, giữa các cơ
quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp, cộng đồng, sự phối hợp triển khai đồng bộ
từ cấp Trung ương đến cấp địa phương. Tuy nhiên, thời gian qua, một bộ phận đầu
mối về hội nhập kinh tế quốc tế tại một số bộ, ban, ngành và địa phương vẫn chưa
chú trọng đến khâu phối hợp và tham vấn với các chương trình hành động về hội
nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy việc triển khai công tác hội nhập đã không đạt
được kết quả như mong muốn. Bên cạnh đó, khi xây dựng các kế hoạch, đề án,
chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế, đa số các đầu mối về hội nhập
kinh tế quốc tế tại các bộ, ban, ngành, địa phương lại chưa có kế hoạch, đề án, chương
trình này. Do không có quy định về cơ chế giám sát, theo dõi, đánh giá, nên rất khó để
tổng hợp đầy đủ, kịp thời cũng như đánh giá kết quả của việc triển khai một cách xứng
đáng và toàn diện.
40
3. Đổi mới tƣ duy và định hƣớng phát triển, đẩy mạnh tiến trình hội nhập
quốc tế
3.1. Đổi mới trong công tác phân tích, dự báo
Cục diện phức tạp của thế giới và khu vực đặt ra yêu cầu khẩn trương nâng
cấp công tác phân tích, dự báo chiến lược và đánh giá rủi ro hệ thống, đáp ứng
được việc xử lý những tình huống phức tạp phát sinh. Cần nhận diện sớm các
động thái, xu hướng phát triển lớn của thế giới, từ đó có điều chỉnh đúng đắn
trong chiến lược phát triển, tận dụng triệt để những cơ hội mới mở ra. Bối cảnh
hiện nay là cơ hội cho Việt Nam nhìn nhận lại tư duy phát triển; trong đó có
nhận thức mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, về mô hình tăng trưởng và phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với quy luật và xu
thế chung, từ đó đẩy mạnh cải cách để vượt qua những cản trở đối với sự phát
triển nhanh và bền vững.
Việt Nam không thể tiếp tục phát triển nhanh, bền vững, sáng tạo, bao trùm
nếu chỉ dựa vào các ngành sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu mà cần hiện đại
hoá bằng công nghệ mới các ngành sản xuất truyền thống, đột phá vào những ngành
dựa trên công nghệ cao, chú trọng phát triển các ngành dịch vụ tri thức và cần nhất
là phải trở thành một mắt xích trong mạng sản xuất và phân phối của các công ty đa
quốc gia. Xu thế phát triển kinh tế trên nền tảng đổi mới sáng tạo và sự phổ biến
của mạng sản xuất toàn cầu là điều kiện mới để Việt Nam rút ngắn khoảng cách về
tri thức và công nghệ, thậm chí cả khi các điều kiện tăng trưởng dựa trên đổi mới
sáng tạo chỉ mới bắt đầu.
Việt Nam cần bắt nhịp với làn sóng FTA để có tiến trình hội nhập phù hợp
song không để bị lệ thuộc và bị cuốn theo các trào lưu ngắn hạn, các xu hướng loại
trừ và hình thành những liên kết khép kín trong làn sóng FTA. Thách thức đặt ra là
Việt Nam cần chủ động tham gia kiến tạo các cộng đồng khu vực mở, có quan hệ
hài hòa với tất cả các nước lớn và các nền kinh tế phát triển trên thế giới; song Việt
Nam cũng cần chủ động hơn khi tham gia vào các tiến trình hợp tác toàn cầu và khu
vực theo cách của người đề xuất sáng kiến và tham gia soạn thảo luật chơi. Tuy vậy,
cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn đòi hỏi Việt Nam phải có những
đối sách hết sức thận trọng, mềm dẻo và khôn khéo để duy trì mối quan hệ cân bằng
với tất cả các nước lớn, tạo thế đan xen lợi ích, tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập
hay lệ thuộc. Đứng ở một vị trí địa - chiến lược quan trọng, việc lựa chọn chiến
lược đối tác - đối thủ sẽ là rất khó khăn, không thể trung tính, thiếu lòng tin, có thái
độ không rõ ràng và cũng không thể là "nhất biên đảo."
41
3.2. Thực hiện nghị trình “kép” trong phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm
Từ nay tới năm 2030, Việt Nam vừa xử lý những yếu kém tồn đọng, điểm
nghẽn trong mô hình phát triển cũ, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; vừa thiết lập
những yếu tố cho một mô hình tăng trưởng mới, theo hướng bền vững, sáng tạo,
bao trùm cần khuyến khích áp dụng công nghệ, nuôi dưỡng đổi mới sáng tạo để
không bị tụt lại phía sau trong những thay đổi nhanh chóng của thế giới và quá trình
hội nhập.
Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, bền vững là điều kiện tiên quyết nhằm duy
trì, củng cố và phát huy thành quả đã đạt được trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua.
Đây cũng là điều kiện để giải quyết những điểm yếu của nền kinh tế thông qua quá
trình cơ cấu lại bởi nó bảo đảm rằng quá trình này không đẩy nền kinh tế vào một
vòng xoáy bất ổn hơn. Việt Nam đã xác định ba lĩnh vực trọng tâm của nền kinh tế
cần tiến hành cơ cấu lại, đó là: cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu
lại thị trường tài chính với trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước. Việc thực hiện cơ cấu lại những lĩnh vực trên sẽ góp phần
sửa chữa những khuyết tật cơ bản của nền kinh tế, loại bỏ những rủi ro trong dài
hạn từ đó bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và tạo lập tiền đề cho quá trình chuyển đổi
mô hình tăng trưởng.
Để có những đột phá trong mô hình phát triển mới, kinh nghiệm của các nền
kinh tế Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan cho thấy cần thiết kế một
chính sách công nghiệp đặt trọng tâm vào nâng cấp nền tảng công nghệ và phát
triển khu vực kinh tế tư nhân để đạt được mục tiêu phát triển rút ngắn. Chính sách
công nghiệp cần có ba yếu tố chính: Một là, các nguyên tắc tạo ra bầu không khí
hợp tác giữa Chính phủ và khu vực tư nhân hơn là chỉ đơn thuần cung cấp các ưu
đãi tài chính; theo đó Chính phủ cần cùng với khu vực tư nhân để xác định vấn đề,
cơ hội và các giải pháp nhằm khuyến khích đầu tư phát triển một số ngành ưu tiên
và hỗ trợ các doanh nghiệp có nhiều tiềm năng phát triển. Hai là, cần phải dựa vào
cả “cà rốt” và “cây gậy” để hướng khu vực tư nhân vào những lĩnh vực được xác
định cần ưu tiên phát triển. Ba là, cần được thực hiện một cách minh bạch và có
trách nhiệm giải trình, và mở rộng cho tất cả các bên có liên quan có thể tham gia1.
Đặc biệt, cần nắm bắt được làn sóng khởi nghiệp của các doanh nghiệp công
nghệ và có các chính sách giúp các doanh nhân vượt qua rào cản về vốn, rủi ro,
nguồn nhân lực,... để hiện thực hóa các ý tưởng sáng tạo của mình trong các dự án
kinh doanh. Phát triển hệ thống tài chính hỗ trợ hấp thụ và áp dụng công nghệ, thúc
1
Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (2016): Báo cáo chính sách tháng 11/2016, Hà Nội.
42
đẩy đổi mới sáng tạo. Nhà nước cần tập trung xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính
sách, tạo thuận lợi cho việc thành lập, hoạt động của Quỹ đầu tư mạo hiểm; thực
hiện nhiều hình thức kết hợp nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước với nguồn vốn đầu tư
của tư nhân để cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp khởi nghiệp2.
Với chỉ hơn 30% dân số sống ở đô thị, Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa để tăng
tốc của quá trình đô thị hoá bằng các công cụ chính sách sẵn có, đặc biệt là quy
hoạch và quản lý đô thị hiệu quả, đầu tư công có hiệu quả, tạo ra các động lực phù
hợp thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cứng và
mềm. Kết quả chính phải là hình thành nên một hệ thống hiện đại các trung tâm đô
thị liên kết với nhau, gồm các thành phố lớn đáng sống là nơi cung cấp dịch vụ chất
lượng cao, các trung tâm nghiên cứu và triển khai; các thành phố có quy mô trung
bình là nơi có các cụm liên kết ngành; các thành phố nhỏ, nơi doanh nghiệp nông
nghiệp có thể dễ dàng vươn tới người nông dân ở nông thôn nhưng đồng thời kết
nối chặt chẽ với khách hàng ở khắp nơi trong cả nước. Các thành phố có quy mô
khác nhau được kết nối chặt chẽ với nhau sẽ góp phần nâng cao tính sẵn sàng về
công nghệ, nuôi dưỡng đổi mới sáng tạo và hỗ trợ việc chia sẻ thành quả từ quá
trình này trong cả nước.
Độc lập, tự chủ cũng là phải tự tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực thông qua cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo, gắn đào tạo với
thực tiễn, thúc đẩy văn hóa khởi nghiệp; đặc biệt chú trọng đào tạo nghề và đào tạo
nhân tài. Việt Nam cần có những trường kỹ thuật và công nghệ kết nối tốt với khu
vực doanh nghiệp, tập trung vào đào tạo các ngành nghề liên quan đến các công
nghệ mũi nhọn như STEM (khoa học tự nhiên, công nghệ, cơ khí, toán), robotic,
kinh tế xanh, internet kết nối vạn vật, thiết kế trí tuệ nhân tạo, tự động hoá, năng
lượng và vật liệu mới,... Ngoài ra, cần khuyến khích, tạo dựng môi trường sáng tạo
cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, giúp họ hình thành ý chí tự
thân lập nghiệp để sẵn sàng cho tương lai.
3.3. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải thiện chất lượng quản trị
quốc gia
Thiết lập một nền kinh tế thị trường đầy đủ, minh bạch và hiện đại vừa là mục
tiêu vừa là yêu cầu của hội nhập. Để có được điều này cần có những chính sách
củng cố quyền sở hữu nhằm thúc đẩy đầu tư dài hạn; thực hiện hiệu quả cải cách
hành chính công nhằm tăng tính minh bạch, giảm quan liêu và hạ chi phí giao dịch
vốn có ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là những biện
pháp góp phần đẩy nhanh quá trình chính thức hoá nền kinh tế và thị trường lao
2
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2016): Báo cáo chính sách tháng 6/2016, Hà Nội.
43
động, bởi vì quan liêu dẫn đến tăng chi phí kinh doanh và thời gian cho các doanh
nghiệp hoạt động chính thức trên thị trường. Cần duy trì và nhân rộng các nỗ lực đó
trên toàn quốc, bao gồm cải thiện quản trị ở cấp địa phương và thúc đẩy phát triển
doanh nghiệp. Những biện pháp này đóng vai trò đặc biệt quan trọng ở những tỉnh
nằm ngoài “cực tăng trưởng”, giúp trung hoà xu hướng tăng trưởng tập trung ở
những vùng trọng điểm.
Cần cải cách mô hình cung ứng dịch vụ công theo hướng tăng cường sự tham
gia của khu vực tư nhân và cộng đồng. Theo đó, có thể đẩy mạnh việc áp dụng mô
hình “Quản lý công mới”, với yêu cầu tinh giảm bộ máy nhà nước, đề cao nguyên
tắc thị trường, áp dụng phương thức lãnh đạo doanh nghiệp cho các tổ chức công và
khuyến khích các công ty tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công để giảm gánh
nặng cho chính quyền,...1 Để thoả mãn nhu cầu dịch vụ ngày càng cao và đa dạng
của người dân, cần đưa cơ chế thị trường và tạo dựng chính quyền dạng doanh
nghiệp theo hướng trao quyền cho tổ chức cung cấp dịch vụ công, bảo đảm cho các
tổ chức này có quyền tự chủ cao về bộ máy, con người và tài chính.
Cần xây dựng bộ máy hành chính có trách nhiệm giải trình dựa trên ba trụ
cột: Một là, tăng cường tính minh bạch trong chu trình chính sách. Hai là, bảo đảm
có các nhóm chủ thể khác biệt chịu trách nhiệm trong việc xây dựng, thực thi và
đánh giá chính sách. Ba là, tăng cường vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu.
Áp dụng mạnh m chính phủ số ở mọi lĩnh vực để giảm thiểu và hiện đại hóa thủ tục
hành chính, hạn chế tham nhũng và tiếp nhận được sự phản hồi của người dân. Thiết
lập các cơ chế đối thoại liên tục nhằm giám sát nền hành chính công và dỡ bỏ
những rào cản, bất cập xuất hiện trong quá trình thực thi chính sách2.
1
Osborne, S. P. (2006), The New Public Governance? Public Management Review, vol. 8, No. 3, pp. 377-388.
2
Diễn đàn kinh tế tư nhân Việt Nam 2016: Cơ hội, thách thức và giải pháp. Hà Nội, tr.115.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_moi_tu_duy_ve_hoi_nhap_kinh_te_quoc_te.pdf