Năm là, tăng cường công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động đầu tư sau cấp phép;
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát theo quy định của pháp luật về đầu tư và
chuyên ngành như Thuế, Bảo hiểm xã hội đối
với doanh nghiệp FDI, tránh trốn thuế,
chuyển giá, nợ đọng bảo hiểm xã hội, ô nhiễm
môi trường gây thiệt hại ngân sách nhà
nước và gây thiệt thòi cho người lao động; đa
dạng hóa các hình thức đầu tư để huy động và
nâng tỷ trọng của vốn FDI vào lĩnh vực phát
triển cơ sở hạ tầng (giao thông, điện nước,
trường học), tỉnh tiếp tục khuyến khích đầu tư
theo hình thức BT, BOT, mô hình đầu tư hợp
tác công tư (PPP).
Sáu là, sự phát triển của Tỉnh phụ thuộc rất
nhiều vào chất lượng nguồn nhân lực tại chỗ
cũng như khả năng thu hút lao động chất
lượng cao từ ngoại tỉnh. Tỉnh cần xem xét và
cơ cấu lại hoạt động đào tạo trên địa bàn theo
hướng nhấn mạnh các kỹ năng và kiến thực
thực chất, đồng thời các đơn vị đào tạo trên
địa bàn tỉnh, nhất là Đại học Thái Nguyên cần
nghiên cứu thị trường, hợp tác đào tạo với các
doanh nghiệp; hướng tới trang bị cho sinh
viên các nền tảng cơ bản để có thể thích ứng
với mọi ngành nghề và môi trường, tác phong
công nghiệp khác nhau.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đóng góp quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN: 1859-2171
e-ISSN: 2615-9562
TNU Journal of Science and Technology 225(07): 313 - 320
Email: jst@tnu.edu.vn 313
ĐÓNG GÓP QUAN TRỌNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Xuân Quang
Huyện ủy Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
TÓM TẮT
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế Việt
Nam. Đối với tỉnh Thái Nguyên, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp
quan trọng tăng thu ngân sách, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo sự lan tỏa tới các thành phần kinh tế
trong nước; tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp, đẩy
mạnh xuất khẩu, tạo việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn
tỉnh, đưa Thái Nguyên trở thành điểm sáng của cả nước trong phát triển kinh tế - xã hội. Bài viết
vận dụng phương pháp thống kê mô tả đánh giá những kết quả trong thu hút FDI. Bài viết đã đánh
giá những tác động tích cực của khu vực FDI mang lại cho tỉnh Thái Nguyên và các tác động tiêu
cực ảnh hướng đến phát triển kinh tế - xã hội. Qua đó đề xuất các giải pháp tiếp tục thu hút nguồn
vốn FDI để tỉnh Thái Nguyên phát triển nhanh và bền vững.
Từ khóa: FDI; Thái Nguyên; chuyển dịch cơ cấu kinh tế; công nghiệp; xuất khẩu.
Ngày nhận bài: 12/5/2020; Ngày hoàn thiện: 22/5/2020; Ngày đăng: 01/06/2020
THE IMPORTANT CONTRIBUTION OF FOREIGN DIRECT INVESTMENT
INTO SOCIO-ECONOMIC DEVELOPMENT OF THAI NGUYEN PROVINCE
Nguyen Xuan Quang
Dai Tu District Party Committee, Thai Nguyen Province
ABSTRACT
The foreign-invested economic sector is an important component of Vietnamese economy. For Thai
Nguyen province, the foreign direct investment economic sector has made an important contribution
to raising revenue in the budget, restructuring the economic structure, creating a spillover to domestic
economic sectors.; increasing the economic growth rate and the growth rate of industrial production
value, boosting exports, creating more jobs, which reduces hunger and poverty, ensures social
security in the province and makesThai Nguyen a bright spot of the whole country in socio-economic
development. In this paper, we apply the descriptive statistical method to evaluate the results of FDI.
The paper assessed the positive effects of the FDI sector on Thai Nguyen province and negative
impacts affecting socio-economic development. Thereby proposing solutions to continue attracting
FDI capital to Thai Nguyen province to develop quickly and sustainably.
Keywords: FDI; Thai Nguyen; economic restructuring; industry; exports.
Received: 12/5/2020; Revised: 22/5/2020; Published: 01/06/2020
Email: quangvptutn@gmail.com
Nguyễn Xuân Quang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 313 - 320
Email: jst@tnu.edu.vn 314
1. Đặt vấn đề
Sau hơn 30 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, Việt Nam nói chung và Thái Nguyên
nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật
trong phát triển kinh tế - xã hội. Thành công
trong hoạt động xúc tiến đầu tư những năm
gần đây đã thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài có uy tín, kinh nghiệm và tiềm lực tài
chính vào triển khai các dự án đầu tư. Đồng
thời đầu tư trực tiếp nước ngoài đã khẳng định
được vai trò quan trọng trong việc bổ sung
tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo sự lan tỏa tới
các thành phần kinh tế trong nước; tăng tốc độ
tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng giá trị
sản xuất công nghiệp; đổi mới công nghệ, nâng
cao năng lực sản xuất, gia tăng kim ngạch xuất
khẩu, phát triển công nghiệp phụ trợ, từng
bước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước tham gia chuỗi giá trị sản xuất
toàn cầu, đóng góp ngân sách nhà nước, phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao và tạo
thêm việc làm cho người lao động; tăng cường
xuất khẩu; đẩy mạnh phát triển các hoạt động
dịch vụ thương mại, du lịch góp phần xóa
đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội trên
địa bàn tỉnh, đưa Thái Nguyên trở thành điểm
sáng của cả nước trong phát triển kinh tế - xã
hội. Bên cạnh những đóng góp quan trọng,
FDI cũng có những tác động tiêu cực đối với
tỉnh Thái Nguyên như vấn đề môi trường,
chuyển giao khoa học công nghệ, an ninh trật
tự, tính bền vững của nền kinh tế khi phụ thuộc
quá nhiều vào đóng góp của FDI. Tuy nhiên để
có cái nhìn chính xác, khách quan và khoa học,
bài viết sẽ làm rõ về vai trò của FDI đối với
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái
Nguyên, đồng thời đề xuất một số giải pháp
chủ yếu thông qua nguồn vốn FDI thúc đẩy
các thành phần kinh tế khác phát triển đưa tỉnh
Thái Nguyên phát triển nhanh và bền vững,
phấn đấu đến năm 2030 trở thành thành phố
trực thuộc Trung ương [1], [2].
2. Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên có lịch sử phát triển công
nghiệp từ rất sớm, ngay từ những năm 60 của
thế kỷ XX, khu công nghiệp Gang Thép – cơ
sở luyện kim đầu tiên của cả nước được xây
dựng, đến nay tỉnh có 6 khu công nghiệp với
tổng diện tích 1.420 ha, trong đó có 5 khu
công nghiệp đã được đầu tư hạ tầng và đã có
các nhà đầu tư, tỷ lệ lấp đầy đạt trên 60%; đã
quy hoạch 35 cụm công nghiệp với tổng diện
tích 1.259 ha. Kể từ dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) đầu tiên có mặt trên địa bàn
(năm 1993) với tổng vốn đầu tư trên 21,7
triệu USD của nhà đầu tư Singapore, đến
ngày 31/3/2020, trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên đã có 150 dự án FDI đang hoạt động
với tổng vốn đầu tư trên 8,21 tỷ USD, trong
đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thu
hút được nhiều sự quan tâm nhất với 126 dự
án đang triển khai, với tổng số vốn là 8,13 tỷ
USD, chiếm 99,05% tổng vốn đầu tư; lĩnh
vực chuyên ngành xây dựng đứng thứ 2 với 6
dự án, còn lại 19 dự án thuộc lĩnh vực thương
mại, dịch vụ và nông nghiệp (Bảng 1) [3]-[6].
Bảng 1. Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép và còn hiệu lực
lũy kế đến ngày 31/3/2020
TT Chỉ tiêu
Số dự án
được cấp phép
Tổng vốn đăng ký
(Triệu đô la Mỹ)
Tổng số 150 8.211,666
1 Phân theo thành phần kinh tế
Công nghiệp chế biến, chế tạo 126 8.134
Nông nghiệp, lâm nghiệp thủy sản 1 2,30
Xây dựng 6 35,20
Dịch vụ lưu trú và ăn uống 3 11,061
Hoạt động kinh doanh bất động sản 2 14,45
Thông tin và truyền thông 1 1,33
Hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ 3 0,59
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 1 3,57
Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 5 2,5
Lĩnh vực khác 2 7,2
Nguyễn Xuân Quang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 313 - 320
Email: jst@tnu.edu.vn 315
TT Chỉ tiêu
Số dự án
được cấp phép
Tổng vốn đăng ký
(Triệu đô la Mỹ)
2 Phân theo nước đầu tư chủ yếu
Hàn Quốc 109 7.294
Trung Quốc 11 39,03
Đài Loan 7 18,00
Nhật Bản 4 134,30
Singapo 2 29,24
Đức 4 14,84
Malaysia 2 14,10
Brunei 2 5,20
Hồng Kông 7 657,50
Ấn Độ 1 0,15
Seychelles 1 5,00
(Nguồn: Thống kê của tác giả)
Phân theo hình thức đầu tư: Các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên tập trung chủ yếu
vào hình thức đầu tư 100% vốn FDI, với 140/150 dự án, chiếm 99,27% tổng vốn đăng ký FDI
của tỉnh, các dự án còn lại lựa chọn hình thức liên doanh.
Phân theo đối tác đầu tư: Tính đến nay đã có 11 quốc gia đầu tư vào địa bàn tỉnh, đưa Thái
Nguyên trở thành một trong những địa phương thu hút FDI lớn và hiệu quả nhất của các tỉnh
miền núi phía Bắc. Giai đoạn từ năm 1993 - 2011, thu hút FDI trên địa bàn chỉ tăng trưởng trung
bình từ 02 - 03 dự án/năm và tính cả giai đoạn này chỉ thu hút được 44 dự án với tổng vốn đầu tư
106,8 triệu USD. Từ năm 2012 đến tháng 4/2020 (gần 10 năm) đã thu hút được 127 dự án, gấp
gần 3 lần so với số dự án được cấp phép và tăng xấp xỉ 76 lần về giá trị so với giai đoạn 1993 –
2011 trong vòng gần 20 năm (giai đoạn 1993-2011). Số liệu chi tiết được thể hiện tại bảng 2 [7].
Bảng 2. Kết quả thu hút vốn đầu tư FDI
Năm Số dự án
Vốn đăng ký
(Triệu USD)
Vốn thực hiện
(Triệu USD)
Tỷ lệ thực hiện
1993-2012 49 395,6 237,2 60,0%
2013 22 3.386,8 456,6
94% trong giai đoạn
2013-2019
2014 23 3.163,2 1.913,6
2015 25 200,5 3.238,2
2016 25 131,9 764,6
2017 14 16,3 484,8
2018 14 416,4 280,1
2019 20 368,02 139,22
(Nguồn: Cục thống kê tỉnh Thái Nguyên)
Đặc biệt là vào năm 2013, khi Tập đoàn
Samsung (Hàn Quốc) triển khai dự án Tổ hợp
công nghệ cao Samsung chuyên sản xuất điện
thoại và các sản phẩm điện tử công nghệ cao
tại Khu công nghiệp Yên Bình (thị xã Phổ
Yên) với tổng vốn đầu tư 2 tỷ USD, đã đưa
Thái Nguyên trở thành địa phương dẫn đầu cả
nước về thu hút FDI với 22 dự án cấp mới với
tổng vốn trên 3,4 tỷ USD. Sau khi thu hút
được tập đoàn điện tử hàng đầu thế giới và
các doanh nghiệp FDI sản xuất sản phẩm phụ
trợ cho Samsung đã tạo ra một làn sóng các
nhà đầu tư chọn Thái Nguyên là địa điểm đầu
tư. Đến năm 2015, Tập đoàn Samsung tiếp
tục đầu tư vào tổ hợp công nghệ cao Samsung
Thái Nguyên giai đoạn 2 trên 3 tỷ USD. Với
việc đầu tư thêm vào Tổ hợp công nghệ cao
Samsung Thái Nguyên đã nâng quy mô vốn
đầu tư lên 5 tỷ USD, đưa Samsung Thái
Nguyên trở thành dự án có quy mô vốn đầu tư
lớn nhất của Tập đoàn Samsung tại Việt Nam.
Các dự án của Tập đoàn Samsung góp phần
Nguyễn Xuân Quang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 313 - 320
Email: jst@tnu.edu.vn 316
đưa Thái Nguyên có bước tiến vượt bậc và là
điểm sáng về thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). Năm 2012, Thái Nguyên đứng ở
vị trí 44/63 tỉnh, thành phố thu hút FDI trong
cả nước, thì đến năm 2014, Thái Nguyên là
tỉnh đứng đầu cả nước thu hút FDI, năm 2018
đứng thứ 11/63 tỉnh, thành phố có vốn FDI
[3], [7].
Lũy kế đến 31/3/2020, tỉnh có khoảng trên
800 dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu
tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Quyết
định chủ trương đầu tư, chấp thuận chủ
trương đầu tư còn hiệu lực dự án đầu tư, trong
đó có 150 dự án FDI với tổng vốn đầu tư trên
8,2 tỷ USD. Trong đó các dự án do đối tác
đầu tư từ Hàn Quốc là 109 dự án với vốn
đăng ký gần 7,3 tỷ USD, chiếm 89,02%; còn
lại 41 dự án nhỏ, do các đối tác đầu tư từ 10
quốc gia (Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản,
Singapo, Đức, Malaysia, Brunei và Hồng
Kông, Ấn Độ, Seychelles) với tổng cộng vốn
đăng ký là 917 triệu USD (Trung Quốc 11 dự
án, vốn đăng ký là 39,03 triệu USD; Đài
Loan 07 dự án, vốn đăng ký là 18 triệu USD;
Hồng Kông 07 dự án, với tổng vốn đăng ký
657,50 triệu USD; Nhật Bản 04 dự án, vốn
đăng ký là 134,30 triệu USD; Singapo 02 dự
án với vốn đăng ký là 29,24 triệu USD...) [7].
Năm 2018, tỉnh đã tổ chức thành công Hội
nghị Xúc tiến đầu tư tỉnh Thái Nguyên với
chủ đề “Thái Nguyên - Tiềm năng phát triển
và cơ hội đầu tư”. Từ sau Hội nghị đến nay,
thu hút được 64 dự án của 44 nhà đầu tư với
tổng số vốn đăng ký đầu tư trên 114.000 tỷ
đồng. Bảng 3 thể hiện lũy kế thu hút FDI của
các địa phương đến năm 2018.
3. Tác động tích cực của đầu tư trực tiếp
nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Thái Nguyên
3.1. Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tích cực
Có thể khẳng định FDI là một nhân tố quan
trọng đóng góp rất lớn thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của tỉnh Thái Nguyên. Giai đoạn 2009
– 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì
9,4%, giai đoạn 2012-2013, tốc độ tăng
trưởng giảm. Đầu năm 2014, khi Công ty
Samsung Việt Nam Thái Nguyên đi vào hoạt
động đã dẫn đến sự tăng trưởng nhanh chóng,
giai đoạn 2014-2018, tốc độ tăng trưởng luôn
đạt trên 10%, thậm chí năm 2014 và 2015 lên
đến khoảng 30%. Giai đoạn 2016-2020, tăng
trưởng bình quân ước 11,1%, trong đó khu
vực công nghiệp – xây dựng đóng góp lớn
nhất (8,6 điểm phần trăm), tiến đến là khu
vực dịch vụ (2,1 điểm phần trăm), khu vực
nông, lâm, thủy sản (0,4 điểm phần trăm) vào
tốc độ tăng trưởng chung [3], [4]. Số liệu chi
tiết được thể hiện ở hình 1.
Bảng 3. Lũy kế thu hút FDI của các địa phương đến năm 2018
TT Tỉnh/TP Số dự án Tổng VĐK (Triệu USD) Số dự án 2018 VĐK 2018 (Triệu USD)
1 TP. HCM 7.333 45.194 963 6.745
2 Hà Nội 4.500 33.134 640 7.547
3 Bình Dương 3.305 31.758 226 2.395
4 BR-VT 363 29.882 48 2.300
5 Đồng Nai 1.472 28.658 130 1.418
6 Hải Phòng 606 17.672 116 3.135
7 Bắc Ninh 1.138 17.289 175 1.150
8 Thanh Hoá 102 13.855 16 364
9 Hà Tĩnh 62 11.714 8 133
10 Hải Dương 385 7.758 45 639
11 Thái Nguyên 130 7.736 14 417
Cả nước 27.454 340.849 3.147 36.368
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Nguyễn Xuân Quang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 313 - 320
Email: jst@tnu.edu.vn 317
Hình 1. Tăng trưởng GRDP tỉnh Thái Nguyên qua các năm
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên)
Bên cạnh đó, lực lượng lao động có sự dịch chuyển mạnh về tỉnh Thái Nguyên khoảng gần 100.000
người dẫn đến nhu cầu tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ nhà ở, lưu trú, ăn uống tăng lên, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng ngành dịch vụ giai đoạn 2014-2019. Trong khi đó, tổng sản phẩm bình quân
đầu người năm 2019 đạt 83,5 triệu đồng, tương đương 3.583 USD vượt so với bình quân chung của
cả nước, tăng 32,2 triệu đồng/người/năm, gấp 2,6 lần so với năm 2010 (Hình 2).
Hình 2. Giá trị và cơ cấu GRDP theo giá hiện hành (nghìn tỷ đồng)
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên)
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, cơ cấu
kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực, tỷ
trọng công nghiệp – xây dựng tăng nhanh,
giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản
trong tổng GRDP của tỉnh. Tỷ trọng khu vực
CN – XD đã tăng từ 38% vào năm 2005 lên
58% vào cuối năm 2019. Chính sự gia tăng
đột biến của khu vực CN – XD làm cho khu
vực TM – DV thực tế vẫn đang tăng trưởng
nhưng tỷ trọng lại giảm từ 42,2% vào năm
2013 xuống còn 31,7% vào năm 2019. Trong
khi đó, khu vực nông nghiệp ngày càng bị thu
hẹp dần (từ khoảng 26,2% vào năm 2005,
hiên nay chỉ còn chiếm khoảng 10,3%). Sự
thu hẹp của khu vực nông nghiệp là do tốc độ
tăng năng suất chậm hơn so với sự vươn lên
của khu vực công nghiệp và dịch vụ, diện tích
canh tác bị thu hẹp để sử dụng cho công
nghiệp, lao động dịch chuyển sang lĩnh vực
CN – XD và TM – DV. Đến năm 2020, tỷ
trọng khu vực công nghiệp – xây dựng và khu
vực dịch vụ chiếm 90%, chuyển dịch tăng cơ
cấu lên 5,1 điểm phần trăm so với năm 2015;
khu vực nông, lâm, thủy sản giảm từ 15,1
xuống còn 10% [3], [5], [7], [8].
3.2. Thúc đẩy tăng trưởng sản xuất công
nghiệp; đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu,
tăng thu ngân sách
Có thể khẳng định FDI là nhân tố quan trọng
Nguyễn Xuân Quang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 313 - 320
Email: jst@tnu.edu.vn 318
đóng góp rất lớn đến chuyển dịch cơ cấu theo
hướng công nghiệp hóa ở tỉnh Thái Nguyên
và tỷ trọng công nghiệp ngày càng tăng, cụ
thể: Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010 là
24.902 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), trong
đó khu vực FDI là 2.172 tỷ đồng, chiếm
8,7%; năm 2015 là 376.864 tỷ đồng, trong đó
khu vực FDI là 347.254 tỷ đồng, chiếm
92,1%; đến năm 2019 là 743.800 tỷ đồng,
trong đó khu vực FDI là 690.820 tỷ đồng,
chiếm 92,9%, gấp 318 lần so với năm 2010.
Nhìn chung FDI đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực
công nghiệp chế biến, chế tạo mà sản phẩm
chủ lực tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp lớn
nhất là điện thoại thông minh, máy tính bảng
và linh kiện điện tử, qua đó đẩy mạnh xuất
khẩu tăng vượt bậc, năm 2010 đạt 98,9 triệu
USD; năm 2015 là 15.951,7 triệu USD, trong
đó xuất khẩu khu vực FDI là 15.672,8 triệu
USD; năm 2018 là 24.835,2 triệu USD, trong
đó xuất khẩu khu vực FDI là 24.405,2 triệu
USD đến năm 2019 là 28.636,8 triệu USD,
trong đó xuất khẩu khu vực FDI là 28.068 triệu
USD, gấp 1,78 lần năm 2015 [4], [5], [8].
Khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của
tỉnh Thái Nguyên đóng góp ngày càng lớn
vào nguồn thu ngân sách của tỉnh. Năm 2010
tổng thu ngân sách của tỉnh đạt 2.725 tỷ đồng,
trong đó khu vực FDI là 31,6 tỷ đồng, chiếm
1,2%; năm 2015 là 7.484,9 tỷ đồng, trong đó
khu vực FDI là 1.397,9 tỷ đồng, chiếm
18,7%; năm 2018 thu ngân sách đạt 15.022,8
tỷ đồng, trong đó khu vực FDI là 3.411,1 tỷ
đồng, chiếm 22,7%; năm 2019 thu ngân sách
đạt 15.632 tỷ đồng, trong đó khu vực FDI là
4.280 tỷ đồng, chiếm 27,4% [3], [6], [7], [9].
3.3. Góp phần giải quyết việc làm cho người
lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động
Các doanh nghiệp FDI đầu tư vào tỉnh đã góp
phần giải quyết việc làm cho người lao động.
Cụ thể năm 2010, lao động đang làm việc
trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh là
67,2 nghìn lao động, trong đó lao động làm
việc trong các doanh nghiệp FDI là 2 nghìn
lao động, chiếm 3% tổng số lao động trong
các doanh nghiệp trên địa bàn. Sau gần 10
năm, tổng lao động đang làm việc trong các
doanh nghiệp là 197,8 nghìn lao động, tăng
gấp 2,9 lần so với năm 2010, tốc độ tăng
trưởng bình quân là 16,7%/năm. Trong đó số
lao động thuộc khu vực FDI là 99,34 nghìn
lao động, chiếm 50,22% tổng số lao động,
tăng gấp gần 50 lần so với năm 2010 và gấp
11,9 lần so với năm 2014. Số lao động làm
việc trong khu vực FDI tăng đột biến từ năm
2014, khi nhà máy Samsung Thái Nguyên đi
vào hoạt động. Như vậy, tác động mạnh mẽ
nhất của khu vực FDI góp phần quan trọng
tạo việc làm cho người lao động, đồng thời,
khu vực FDI đã kéo theo sự xuất hiện và phát
triển mạnh các ngành khác như kết cấu hạ
tầng, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống
nhận dân từ đó tạo ra nhiều việc làm mới cho
người lao động, qua đó tạo cơ hội và điều
kiện cho hình thành và phát triển thị trường
lao động trên địa bàn tỉnh [3], [7], [9].
Khu vực FDI còn góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu lao động. Năm 2010, lao động
nông nghiệp chiếm 66,72%, lao động công
nghiệp và xây dựng chiếm 15,61%, dịch vụ
chiếm 17,67%, đến năm 2014, tỷ trọng lao
động nông nghiệp giảm còn 55,34%, công
nghiệp-xây dựng tăng lên 23,26%, dịch vụ là
21,39%, đến năm 2017 lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp giảm xuống còn 43,81%, công
nghiệp xây dựng tăng lên 30,94% và dịch vụ
tăng lên 25,25%. Năm 2010, lao động làm việc
trong khu vực FDI chỉ chiếm 0,8%, trong khi đó
lao động ở khu vực Nhà nước là 10,5% và
ngoài Nhà nước là 88,7% thì đến năm 2014 con
số này tăng mạnh lên tới 8%, khu vực Nhà nước
là 10,1%, ngoài Nhà nước giảm còn 81,8%.
Đến năm 2017, lao động khu vực FDI chiếm
13,4%, khu vực Nhà nước chiếm 9,6%, ngoài
Nhà nước giảm còn 77% [3], [6], [7], [9].
4. Một số hạn chế, tác động tiêu cực của
đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên
Bên cạnh những thành tựu đạt được, đầu tư
trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên vẫn còn những hạn chế, thách thức
đối với tỉnh Thái Nguyên đó là:
Một là, chất lượng dòng vốn đầu vào tỉnh
chưa cao, vẫn nặng về sử dụng nhân công giá
rẻ để sinh lời, kể cả như tập đoàn Samsung
đa số các dự án FDI thuộc lĩnh vực sản xuất
các sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh đều
phải nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài, điều
này cho thấy phát triển của các doanh nghiệp
phụ trợ của tỉnh còn ở mức rất thấp chưa đáp
ứng được cho doanh nghiệp FDI. Hoạt động
chuyển giao khoa học công nghệ diễn ra
chậm, tỷ lệ nội địa hóa không đáng kể.
Nguyễn Xuân Quang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 313 - 320
Email: jst@tnu.edu.vn 319
Hai là, thu nhập của người lao động thấp hơn
rất nhiều lãnh đạo quản lý đã tạo ra sự phân
hóa ngày càng rõ giữa các tầng lớp lao động
trong doanh nghiệp, bên cạnh đó việc sử dụng
nhiều lao động và thu nhập của người lao
động làm việc trong các doanh nghiệp FDI
cao hơn dẫn tới sự cạnh tranh, mất cân đối
giữa doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp
khác. Đồng thời, do yêu cầu không cao về
trình độ lao động, nên đã thu hút nhiều lao
động ở khu vực nông thôn, lao động phổ
thông, gây ảnh hưởng đến chất lượng nguồn
lao động của tỉnh, gây khó khăn, lãng phí cơ
sở vật chất đối với các nhà trường đào tạo
nguồn nhân lực (tỉnh Thái Nguyên, đặc biệt là
Đại học Thái Nguyên là trung tâm đào tạo
lớn của cả nước, nhưng những cơ sở này
không tham gia nhiều trong việc đào tạo
nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp FDI),
bên cạnh đó do chuyển dịch lao động ở khu
vực nông thôn lớn gây mất cân đối giữa lao
động ở khu vực nông thôn. Mặt khác, lao
động làm cho các doanh nghiệp FDI đến một
độ tuổi nhất định sẽ không còn khả năng để
tương thích với yêu cầu của công việc (sức trẻ
và sự tinh nhanh), đồng thời lao động được
tuyển dụng ồ ạt, sau một thời gian nếu tự
nguyện nghỉ, hết hợp đồng lao động sẽ khó bố
trí công việc cho các đối tượng này.
Ba là, do các khu công nghiệp ngày càng phát
triển, các doanh nghiệp FDI sử dụng nhiều
lao động lớn, dẫn tới lực lượng lao động trên
cả nước chuyển dịch về tỉnh Thái Nguyên
ngày càng lớn (gần 100 nghìn lao động), dẫn
tới áp lực về cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng
giao thông, điện, nước; nhà ở xã hội, nhà trọ;
ô nhiễm môi trường; tệ nạn xã hội, an ninh
trật tự, cơ sở y tế, giáo dục gây ảnh hưởng
đến môi trường đầu tư của tỉnh.
Bốn là, công tác giải phóng mặt bằng khu công
nghiệp và khu tái định cư vẫn còn gặp khó khăn
và chưa đáp ứng ngay được yêu cầu về mặt
bằng sạch của các nhà đầu tư nước ngoài, đồng
thời cũng chưa đáp ứng ngay được yêu cầu tái
định cư của người dân có đất bị thu hồi do ngân
sách giải phóng mặt bằng phụ thuộc chủ yếu
vào nguồn nguồn tiền ứng trước, tiền thuê đất
có hạ tầng nộp một lần của các doanh nghiệp
thứ cấp vào khu công nghiệp.
5. Đề xuất một số giải pháp trong thời gian tới
Một là, các cấp ủy, chính quyền thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ
Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế,
chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp
tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030; Nghị
quyết 09-NQ/TU ngày 29/3/2019 về cải thiện
môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI); tăng cường đối thoại
để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc triển khai các dự án đã được
cấp giấy chứng nhận đầu tư; thường xuyên tổ
chức các hội nghị xúc tiển đầu tư với các nhà
đầu tư và đại diện các tổ chức quốc tế đang
hoạt động trong nước, chú trọng các hoạt động
xúc tiến đầu tư tại chỗ theo định hướng tiết
kiệm, hiệu quả; có các hạng mục các dự án,
các chính sách ưu đãi, công khai các quy
hoạch thu hút đầu tư vào các lĩnh vực có tiềm
năng, thế mạnh của tỉnh như: công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ đặc biệt là có lực
lượng lao động chất lượng cao của tỉnh để các
nhà đầu tư có cơ hội lựa chọn. Đồng thời, đẩy
mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý, điều hành; đảm
bảo an ninh trật tự; sớm đưa trung tâm hành
chính công của tỉnh vào hoạt động
Hai là, tập trung phát triển vùng phía Nam
Thái Nguyên trở thành một trung tâm công
nghiệp nhờ vào lợi thế kết nối giao thông
thuận lợi với vùng Hà Nội và sân bay Nội
Bài, cũng như lợi thế hiện hữu với sự hiện
diện của Samsung Thái Nguyên, các nhà cung
cấp (vendor) và các doanh nghiệp FDI khác.
Đồng thời, tạo ra thêm nhiều cơ hội rõ ràng
hơn để kích thích nguồn vốn đầu tư của khu
vực tư nhân, trong đó ưu tiên lĩnh vực cơ sở
hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông vùng
phía Nam tỉnh Thái Nguyên [5]. Trong bối
cảnh nguồn lực ngân sách có giới hạn, sự huy
động nguồn lực từ khu vực tư nhân, đặc biệt
là các nhà đầu tư phát triển hạ tầng công
nghiệp. Đẩy mạnh liên doanh, liên kết giữa
doanh nghiệp trong nước với danh nghiệp
FDI. Đồng thời, cần tận dụng triệt để những
cơ hội mà các dự án đầu tư FDI mang lại, đặc
biệt là Tổ hợp công nghệ cao Samsung Thái
Nguyên, qua đó tận dụng được “Samsung” để
“Samsung” trở thành đòn bẩy phát triển, đồng
thời giúp các doanh nghiệp trong nước tham
gia phát triển ngành công nghiệp phụ trợ; tạo
ra sự lan tỏa tích cực và bền vững để phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Bốn là, mặc dù khu vực FDI có sự đóng góp
Nguyễn Xuân Quang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 313 - 320
Email: jst@tnu.edu.vn 320
rất lớn vào kinh tế xã hội của tỉnh, nhưng hiện
nay số doanh nghiệp trong nước chiếm tới
97% về tổng số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
và có số lao động chiếm gần 50% tổng số lao
động; bên cạnh đó khu vực sản xuất công
nghiệp địa phương (doanh nghiệp FDI chiếm
trên 92%) không đóng góp nhiều vào giá trị
sản xuất công nghiệp nhưng có tác động lớn
đến đời sống của người lao động. Do đó bên
cạnh việc quan tâm ưu đãi đối với các doanh
nghiệp FDI cũng cần quan tâm ưu đãi đối với
các doanh nghiệp trong nước có sử dụng nhiều
lao động, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt
động trong các nhóm ngành nông nghiệp công
nghệ cao, ngành chế biến thực phẩm sử dụng
nguyên liệu sẵn có của địa phương.
Năm là, tăng cường công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động đầu tư sau cấp phép;
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát theo quy định của pháp luật về đầu tư và
chuyên ngành như Thuế, Bảo hiểm xã hội đối
với doanh nghiệp FDI, tránh trốn thuế,
chuyển giá, nợ đọng bảo hiểm xã hội, ô nhiễm
môi trường gây thiệt hại ngân sách nhà
nước và gây thiệt thòi cho người lao động; đa
dạng hóa các hình thức đầu tư để huy động và
nâng tỷ trọng của vốn FDI vào lĩnh vực phát
triển cơ sở hạ tầng (giao thông, điện nước,
trường học), tỉnh tiếp tục khuyến khích đầu tư
theo hình thức BT, BOT, mô hình đầu tư hợp
tác công tư (PPP).
Sáu là, sự phát triển của Tỉnh phụ thuộc rất
nhiều vào chất lượng nguồn nhân lực tại chỗ
cũng như khả năng thu hút lao động chất
lượng cao từ ngoại tỉnh. Tỉnh cần xem xét và
cơ cấu lại hoạt động đào tạo trên địa bàn theo
hướng nhấn mạnh các kỹ năng và kiến thực
thực chất, đồng thời các đơn vị đào tạo trên
địa bàn tỉnh, nhất là Đại học Thái Nguyên cần
nghiên cứu thị trường, hợp tác đào tạo với các
doanh nghiệp; hướng tới trang bị cho sinh
viên các nền tảng cơ bản để có thể thích ứng
với mọi ngành nghề và môi trường, tác phong
công nghiệp khác nhau.
6. Kết luận
Qua nghiên cứu về tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Thái Nguyên trong thời gian qua cho
thấy tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với phát triển của tỉnh góp phần
quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt
động xuất khẩu, tăng thu ngân sách cho địa
phương, đặc biệt là thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế và giải quyết việc làm cho người lao động.
Bên cạnh tác động tích cực, thì đầu tư trực
tiếp nước ngoài cũng còn những hạn chế và
thách thức đã đề cập tới. Do vậy để khai thác
tận dụng các dòng vốn FDI đóng góp vào
phát triển bền vững của tỉnh Thái Nguyên,
tỉnh Thái Nguyên cần quan tâm đến hoàn
thiện công tác quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ
tầng nhất là hạ tầng giao thông và hạ tầng các
khu, cụm công nghiệp; cải thiện môi trường
đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh
của tỉnh. Tập trung thu hút, chọn lọc các dự án
có chất lượng, áp dụng công nghệ cao, thân
thiện với môi trường, sản phẩm cạnh tranh cao,
tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, để sớm đưa
tỉnh Thái Nguyên phát triển nhanh và bền
vững, phấn đấu đến năm 2030 trở thành thành
phố trực thuộc Trung ương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1]. M. T. Nguyen, “The impact of FDI on the
Vietnamese economy in recent years,”
Journal of Economic Management, vol. 35,
pp. 47-52, 2010.
[2]. Thai Nguyen provincial Party Committee,
Draft Political Report of Thai Nguyen
provincial Party Executive Committee term
XIX (the 2020-2025 Tenure), 2020.
[3]. Thai Nguyen provincial People's Committee,
Report on the project "Enhancing the
competitiveness of Thai Nguyen province and
the role of Samsung," 2019.
[4]. The Union of Science Associations of Thai
Nguyen Province, Identify and provide
solutions to promote Thai Nguyen's economy in
order to develop sustainably until 2025, with a
vision to 2030, 2019.
[5]. C. T. Tran, and X. Q. Nguyen, Solutions for
sustainable development of industrial parks in
Song Cong town, Thai Nguyen province, Thai
Nguyen University of Economics and
Business Administration, 2012.
[6]. Thai Nguyen provincial People's Committee,
Report on evaluation of the performance of
political missions in the period of 2015-2020,
objectives, tasks and solutions in the period
2020-2025, 2019.
[7]. Thai Nguyen Statistics office, Thai Nguyen
Statistical Yearbook 2018, 2019.
[8]. Thai Nguyen provincial Party Executive
Committee, Political Report at 19th provincial
Party Congress, term 2015-2020, 2015.
[9]. T. H. Nguyen, “Foreign direct investment and
its impacts on the economy of Thai Nguyen
province,” Journal of Financial, vol. 715, no.
2, pp. 100-105, October 2019.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dong_gop_quan_trong_cua_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_den_phat.pdf