Động mạch vành độc nhất: Phân loại và ý nghĩa lâm sàng
Động mạch vành độc nhất thường không có triệu
chứng nhưng cũng có thể gây ra đau thắt ngực không
ổn định, thiếu máu cơ tim, rối loạn nhịp tim, ngất, thậm
chí là đột tử tùy thuộc giải phẫu, sự hiện diện cũng như
mức độ nghiêm trọng của xơ vữa động mạch [7]. Thiếu
máu cục bộ cơ tim hoặc đột tử thường liên quan đến
type ‘’B”. Do nguy cơ tử vong đột ngột ở bệnh nhân có
động mạch vành bất thường đi giữa động mạch chủ và
động mạch phổi, phẫu thuật bắc cầu động mạch vành
rất hữu ích ngay cả khi bệnh nhân không có hẹp động
mạch vành do xơ vữa.
Nghiên cứu của chúng tôi có tới 32/43 trường hợp
(chiếm 74,4%) động mạch vành độc nhất đi kèm với
các bệnh lý tim bẩm sinh khác. Đối với bệnh lý Fallot
4 và các bệnh tim bẩm sinh hẹp đường ra thất phải có
động mạch vành đi trước động mạch phổi ( loại “A”)
sẽ gây khó khăn rất lớn cho phẫu thuật sửa chữa toàn
bộ bệnh lý này do phẫu thuật viên sẽ phải mở rộng
phần phễu thất phải (là phần có động mạch vành đi ở
phía trước) vì vậy có nguy cơ cắt phải động mạch vành
bất thường gây chảy máu và nhồi máu cơ tim. Còn đối
với bệnh tim bẩm sinh đảo gốc động mạch thì động
mạch vành độc nhất sẽ là một thách thức rất lớn đối
với phẫu thuật viên khi phải phẫu thuật chuyển lại gốc
động mạch vành.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Động mạch vành độc nhất: Phân loại và ý nghĩa lâm sàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201936
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐỘNG MẠCH VÀNH ĐỘC NHẤT:
PHÂN LOẠI VÀ Ý NGHĨA LÂM SÀNG
Single coronary artery: classification and clinical
significance
Trần Tiến Mạnh*, Trần Thúy Hồng*, Đào Kim Phượng*
* Khoa Chẩn đoán hình ảnh
Bệnh viện Tim Hà Nội
Objectives: To evaluate ratio and classification single coronary
artery in the MSCT cardiac.
Material and Methods: Prospective study of 9,868 patients who
had scanner MSCT cardiac in Ha Noi Heart Hospital from February,
2015 to September, 2017.
Results: The study included 9,868 patients, 43 patients (0,44%) had
single coronary artery. 11/43 patients (25,6%) had single coronary artery
were isolated. 32/43 patients (74,4%) associated had congenital heart
diseases other: 7 patients had Fallot 4, 3 patients had truncus arteriosus, 2
patients had pulmonary atresia, 1 patient had double outlet right ventricle,
1 patient had double discordance and 18 patients had complex congenital
heart diseases. Included 43 patients had single coronary artery: 16/43
patients ( 37%) in the type R, 25/43 patients (58%) in the type L and 2/43
patients (5%) not in the current classification who had singler coronary
artery high takeoff from truncus brachiocephalic artery. Type L I was 5%,
type L II – A: 21%, type L II – B: 18%, type L II – P: 14%, type R II – A:
18%, type R II – B: 12%, type R II – P: 5% and type R III: 2%.
Conclusions: Singler coronary artery is a rare congenital anomaly.
MDCT cardiac is a non-invasive technique, reliable, that provides
accurate information about coronary artery anatomy well as other
complex congenital heart diseases. Single coronary artery is a great
challenge for surgery to repair the entire congenital heart disease that
accompanies it.
Keyword: Coronary artery anomalies, Single coronary artery,
Coronary angiography, Congenital heart, Surgery congenital heart.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 37
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Động mạch vành độc nhất là một bất thường bẩm
sinh rất hiếm gặp, trong đó toàn bộ hệ thống động mạch
vành phát sinh từ một thân đơn độc. Tần suất 0,024 –
0,066% trong dân số qua chụp động mạch vành qua da
và giải phẫu tử thi [1,3]. Tỉ lệ gặp cao hơn ở các bệnh
nhân có bất thường tim bẩm sinh như: Fallot 4, thân
chung động mạch, đảo gốc động mạch, teo phổi... [2,4].
Mặc dù các bất thường động mạch vành là tương
đối hiếm gặp nhưng chúng là nguyên nhân thứ hai gây
đột tử do tim. Ngày nay chụp cắt lớp vi tính đa dãy
được sử dụng ngày càng nhiều trong chẩn đoán hình
ảnh tim mạch, nó có thể cung cấp những thông tin mà
chụp mạch vành qua da không thu thập được, giúp cho
việc phát hiện và giải thích được nhiều bất thường hơn.
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu với hai mục tiêu:
1. Đánh giá tỉ lệ động mạch vành độc nhất.
2. Phân loại động mạch vành độc nhất trên chụp
MSCT tim.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu trên 9.868 bệnh nhân chụp MSCT tim
tại bệnh viện Tim Hà Nội, thời gian từ tháng 02/2015
đến tháng 09/2017.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô
tả cắt ngang.
- Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ tháng
02/2015 đến tháng 09/2017.
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa Chẩn đoán hình
ảnh bệnh viện Tim Hà Nội.
- Phương tiện nghiên cứu: Máy chụp MSCT 128
Scenaria (Hitachi), phần mềm xử lý hình ảnh chuyên
dụng Terarecon.
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm phân bố
- Trong 9.868 bệnh nhân được chụp MSCT tim
phát hiện 43 bệnh nhân có động mạch vành độc nhất
chiếm tỉ lệ 0,44%.
- Tỉ lệ nam/nữ = 1/1.
- Tuổi nhỏ nhất là 01 tháng tuổi, nhiều tuổi nhất
là 84 tuổi.
Biểu đồ 1. Phân bố tổn thương động mạch vành độc nhất
Nhận xét: 74,4% động mạch vành độc nhất đi kèm với bệnh lý tim bẩm sinh. Chỉ có 25,6 % động mạch vành
độc nhất là tổn thương đơn độc.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201938
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 1. Các bệnh lý tim bẩm sinh phối hợp với động mạch vành độc nhất
Tổn thương TBS phối hợp Số bệnh nhân Tỉ lệ
Fallot 4 7 21,9%
Thân chung động mạch 3 9,4%
Teo phổi 2 6,2%
Thất phải hai đường ra 1 3,1%
Bất tương hợp nhĩ – thất, thất – đại động mạch 1 3,1%
TBS rất phức tạp 18 56,3%
Nhận xét: Động mạch vành độc nhất đi kèm nhiều nhất với bệnh lý tim bẩm sinh rất phức tạp (phối hợp nhiều
bệnh lý), tiếp theo là bệnh Fallot 4 và thân chung động mạch.
2. Đặc điểm về phân loại động mạch vành độc nhất
Biểu đồ 2. Tỉ lệ các type lớn của động mạch vành độc nhất
Nhận xét: 58% động mạch vành độc nhất thuộc type L, 37% thuộc type R và 5% động mạch vành độc nhất
chưa được phân type.
Bảng 2. Phân type nhỏ hơn của động mạch vành độc nhất
Phân nhóm Số bệnh nhân Tỉ lệ
L I 2 5%
L II 23 56%
R I 0 0%
R II 15 37%
R III 1 2%
Nhận xét: Type L II là hay gặp nhất chiếm tỉ lệ 56%, tiếp theo là type R II (37%), chúng tôi không gặp bệnh
nhân nào thuộc type R I.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 39
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 2. Phân tích dưới nhóm của
động mạch vành độc nhất
Phân nhóm Số bệnh nhân Tỉ lệ
L II - A 9 21%
L II- B 8 18%
L II - P 6 14%
R II - A 8 18%
R II - B 5 12%
R II - P 2 5%
S 0 0%
C 0 0%
Nhận xét: Type L II – A gặp nhiều nhất (chiếm
21%), tiếp đó là type L II – B và R II – A (chiếm 18%),
type L II – P chiếm 14%, type R II – B chiếm 12%, type
R II – P chiếm 5%.
IV. BÀN LUẬN
Động mạch vành độc nhất là tổn thương rất hiếm
gặp, tần suất 0,024% - 0,066% trong dân số qua chụp
động mạch vành qua da [1,3]. Nghiên cứu của chúng tôi
tần suất gặp động mạch vành độc nhất là 0,44% cao hơn
nhiều các tác giả khác như L.J.Zhang (0,05%) hay Horan
P.G (0,035%) [8], có thể do bệnh viện Tim Hà Nội là bệnh
viện chuyên khoa về tim mạch nên khả năng gặp bệnh lý
động mạch vành cao hơn các trung tâm khác.
Các hình thái giải phẫu của động mạch vành độc
nhất lần đầu tiên được Lipton và cộng sự phân loại vào
năm 1979. Sau đó được Yamanaka và Hobbs cải tiến
vào năm 1990 [1,6]. Trước tiên dựa vào vị trí xuất phát
của động mạch vành, động mạch vành được chia làm
hai type lớn: Type R, động mạch vành độc nhất xuất
phát từ xoang Valsalva phải và type L, động mạch vành
độc nhất xuất phát từ xoang Valsalva trái. Tiếp theo dựa
vào đường đi của các nhánh động mạch mà động mạch
vành độc nhất được chia thành các type nhỏ hơn. Type
I: động mạch vành độc nhất theo đường đi của RCA,
sau đó phân chia thành LAD và LCX hoặc thân chung
động mạch vành trái (LM) độc nhất phân chia thành
LAD và LCX, sau đó phần tận cùng của LCX đi vào
rãnh nhĩ thất phải hình thành nên RCA. Type II: sau
khi xuất phát, thân chung động mạch vành chia thành
RCA và LM, sau đó đi theo hướng bình thường của
chúng. Type III: LAD và LCX có nguyên ủy khác nhau,
cùng xuất phát từ đoạn gần của RCA, chúng có đường
đi ít giống với đường đi của hệ động mạch vành bình
thường. Cuối cùng dựa vào đường đi và mối liên quan
với động mạch chủ và động mạch phổi mà phân thành:
“A” đi trước động mạch chủ và động mạch phổi, “B”
kẹp giữa động mạch chủ và động mạch phổi, “P” đi sau
động mạch chủ và động mạch phổi, “S” đi trong thành
vách liên thất, “C” khi có kết hợp các dạng trên.
Trong nghiên cứu của chúng tôi type L II - A là gặp nhiều nhất (9/43 trường hợp) tiếp theo là type L II - B và R
II - A (8/43 trường hợp).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201940
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Chúng tôi gặp 02 trường hợp động mạch vành độc nhất chưa được phân loại đó là động mạch vành độc nhất
xuất phát cao từ thân động mạch cánh tay đầu kèm theo bệnh tim bẩm sinh tâm thất độc nhất, thân chung động mạch.
Động mạch vành độc nhất thường không có triệu
chứng nhưng cũng có thể gây ra đau thắt ngực không
ổn định, thiếu máu cơ tim, rối loạn nhịp tim, ngất, thậm
chí là đột tử tùy thuộc giải phẫu, sự hiện diện cũng như
mức độ nghiêm trọng của xơ vữa động mạch [7]. Thiếu
máu cục bộ cơ tim hoặc đột tử thường liên quan đến
type ‘’B”. Do nguy cơ tử vong đột ngột ở bệnh nhân có
động mạch vành bất thường đi giữa động mạch chủ và
động mạch phổi, phẫu thuật bắc cầu động mạch vành
rất hữu ích ngay cả khi bệnh nhân không có hẹp động
mạch vành do xơ vữa.
Nghiên cứu của chúng tôi có tới 32/43 trường hợp
(chiếm 74,4%) động mạch vành độc nhất đi kèm với
các bệnh lý tim bẩm sinh khác. Đối với bệnh lý Fallot
4 và các bệnh tim bẩm sinh hẹp đường ra thất phải có
động mạch vành đi trước động mạch phổi ( loại “A”)
sẽ gây khó khăn rất lớn cho phẫu thuật sửa chữa toàn
bộ bệnh lý này do phẫu thuật viên sẽ phải mở rộng
phần phễu thất phải (là phần có động mạch vành đi ở
phía trước) vì vậy có nguy cơ cắt phải động mạch vành
bất thường gây chảy máu và nhồi máu cơ tim. Còn đối
với bệnh tim bẩm sinh đảo gốc động mạch thì động
mạch vành độc nhất sẽ là một thách thức rất lớn đối
với phẫu thuật viên khi phải phẫu thuật chuyển lại gốc
động mạch vành.
Hình 3D bệnh nhân nữ 66 tuổi động
mạch vành độc nhất type L II - A.
Hình 3D bệnh nhân nữ 11tuổi động mạch vành độc nhất xuất phát cao
từ thân động mạch cánh tay đầu.
Hình 3D bệnh nhân nam 65 tuổi động
mạch vành độc nhất type L II - B, kèm
xơ vữa vôi hóa gây hẹp nhiều LAD II.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 41
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
V. KẾT LUẬN
Động mạch vành độc nhất là một bất thường bẩm
sinh rất hiếm gặp. Chụp MSCT tim là một thủ thuật
không xâm lấn cung cấp thông tin chính xác về giải
phẫu động mạch vành cũng như các bệnh tim bẩm sinh
phức tạp khác. Do nguy cơ tử vong đột ngột ở bệnh
nhân có động mạch vành độc nhất kẹp giữa động mạch
chủ và động mạch phổi, phẫu thuật bắc cầu động mạch
vành được đặt ra ngay cả khi bệnh nhân không có hẹp
mạch vành do xơ vữa. Động mạch vành độc nhất sẽ là
một thách thức rất lớn đối với phẫu thuật sửa chữa toàn
bộ bệnh lý tim bẩm sinh đi kèm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lipton M J et al. Isolated single coronary artery: diagnosis, angiographic classification, and clinical significance.
Radiology 1979. Vol 130, 39-47.
2. Yurtdas M, Gulen O. Anomalour origin of the right coronary artery from the left anterior descending artery:
review of the literature. Cardiol J. 2012; 19: 122 – 129.
3. Desmet W, Vanhaecke J, Vrolix M, et al.Isolated single coronary artery: a reviewof 50 000 consecutive coronary
angiographies. Eur Heart J 1992;13:1637–40.
4. Roberts WC. Major anomalies of coronary arterial origin see in adulthood. Am Heart J. 1986; 111: 941 – 963.
5. Akcay A, Tuncer C, Batyralıev T, et al.Isolated single coronary artery: a series of 10 cases. Circ J 2008;72:1254–8.
6. Yamanaka O, Hobbs RE. Coronary artery anomalies in 126,595 patients undergoing coronary arteriography.
Cathet CardiovascDiagn 1990;21:28–40.
7. Yusuf Atmaca et al. A Rare Variant of Single Coronary Artery and Non-Obstructive Hypertrophic Cardiomyopathy.J
Invasive Cardiol 2002 .14 (8):469-470.
8. Horan P G et al. Single coronary artery: a familial clustering. Heart 2003;89 e 27.
Hình 3D ở bệnh nhân Fallot 4 có động mạch vành độc nhất đi trước động mạch phổi.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201942
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tỉ lệ và phân loại động mạch vành độc nhất trên chụp MSCT tim.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu trên 9.868 bệnh nhân chụp MSCT tim tại bệnh viện Tim Hà Nội, thời gian từ
tháng 02 năm 2015 đến tháng 09 năm 2017.
Kết quả: Trong tổng số 9.868 bệnh nhân, có 43 bệnh nhân động mạch vành độc nhất chiếm tỉ lệ 0,44%. 11/43 bệnh nhân
(25,6%) động mạch vành độc nhất là tổn thương đơn độc. 32/43 bệnh nhân (74,4%) động mạch vành độc nhất phối hợp với các
bệnh lý tim bẩm sinh khác bao gồm: 7 bệnh nhân Fallot 4, 3 bệnh nhân thân chung động mạch, 2 bệnh nhân teo phổi, 1 bệnh
nhân thất phải hai đường ra, 1 bệnh nhân bất tương hợp nhĩ – thất, thất – đại động mạch và 18 bệnh nhân tim bẩm sinh rất phức
tạp khác. Trong 43 bệnh nhân động mạch vành độc nhất: 25/43 bệnh nhân (58%) thuộc type L, 16/43 bệnh nhân (37%) thuộc
type R và 2/43 bệnh nhân (5%) không thuộc hệ thống phân loại hiện hành. Type L I chiếm 5%, type L II – A 21%, type L II – B
18%, type L II – P 14%, type R II – A 18%, type R II – B 12%, type R II – P 5% và type R III chiếm 2%.
Kết luận: Động mạch vành độc nhất là một bất thường bẩm sinh rất hiếm gặp. Chụp MSCT tim là một thủ thuật không
xâm lấn, đáng tin cậy, cung cấp thông tin chính xác về giải phẫu động mạch vành cũng như các bệnh tim bẩm sinh phức tạp
khác. Động mạch vành độc nhất sẽ là một thách thức rất lớn đối với phẫu thuật sửa chữa toàn bộ bệnh lý tim bẩm sinh đi kèm.
Từ khóa: Bất thường động mạch vành, động mạch vành độc nhất, chụp can thiệp động mạch vành, tim bẩm sinh, phẫu
thuật tim bẩm sinh.
Ngày nhận bài: 20/3/2019. Ngày chấp nhận đăng: 20/4/2019
Người liên hệ: Trần Tiến Mạnh khoa CĐHA bệnh viện Tim Hà Nội. Email:manhtientran1986@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dong_mach_vanh_doc_nhat_phan_loai_va_y_nghia_lam_sang.pdf