Phương pháp t-z cho phép sử dụng quan
hệ phi tuyến giữa sức kháng của đất và chuyển vị
đã xác định trong quá trình thí nghiệm cọc TDTN
và xét đến một số ảnh hưởng đối với sức chịu tải
và biến dạng của cọc do tác động của thay đổi
đường kính cọc. Kết quả áp dụng cho thấy
phương pháp này cho kết quả chính xác hơn so
với phương pháp của Lizzi. Tuy vậy trong thí
nghiệm cọc TDTN cần phân tách các thành phần
sức chịu tải do ma sát và sức chống dưới mũi
cọc để có thể áp dụng phương pháp t-z.
Trong điều kiện thực tế hiện nay, nên tuân
thủ quy định về tỷ số d/D0,5 giữa đường kính
cọc TDTN và cọc thực của EN 1997. Trong thiết
kế nên tăng hệ số an toàn khi sử dụng các kết
quả ngoại suy sức chịu tải của cọc.
8 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 724 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dự báo quan hệ tải trọng – độ lún của cọc từ kết quả nén tĩnh cọc tiết diện thu nhỏ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA KỸ THUẬT - TRẮC ĐỊA
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 68
DỰ BÁO QUAN HỆ TẢI TRỌNG – ĐỘ LÚN CỦA CỌC TỪ
KẾT QUẢ NÉN TĨNH CỌC TIẾT DIỆN THU NHỎ
TS. TRỊNH VIỆT CƯỜNG
Viện KHCN xây dựng
ThS. ĐOÀN NGUYÊN QUYỀN
Công ty COSCO
Tóm tắt: Việc thực hiện thí nghiệm nén tĩnh
cọc tải trọng lớn tiềm ẩn nguy cơ gây mất an
toàn, thời gian thực hiện kéo dài và chi phí thí
nghiệm cao. Trong một số trường hợp, khi cọc có
sức chịu tải quá cao hoặc khi điều kiện mặt bằng
thi công không thuận lợi thì một trong những giải
pháp có thể áp dụng trong trường hợp này là thực
hiện thí nghiệm cọc tiết diện thu nhỏ (TDTN) để
thu thập số liệu nhằm dự báo sức chịu tải của cọc
tiết diện lớn hơn sẽ sử dụng cho công trình.
Báo cáo này tóm tắt tình hình nghiên cứu về
cọc TDTN ở nước ngoài và trình bày một số kết
quả bước đầu về đánh giá khả năng sử dụng
phương pháp này trong khảo sát phục vụ thiết kế
móng cọc ở Việt Nam.
1. Mở đầu
Nén tĩnh cọc được đánh giá là phương pháp
đáng tin cậy nhất để xác định quan hệ tải trọng –
độ lún của cọc, vì vậy thí nghiệm này được yêu
cầu thực hiện trong hầu hết các tiêu chuẩn thiết
kế móng cọc ở trong và ngoài nước. Khi tải trọng
thí nghiệm không lớn thì việc thực hiện có thể
được tiến hành tương đối dễ dàng, tuy vậy khi tải
trọng nén lên đến hàng nghìn tấn thì việc tạo đối
tải bằng cách chất quả nặng hoặc neo là công
việc khó khăn, tốn kém và tiềm ẩn nguy cơ mất
an toàn cho người, thiết bị và các công trình lân
cận.
Một trong những hướng giải quyết những khó
khăn kể trên là thực hiện thí nghiệm trên những
cây cọc tiết diện thu nhỏ. Đây là những cây cọc
mô hình có hầu hết các đặc trưng giống như cọc
thực (được tạo bằng cùng loại vật liệu, có cùng
chiều dài, hạ trong cùng điều kiện đất nền bằng
biện pháp thi công như nhau), riêng đường kính
cọc nhỏ hơn so với cọc sẽ sử dụng cho công
trình. Do sức kháng của cọc tiết diện thu nhỏ
(TDTN) thấp hơn rất nhiều so với sức kháng của
cọc thực nên việc thí nghiệm gia tải cọc được
thực hiện dễ dàng hơn, có thể nén cọc đến phá
hoại – điều khó có thể thế thực hiện đối với các
cọc đường kính lớn, chi phí cho thí nghiệm thấp
hơn và tiến độ thực hiện nhanh hơn. Các số liệu
thu được từ thí nghiệm cọc TDTN có thể được sử
dụng làm cơ sở để dự báo ứng xử của những
cây cọc có tiết diện lớn hơn.
Bài báo này trình bày một số kết quả áp dụng
cọc thử TDTN ở nước ngoài và thử nghiệm để
đánh giá khả năng áp dụng ở Việt Nam.
2. Một số nghiên cứu hiện có về thí nghiệm
cọc tiết diện thu nhỏ
Mặc dù ứng dụng cọc thí nghiệm TDTN có
thể mang lại nhiều lợi ích về kỹ thuật và kinh tế
nhưng đến nay việc áp dụng phương pháp này
còn hạn chế và trong các tiêu chuẩn chưa có
những quy trình chuyển đổi kết quả thí nghiệm
sang những cây cọc lớn hơn. Một số lượng còn
hạn chế những nghiên cứu có liên quan đến cọc
TDTN ở nước ngoài đã được công bố trong [5],
[6], [8] và [9]. Một số kết quả áp dụng trong điều
kiện Việt Nam được trình bày trong bài báo này.
2.1 Nghiên cứu của Lizzi [8]
Đối với cọc khoan nhồi chịu tải chủ yếu do
ma sát, Lizzi (1983) đề xuất xác định quan hệ tải
trọng – độ lún của cây cọc lớn hơn bằng cách
nhân tải trọng trong biểu đồ tải trọng – độ lún của
cọc TDTN với tỷ số D/d, trong đó D và d lần lượt
là đường kính của cây cọc lớn hơn và của cọc
TDTN. Hình 1 thể hiện 2 ví dụ về chuyển đổi kết
quả thí nghiệm cọc TDTN sang cọc thực:
- Trường hợp 1 (hình 1a): Sử dụng số liệu
nén tĩnh cây cọc d = 25 cm để dự báo quan hệ tải
trọng - độ lún của cây cọc D = 80 cm (tỷ số D/d =
3,2). Kết quả tính toán cho thấy có sự chênh lệch
đáng kể về chuyển vị giữa biểu đồ tính toán và
biểu đồ nén tĩnh của cây cọc D = 80cm, tuy vậy
mức độ chênh lệch về sức kháng giới hạn chỉ vào
khoảng 7%.
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 69
- Trường hợp 2 (hình 1b): Kết quả nén
tính cọc khoan nhồi d = 1,5m được dùng để
dự báo quan hệ tải trọng - độ lún của cây
cọc D = 2m (tỷ số D/d = 1,33). Trong trường
hợp này kết quả rất phù hợp với thực thực
tế.
a) Trường hợp d/D<0,5
b) Trường hợp d/D>0,5
Hình 1. So sánh kết quả tính toán với thí nghiệm nén tĩnh (theo [8])
2.2 Nghiên cứu của Bhoye [6]
Ở Ấn Độ, Bhoye và nnk (2015) đã thí nghiệm
nén tĩnh cọc khoan nhồi với đường kính 400 mm,
500 mm và 600 mm ngàm vào đá và lấy đó làm
cơ sở để thiết lập tương quan giữa đường kính
và sức chịu tải của cọc tại hiện trường xây dựng
hệ thống tàu điện ngầm Chunabahatti (Mumbai).
Do trạng thái của nền đá biến động mạnh nên
tương quan được lập cho 2 mức độ ngàm cọc
trong đá phong hóa, tương ứng với cận trên và
cận dưới của sức chịu tải của cọc (hình 2). Các
tương quan dạng này mang tính địa phương, chỉ
áp dụng cho một số điều kiện xác định của cọc,
nền và biện pháp thi công.
Hình 2. Quan hệ Sức chịu tải – đường kính cọc ở Mumbai (theo Bhoye, 2015)
2.3 Yêu cầu đối với cọc TDTN trong một số
tiêu chuẩn và tài liệu chuyên ngành
Đến nay việc sử dụng cọc TDTN phục vụ thiết
kế móng cọc mới được chấp nhận trong một số ít
các tiêu chuẩn và tài liệu chuyên ngành Địa kỹ
thuật ở Châu Âu.
Tiêu chuẩn Nga GOST 5686-2012 [1] quy
định việc áp dụng kết quả thí nghiệm cọc mô hình
ĐỊA KỸ THUẬT - TRẮC ĐỊA
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 70
bằng thép để dự báo sức chịu tải của cọc. Cọc
thử tiêu chuẩn có đường kính 114 mm, chiều
dài 12 m và có khả năng phân tách các thành
phần sức kháng do ma sát bên, fsp, và sức chống
dưới mũi, Rsp. Các tiêu chuẩn thiết kế móng cọc
của Liên Xô trước kia và của Nga hiện nay [2]
hướng dẫn cụ thể việc chuyển đổi kết quả thí
nghiệm cọc mô hình, bao gồm fsp và Rsp, sang
sức kháng của cọc kích thước thực.
Hướng dẫn về móng cọc của Hội địa kỹ thuật
Đức DGGT [4] chấp nhận lấy kết quả thí nghiệm
cọc TDTN để đánh giá sức chịu tải của cọc lớn
hơn. Các điều kiện để áp dụng là: a) Tỷ số
d/D0,5; b) Chỉ áp dụng để dự báo sức chịu tải
của cọc có D0,8 m; c) Cọc TDTN phải có d0,5
m.
Ở điều 7.6.2.2.4 của Eurocode 7 [3] đã
khuyến cáo thực hiện nén tĩnh cọc tiết diện thu
nhỏ, với các điều kiện: a) Tỷ số d/D0,5; b) Cọc
TDTN được chế tạo và được hạ giống như cọc
sẽ dùng cho công trình; c) Cọc TDTN được gắn
các thiết bị đo nhằm phân tách ma sát và sức
chống dưới mũi cọc.
Có thể nhận xét là các cọc mô hình của Nga
có chiều dài hạn chế nên không thích hợp với
những khu vực có nền đất yếu với chiều dày lớn
hơn chiều dài cọc mô hình. Các quy định của
Eurocode 7 về cọc TDTN mở hơn so với Hướng
dẫn của DGGT. Tuy vậy DGGT và Eurocode 7
chỉ nêu những quy định đối với cọc TDTN nhưng
không đưa ra hướng dẫn cho việc xử lý kết quả
thí nghiệm để dự báo sức chịu tải của cọc kích
thước thực.
3. Nghiên cứu áp dụng phương pháp cọc thí
nghiệm TDTN ở Việt Nam
3.1 Thông tin chung
Các đô thị lớn và các vùng trọng điểm kinh tế
chủ yếu của Việt Nam nằm trên những khu vực
có nền đất được hình thành từ trầm tích sông
hoặc sông biển hỗn hợp, trong đó có những lớp
sét yếu với bề dày vài mét đến vài chục mét. Cọc
thường được hạ qua những lớp đất yếu và tựa
vào những lớp đất có sức chịu tải cao như sét
cứng, cát chặt, cuội sỏi hoặc đá. Phần lớn các thi
nghiệm nén tĩnh cọc được thực hiện bằng cách
gia tải và đo độ lún tại đầu cọc nên không phân
tách được thành phần ma sát và sức kháng dưới
mũi cọc. Một số lượng hạn chế các thí nghiệm đo
phân bố lực dọc thân cọc khoan nhồi trong quá
trình thử tĩnh đã cho thấy đa số các cọc sử dụng
cho công trình xây dựng ở Việt Nam hiện nay là
cọc ma sát. Ở cấp tải trọng làm việc thì sức
kháng dưới mũi cọc khoan nhồi thường chiếm
dưới 10% tổng sức kháng của cọc, kể cả một số
trường hợp mũi cọc khoan nhồi đã được xử lý
bằng phương pháp xói rửa và bơm vữa dưới mũi
[7].
Ở Việt Nam cho đến nay chưa có những thực
nghiệm dành riêng cho nghiên cứu hoặc ứng
dụng cọc TDTN. Tại một số công trình đã thực
hiện thí nghiệm nén tĩnh những cọc có đường
kính khác nhau nhưng mục tiêu là để lựa chọn
trong số đó loại cọc có chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật
tốt nhất. Thông thường các cọc thí nghiệm được
bố trí rải rác trên mặt bằng công trình, tuy vậy tại
một số ít công trình đã bố trí cọc thí nghiệm theo
từng cụm, mỗi cụm gồm 1 cây cọc d = 1 m và cây
còn lại D = 1,2 m. Khoảng cách giữa hai cọc
trong mỗi cụm là 6 m đủ để có thể bỏ qua ảnh
hưởng qua lại giữa các cọc nhưng vẫn có thể giả
thiết là chúng nằm trong cùng điều kiện địa chất.
Trong nghiên cứu về khả năng áp dụng cọc
TDTN sau đây sẽ sử dụng số liệu thí nghiệm
những cây cọc có tiết diện nhỏ hơn (được coi là
cọc TDTN) để dự báo sức chịu tải của những cây
cọc lớn hơn (được coi là cọc kích thước thực) ở
cùng điều kiện đất nền. Kết quả tính toán được
so sánh với kết quả nén tĩnh cọc để đánh giá khả
năng áp dụng cọc TDTN trong điều kiện thực tế ở
Việt Nam.
3.2 Áp dụng phương pháp của Lizzi [8]
Nội dung của phương pháp đã được tóm tắt
ở mục 2.1 của bài báo này. Số liệu sử dụng cho
tính toán là quan hệ tải trọng – độ lún ở đầu cọc
TDTN. Xuất phát từ giả thiết sức kháng của cây
cọc chủ yếu do ma sát bên nên trong tính toán
không yêu cầu phân tách thành phần sức chịu tải
do ma sát bên và sức kháng của mũi cọc.
Phân tích được thực hiện với 6 cặp số liệu
nén tĩnh cọc khoan nhồi ở Hà Nội và Đà Nẵng.
Các cây cọc TDTN có d = 0,81,0 m trong khi các
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 71
cây cọc “thực” có D = 1,01,2 m. Tỷ số d/D của
các cặp cọc thí nghiệm thay đổi trong khoảng
0,67 đến 0,83.
Kết quả tính toán được thể hiện dưới dạng
các biểu đồ quan hệ tải trọng – độ lún của các
cọc (hình 3). Trên mỗi biểu đồ thể hiện 3 biểu đồ:
Biểu đồ nén tĩnh của cây cọc TDTN (được lấy
làm số liệu để tính toán), biểu đồ tính toán cùng
với biểu đồ nén tĩnh của cây cọc “thực” để so
sánh. Việc đánh giá mức độ phù hợp giữa kết
quả tính toán so với nén tĩnh được thực hiện
thông qua tỷ số Tải trọng/Độ lún (P/s) ứng với
các cấp 50% và 100% tải trọng nén đã đạt tới khi
thí nghiệm cọc TDTN (bảng 1).
Có thể nhận xét về các kết quả thu được khi
áp dụng phương pháp của Lizzi cho cọc ở 6 hiện
trường:
- Về độ lún của cọc: Các tính toán chuyển
đối từ cọc TDTN sang cọc thực được thực hiện ở
những độ lún tương đối nhỏ (dưới 16 mm) và cọc
chưa đạt tới giới hạn về sức chịu tải. Chưa có đủ
cơ sở để nhận xét vế sự phù hợp giữa kết quả
tính toán với thực nghiệm ở những cấp tải gần
với tải trọng phá hoại;
- Về tý số d/D: 2 biểu đồ tính toán và thực
nghiệm trên hình 3d có sự phù hợp rất tốt mặc dù
tỷ số d/D = 0,67 (thấp nhất). Trong khi đó với tỷ
số d/D = 0,8 nhưng chênh lệch giữa các biểu đồ
trên hình 3b lại cao hơn nhiều. Từ đó có thể nhận
xét là tỷ số d/D không phải là yếu tố duy nhất ảnh
hưởng đến độ chính xác của kết quả tính toán dự
báo. Có thể kể đến những yếu tố ảnh hưởng
khác như độ ổn định của công nghệ thi công cọc
và độ chính xác của công tác thí nghiệm nén tĩnh;
- Về cấp độ tải trọng: Đối với cây cọc ở hiện
trường xây dựng nhà Quốc hội, kết quả tính toán
phù hợp hầu như hoàn toàn khi tải trọng thấp
hơn 800 T (tương ứng với chu kỳ đầu của thí
nghiệm nén tĩnh). Mức độ chênh lệch khá cao ở
các cấp tải trọng lớn hơn, có thể do những bất
thường của số liệu nén tĩnh cây cọc TDTN;
- Về mức độ chênh lệch giữa kết quả tính
toán và nén tĩnh: Kết quả tính toán hầu như trùng
hợp với thí nghiệm cọc ở Trung tâm HNQG (hình
3d), ở Bệnh viện Nhi Trung ương (hình 3g) và ở
SeaBank Đà Nẵng (hình 3c). Mức độ chênh lệch
lớn nhất bằng 21,3% khi đánh giá theo tỷ số Tải
trọng/Độ lún ở cấp tải trọng thiết kế của cọc. Có
thể nhận xét là mức độ chênh lệch như vậy có
thể chấp nhận được cho thiết kế nền móng. Tuy
vậy trong thiết kế nên tăng hệ số an toàn về sức
chịu tải của cọc để dự phòng ảnh hưởng do
những yếu tố chưa lường trước được khi ngoại
suy kết quả thí nghiệm cọc TDTN.
a) Cọc d800 - D1000
b) Cọc d800 - D1000
ĐỊA KỸ THUẬT - TRẮC ĐỊA
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 72
c) Cọc d800 - D1000
d) Cọc d800 - D1200
e) Cọc d1000 - D1200
g) Cọc d1000 - D1200
Hình 3. So sánh biểu đồ tính toán với biểu đồ thu được từ nén tĩnh của cây cọc lớn hơn
Bảng 1. So sánh tỷ số P/s của cọc tính theo phương pháp của Lizzi và nén tĩnh
Đường kính
(m)
Tỷ số P/s, T/m, ở cấp tải
trọng 50%Pmax
Tỷ số P/s , T/m, ở cấp tải
trọng 100%Pmax
STT
Công trình
Chiều
dài (m)
d D d/D
Nén
tĩnh
(A)
Tính
toán
(B)
(A-B)/B
(%)
Nén
tĩnh
(C)
Tính
toán
(D)
(C-D)/D
(%)
1
Bệnh viện da
liễu Trung
ương
48,2 0,8 1,0 0,8 90416 101993 -12,8 62770 56986 -10,1
2 Học viện Quốc tế 50 0,8 1,0 0,8 96121 75615 21,3 63139 77277 18,3
3 SeaBank Đà Nẵng 34 0,8 1,0 0,8 23283 26514 -13.87 11765 12972 -10.26
4 Trung tâm HNQG 42,4 0,8 1,2 0,67 131066 122180 6,8 103298 106508 3,0
5 Nhà Quốc hội 35.7 1,0 1,2 0,83 100823 91598 9.15 45285 31600 30.22
6 Bệnh viện Nhi Trung ương 45,0 1,0 1,2 0,83 161130 156672 2,8 98782 104557 5,5
3.3 Áp dụng phương pháp t-z
Phương pháp t-z thường được sử dụng để
phân tích sự làm việc của cọc đơn chịu tải trọng
dọc trục, đặc biệt khi phải xét đến ứng xử phi
tuyến của cọc và nền. Tính toán được thực hiện
bằng cách chia cọc thành nhiều phần tử chịu tác
động của lực dọc trục, còn sức kháng của nền
được mô phỏng bằng các lò xo thể hiện quan hệ
phi tuyến giữa chuyển vị với ma sát (t-z) và với
sức kháng dưới mũi (q-z). Phương pháp t-z chỉ
có thể áp dụng khi cây cọc TDTN được gắn các
thiết bị để xác định phân bố lực dọc trục trong
quá trình nén tĩnh, qua đó phân tách thành phần
ma sát và sức chống dưới mũi cọc.
Theo các nghiên cứu hiện có thì ma sát bên
ít chịu ảnh hưởng của đường kính nên có thể sử
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 73
dụng trực tiếp biểu đồ t-z xác định được trong thí
nghiệm cọc TDTN trong tính toán cho cây cọc
thực. Riêng quan hệ q-z (sức kháng mũi) của cây
cọc TDTN cần được hiệu chỉnh theo đường kính
do sức chống dưới mũi cọc giảm đi khi đường
kính tăng.
Quá trình dự báo quan hệ tải trọng – độ lún
của cây cọc thực được thực hiện qua các bước:
Bước 1: Xác định các đường t-z và q-z từ
thí nghiệm nén tĩnh cọc có gắn các cảm biến
(hình 4a);
Bước 2: Hiệu chỉnh sức kháng dưới mũi
theo đường kính cọc (Sử dụng quan hệ giữa sức
kháng và bề rộng mũi do Chow [10] kiến nghị):
1- 0,5log(D / 0,036)
q = qp,D p,d1- 0,5log(d / 0,036)
trong đó:
d và D lần lượt là đường kính của cọc
TDTN và của cọc thực, tính bằng mét;
qp,d và qp,D lần lượt là sức kháng dưới
mũi cọc TDTN và cọc thực.
Ảnh hưởng của đường kính đối với sức
kháng dưới mũi cọc là đáng kể. Ví dụ sức kháng
mũi đơn vị xác định cho cây cọc TDTN đường
kính 1 m là dpq , =12,25 MPa, khi chuyển đổi sang
cọc đường kính 1,2 m thì sức kháng mũi hiệu
chỉnh giảm xuống còn:
1- 0,5log(1,2 / 0,036)
q = ×12,25p,D1,2 1- 0,5log(1,0 / 0,036)
= 10,51 (MPa)
Như vậy theo sức chống đơn vị của cọc
đường kính 1,2m thấp hơn khoảng 14% so với
giá trị tương ứng của cọc đường kính 1 m.
Trường hợp hiệu chỉnh sức kháng cho cọc lớn
hơn, ví dụ cho cọc tiết diện 2 m, thì mức độ giảm
sức kháng còn cao hơn, lên tới 55%.
Bước 3: Lập mô hình cọc và nền (hình 4b),
trong đó sử dụng trực tiếp quan hệ t-z thu được
trong thí nghiệm cọc TDTN cùng với sức kháng
mũi hiệu chỉnh ở bước 3;
Bước 4: Tính toán để xác định quan hệ tải
trọng – độ lún của cọc thực (hình 4c).
a) Thí nghiệm cọc TDTN
b) Lập mô hình cọc thực
c) Tính toán dự báo biểu đồ quan hệ
tải trọng- độ lún của cọc thực
Hình 4. Dự báo quan hệ P-s của cọc tiết diện thực từ số liệu thí nghiệm cọc TDTN
ĐỊA KỸ THUẬT - TRẮC ĐỊA
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 74
Để đánh giá hiệu quả của phương pháp t-z
trong việc phân tích số liệu thí nghiệm cọc TDTN,
các kết quả tính toán ở 2 hiện trường được so
sánh với kết quả nén tĩnh các cây cọc thực. Số
lượng cọc được sử dụng để so sánh bị hạn chế
vì có rất ít số liệu thí nghiệm cọc đáp ứng được
yêu cầu cho phân tích t-z (cọc TDTN phải gắn
cảm biến để phân tách ma sát và thành phần sức
chống dưới mũi). So sánh kết quả tính toán và
kết quả nén tĩnh cọc cho thấy:
- Đối với cây cọc ở SeaBank Đà Nẵng, kết quả
tính toán theo phương pháp t-z tương đối phù hợp
với kết quả nén tĩnh (hình 5a). Đáng lưu ý là tính
toán cho cùng cây cọc theo phương pháp của Lizzi
cũng cho kết quả tương tự (hình 3c);
- Trường hợp cây cọc TP 3-2 tại hiện trường
xây dựng nhà Quốc hội thể hiện ưu thế của
phương pháp t-z trong dự báo quan hệ tải trọng –
độ lún của cọc thực. Trong khi tính toán theo
phương pháp của Lizzi chênh lệch nhiều so với
kết quả nén tĩnh (hình 3e) thì tính toán theo t-z
cho kết quả tương đối phù hợp trên toàn bộ biểu
đồ quan hệ tải trọng – độ lún (hình 5b);
- Mức độ chênh lệch lớn nhất giữa kết quả
tính toán và nén tĩnh (đánh giá theo tỷ số Tải
trọng/Độ lún) ở cấp tải trọng thiết kế của cọc
bằng 22.88%, có thể chấp nhận được cho thiết
kế nền móng.
a) Cọc d800 – D1000
b) Cọc d1000 – D1200
Hình 5. So sánh kết quả tính toán theo phương pháp t-z với nén tĩnh
Bảng 2. So sánh tỷ số P/s của cọc tính theo phương pháp t-z và nén tĩnh
Đường kính (m) Tỷ số P/s, T/m, ở cấp tải trọng 50%Pmax
Tỷ số P/s , T/m, ở cấp tải
trọng 100%Pmax
STT
Công trình
Chiều
dài (m)
d D d/D Nén tĩnh (A)
Tính
toán (B)
(A-B)/B
(%)
Nén
tĩnh
(C)
Tính
toán
(D)
(C-D)/D
(%)
1 SeaBank Đà Nẵng 34 0,8 1,0 0,8 22709 25063 -10.37 11706 12837 -9.67
2 Nhà Quốc hội 35.7 1,0 1,2 0,83 85428 65882 22.88 36697 35963 2.00
4. Kết luận và kiến nghị
Nghiên cứu bước đầu về cách diễn giải kết
quả thí nghiệm cọc tiết diện thu nhỏ để xác định
sức chịu tải của cọc tiết diện lớn hơn cho thấy
việc xử lý số liệu có thể được thực hiện bằng
những phương pháp tương đối đơn giản nhưng
kết quả thu được khá phù hợp cho cọc khoan
nhồi ở Việt Nam. Cũng có thể áp dụng các
phương pháp phân tích đã trình bày trong bài báo
này để dự báo sức chịu tải của cọc tiết diện nhỏ
hơn từ kết quả thí nghiệm cọc tiết diện lớn hơn.
Phân tích theo phương pháp do Lizzi kiến
nghị có thể áp dụng cho các cọc làm việc chủ yếu
do ma sát - phương thức làm việc phổ biến nhất
của cọc ở Việt Nam. Phương pháp phân tích này
có thể được áp dụng để xử lý số liệu nén tĩnh
thông thường, trong đó không phân tách được
các thành phần sức chịu tải do ma sát và do sức
chống dưới mũi cọc. Tuy vậy phương pháp này
không cho phép xét đến những ảnh hưởng do
thay đổi đường kính tiết diện cọc đối với biến
dạng dọc trục của cọc cũng như đối với mức độ
huy động sức chịu tải của nền.
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1/2016 75
Phương pháp t-z cho phép sử dụng quan
hệ phi tuyến giữa sức kháng của đất và chuyển vị
đã xác định trong quá trình thí nghiệm cọc TDTN
và xét đến một số ảnh hưởng đối với sức chịu tải
và biến dạng của cọc do tác động của thay đổi
đường kính cọc. Kết quả áp dụng cho thấy
phương pháp này cho kết quả chính xác hơn so
với phương pháp của Lizzi. Tuy vậy trong thí
nghiệm cọc TDTN cần phân tách các thành phần
sức chịu tải do ma sát và sức chống dưới mũi
cọc để có thể áp dụng phương pháp t-z.
Trong điều kiện thực tế hiện nay, nên tuân
thủ quy định về tỷ số d/D0,5 giữa đường kính
cọc TDTN và cọc thực của EN 1997. Trong thiết
kế nên tăng hệ số an toàn khi sử dụng các kết
quả ngoại suy sức chịu tải của cọc.
Để có thể đánh giá chi tiết hơn và chuẩn
xác hơn về ứng dụng cọc TDTN cần bổ sung các
nghiên cứu với số lượng cọc thí nghiệm lớn hơn,
phạm vi thay đổi của đường kính cọc lớn hơn và
cọc được thi công bằng các phương pháp khác
nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] ГОСТ 5686-2012. Грунты-Методы полевых
испытаний сваями
[2] СП 24.13330.2011 Свайные фундаменты
[3] EN 1997:2004 Eurocode 7 Geotechnical design
– Part 1: General rules
[4] German Geotechnical Society (2014)
Recommendations on Piling (EA-Pfahle),
Wilhelm Ernst & Sohn, Berlin.
[5] Awad, M.A. (2003), The dependence of Bearing
Value on Diameter of Driven Steel Piles in
Sand, Journal of the Islamic Unniversity of
Gaza, V11, No.1 p26-42
[6] Bhoye, M., Deshmukh, V.B, Jagtap, S.S. (2015)
A proposed methodology for capacity of larger
pile from tests on smaller piles, 5th Young
Geotechnical Engineers Conference, Vadodara,
India.
[7] Trịnh Việt Cường, Phạm Huy Thông (2010) Về
hiệu quả xử lý mũi cọc khoan nhồi bằng biện
pháp xói rửa và bơm vữa mũi cọc ở khu vực Hà
Nội, Tạp chí Giao thông vận tải, No. 10/2010
[8] Lizzi, F. (1983) Ultimate bearing capacity of
friction piles calculated from load tests on pilot
piles, Ground Engineering 16(5), London.
[9] Đoàn Nguyên Quyền (2015), Nghiên cứu sử
dụng cọc thử đường kính thu nhỏ trong khảo sát
phục vụ thiết kế móng cọc, Luận văn thạc sĩ kĩ
thuật, Đại học xây dựng, Hà Nội.
[10] White, D.J. & Bolton, M.D. (2005), Comparing
CPT and pile base resistance in sand,
Proceedings of the Institution of Civil Engineers,
Geotechnical Engineering 158.
Ngày nhận bài: 22/11/2015.
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 11/02/2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1462764875trinhvietcuong_443.pdf