Từ những kết quả phân tích định tính
các nhóm chức trên mẫu lá cây bằng
phổ FTIR chúng tôi có một số kết luận
như sau:
Tất cả các mẫu lá cây được nhiên cứu
đều có khả năng hấp phụ ion kim loại
nặng ở dạng ion đơn giản trong nước
bởi sự proton hóa ở pH từ 5.0- 6.5. Các
anion phức như CrO42-, AsO3- hấp phụ
ở pH thấp (pH từ 2-3). Dung lượng hấp
phụ cực đại đối với ion Cd2+ ở mỗi loại
lá cây là khác nhau phản ánh vai trò của
các các nhóm chức hữu cơ đặc biệt là
nhóm chức hydroxyl.
Phương pháp phân tích FTIR là phương
pháp hữu hiệu, đánh giá nhanh khả năng
hấp phụ ion kim loại nặng của các vật liệu
hấp phụ sinh học.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 685 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dự đoán khả năng hấp phụ ion kim loại nặng trong dung dịch nước của lá cây để làm vật liệu hấp phụ bằng phương pháp phân tích quang phổ hồng ngoại biến đổi fourier (ftir) - Nguyễn Văn Sức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
105
Tạp chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 21, Số 2/2016
DỰ ĐOÁN KHẢ NĂNG HẤP PHỤ ION KIM LOẠI NẶNG
TRONG DUNG DỊCH NƯỚC CỦA LÁ CÂY ĐỂ LÀM VẬT LIỆU HẤP PHỤ
BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH QUANG PHỔ HỒNG NGOẠI BIẾN ĐỔI
FOURIER (FTIR)
Đến tòa soạn 7 - 3 - 2016
Nguyễn Văn Sức
Khoa Công nghệ Hóa học, trường đại học Sư phạm và Công nghệ Tp. Hồ Chí Minh
SUMMARY
PREDICTION OF HEAVY METAL ION ADSORPTION ABILITY FROM
AQUEOUS SOLUTION OF PLANT LEAVES TO USE AS ADSORBENTS BY
METHOD OF INFRARED SPECTROSCOPY
FOURIER TRANSFORM (FTIR) ANALYSIS
Five samples of fresh leaves from different plants including tea leaves (camellia
sisensis), almond leaves (Terminalia), breast milk leaves (chrysophyllum cainito),
hyacinth leaves (eichhornia) and leaves of wedelia chinensis (sphagneticola) were
qualitative analyzed by FTIR spectra to determine function organic groups that can
bind with heavy metal ions. The main purpose of our study is to predict their
adsorption ability for removal of heavy metal ions from aqueous solution. The results
obtained shown that all leaves contain different function groups such as the hydroxyl
group (-OH) and carboxyl group (-COOH), which are the adsorption sites and have
an important role in combination with heavy metal ions. To compare the absorption of
each type of plant leaf, the maximum adsorption capacity, Qmax, for Cd2+ ions was
determined using the Langmuir adsorption isotherm model. Results showed that the
maximum adsorption capacity of each leaf was different and depended on the nature
and amount of functional groups of organic compounds which are available in the
leaves.
Keywords: Plant leaf, FTIR spectra, Adsorption, Biosorbent, Heavy metals
106
1. MỞ ĐẦU
Ô nhiễm kim loại nặng trong các nguồn
nước đã trở thành một vấn đề hết sức
nghiêm trọng ở Việt nam. Nguồn ô
nhiễm là nước thải từ các khu công
nghiệp, các làng nghề không được xử lý
thải trực tiếp ra môi trường. Sử dụng
các nguồn nước mặt và nước ngầm bị ô
nhiễm kim loại nặng sẽ gây ra những
hiệu ứng nguy hại đối sức khỏe con
người [1]. Để hạn chế mức nồng độ cho
phép của kim loại nặng, cần phải có
những phương pháp xử lý một cách triệt
để các nguồn nước thải chứa kim loại
nặng trước khi thải ra môi trường. Hiện
nay, để loại bỏ ion kim loại nặng trong
các nguồn nước bị ô nhiễm, một số các
phương pháp đã được sử dụng như
phương pháp hấp phụ, phương pháp kết
tủa và phương pháp lọc màng [2].
Phương pháp hấp phụ được xem là một
phương pháp có hiệu quả nhất về kỹ
thuật và kinh tế vì nó không phức tạp,
có giá thành thấp và có thể loại bỏ ion
kim loại ở nồng độ rất loãng. Trong
những năm gần đây, vật liệu hấp phụ
sinh học có nguồn gốc từ thực vật như
lá các loại cây đang được nghiên cứu và
áp dụng rộng rãi trong phương pháp hấp
phụ [3]. Lá cây có khả năng hấp phụ ion
kim loại nặng vì trong các tế bào của
nó chứa các hợp chất hữu cơ như
cellulose, hemicellulose, pectins, lignin,
chlorophyll, carotene, anthocyanin và
tannin. Các hợp chất hữu cơ này mang
các nhóm chức carboxylic, phenolic,
hydroxy, carbonyl và nhóm hydroxyl có
thể liên kết với ion kim loại bằng sự
proton hóa hoặc cho nhận điện tử để
tạo thành phức chelat [4]. Tuy nhiên,
khả năng hấp phụ ion kim loại của mỗi
loại lá cây phụ thuộc chủ yếu vào sự có
mặt của các nhóm chức đã nêu ra ở trên.
Do vậy, việc lựa chọn mẫu lá cây thích
hợp để làm vật liệu hấp phụ đối với mỗi
ion kim loại hoặc nhóm ion kim loại
cần phải phải biết trước thành phần các
nhóm chức hữu cơ có trong lá cây.
Để giải quyết vấn đế này, chúng tôi đã
sử dụng phương pháp phân tích quang
phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FTIR)
để định tính các nhóm chức trong lá chè
(camellia sisensis), lá bàng
(Terminalia), lá cây vú sữa
(chrysophyllum cainito), lá lục bình
(eichhornia) và lá sài đất
(sphagneticola) với mục đích là để sử
dụng chúng làm vật liệu hấp phụ. Dựa
trên phổ FTIR, các nhóm chức trong
các loại lá cây nói trên có khả năng liên
kết với ion kim loại đã được nhận diện.
Mặt khác, Để đánh giá khả năng hấp
phụ ion kim loại của mỗi loại lá cây,
cân bằng hấp phụ đối với quá trình hấp
phụ ion Cd2+ đã được nghiên cứu để xác
định dung lượng hấp phụ cực đại, Qmax,
bằng mô hình hấp phụ đẳng nhiệt
Langmuir.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
107
2.1. Vật liệu
Mẫu của mỗi loại lá cây có khối lượng
500 g được rửa vài lần bằng nước máy
để loại hết bùn, đất, sau đó rửa bằng
nước cất và sấy ở nhiệt độ 80 0C trong
thời gian 3 giờ. Mẫu lá được nghiền
thành bột và rây lấy kích thước từ 0,25-
0,30 mm.
2.2. Phân tích FTIR
Để thu được quang phổ hồng ngoại của
các mẫu lá cây, thiết bị quang phổ FTIR
(Model: FTIR 6800, Jasco, Nhật bản)
được sử dụng. Bột mẫu lá cây (2mg)
được trộn đều với 200 mg KBr, nén hỗn
hợp lại thành viên và tiến hành ghi phổ
trong vùng có bước sóng từ 4000 – 450
cm-1.
2.3. Xác định dụng lượng hấp phụ
cực đại của lá cây đối với ion Cd2+
Phương pháp hấp phụ gián đoạn được
tiến hành để để nghiên cứu cân bằng
hấp phụ đẳng nhiệt của từng loại lá cây
đối với ion Cd2+. Dung dịch hấp phụ
(50 mL, pH: 6, nồng độ ion Cd2+ trong
khoảng từ 10 – 200 mg/L, khối lượng lá
cây: 0.2 g) được khuấy trộn ở nhiệt độ
30 10C trong thời gian 200 phút (thời
gian đạt đến trạng thái cân bằng đã
được xác định sơ bộ trước). Nồng độ
ion Cd2+ trong pha dung dịch sau khi
cân bằng hấp phụ được xác lập được
xác định bằng phương pháp von-ampe
hòa tan sử dụng máy phân tích cực phổ
đa năng 797 VA computrate, Metrohm
Thụy sỹ. Dung lượng hấp phụ cực đại,
Qmax đối với ion Cd2+ được xác định
trong phương trình hấp phụ đẳng nhiệt
Langmuir:
(1)
Trong đó qe là dung lượng hấp phụ lúc
cân bằng (mg/g), KL là hằng số Langmir
(L/g), Ce là nồng độ ion Cd2+ trong pha
lỏng lúc cân bằng (mg/g), Qmax là dung
lượng hấp phụ cực đại (mg/g).
Hằng số Langmuir, KL và Q được xác
định bằng phần mềm Solver của
Microsoft Excel.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Phổ hồng ngoại FTIR của lá cây bàng,
lá chè, lá lục bình, lá sài đất và lá cây
vú sữa được thể hiện trong các hình 1-5.
Từ các phổ FTIR, có thể nhận thấy tất
cả các loại lá cây được lựa chọn nghiên
cứu đều xuất hiện đỉnh với cường độ
mạnh ở bước sóng 3423 cm-1. Đây là
đỉnh đặc trưng cho sự dao động giãn
nhóm của –OH, một nhóm chức của
rượu hoặc phenol [5]. Tiếp theo là các
đỉnh có cường độ yếu hơn nhiểu tại các
bước sóng 2923cm-1 và 2885 cm-2. Các
đỉnh này đặc trưng cho sự dao động
giãn đối xứng của chuỗi aliphatic (–
CH). Trong vùng có giải sóng từ 1752
cm-1 đến 1738 cm-1 ra. Ngoài ra, trong
vùng này còn xuất hiện một đỉnh có
cường độ yếu tại bước sóng 1740 cm-1.
Đây là đỉnh đặc trưng cho sự dao động
giãn của nhóm chức carboxyl (-
COOH). So sánh cường độ của đỉnh này
trong tất cả các loại lá cây nghiên cứu
thì cường độ mạnh nhất thấy được ở
mẫu lá lục bình và lá cây vú sữa (hình 3
108
và 5). Đối với các mẫu lá cây khác, nói
chung đỉnh tại bước sóng 1740 cm-1 có
cường độ rất yếu, có thể do bị che phủ
bởi các đỉnh có cường độ mạnh tại bước
sóng 1635 cm-1 và 1620 cm-1 là các đỉnh
đặc trưng cho dao động giãn của nhóm
C-C hoặc đặc trưng cho dao động giãn
của nhóm N-H (amit). Ngoài các đỉnh ở
các bước sóng từ 1740 đến 1721 cm-1,
sự dao động giãn của nhóm C=O trong
nhóm aldehyde cũng được đặc trưng
bởi vùng có bước sóng từ 1653 cm-1
đến 1618 cm-1. Ở vùng có bước sóng
thấp hơn, quang phổ FTIR khá phức tạp
với những đỉnh có cường độ yếu từ
1543 cm-1 đến 1450 cm-1. Đây là những
đỉnh đặc trưng cho sự dao động giãn
của các nhóm C=C, C-C. Giao động
giãn của nhóm OH cũng được đặc trưng
tại vùng sóng này bởi các đỉnh tại
1265cm-1 và 1234 cm-1. Như vậy, tất cả
các loại lá cây được lấy để nghiên cứu
đều chứa các hợp chất hữu cơ mang các
nhóm chức hydroxyl (-OH), nhóm
carboxyl (-COOH) và nhóm amin (-
NH2). Đây là những nhóm chức có thể
liên kết với các ion kim loại trong dung
dịch qua sự proton hóa (với nhóm
hydroxyl), tạo phức che lát (với nhóm
carboxyl và nhóm amin) [6].
Với những kết quả phân tích quang phổ
FTIR trong 5 mẫu là cây, chúng tôi có
những nhận xét như sau: trong vùng
pH của dung dịch hấp phụ từ 4-6, tất cả
các mẫu lá cây đều có khả năng hấp phụ
cation kim loại tồn tại ở dạng ion đơn
giản hoặc ion phức mang điện tich
dương theo cơ chế proton hóa với các
tâm hấp phụ là nhóm hydroxyl (-OH).
Ví dụ, các ion Pb2+, Cd2+, Cu2+, Zn2+,
UO22+ đều có thể bị hấp phụ trong
khoảng pH này. Các ion tồn tại ở dạng
phức âm như CrO42-, AsO42- có thể
bị hấp phụ bởi sự tương tác tĩnh điện
với nhóm chức hydroxyl đã được
proton hóa với ion H+ ở trong vùng pH
rất thấp (pH từ 1đến 3). Cũng trong
vùng axit yếu (pH: 4-6) của dung dịch
hấp phụ, ngoài nhóm chức hydroxyl,
nhóm chức carboxyl cũng tham gia liên
kết với ion kim loại bởi cơ chế tạo phức
chelat. Sự đóng góp của nhóm chức này
trong liên kết sẽ làm tăng đáng kể dung
tích hấp phụ của tất cả các loại lá cây,
đặc biệt là mẫu lá cây lục bình và mẫu
lá vú sữa.
Hình 1: Phổ FTIR của lá Bàng
Hình 2: Phổ FTIR của chè
109
Hình 3: Phổ FTIR của lá cây lục bình
Hình 4: Phổ FTIR của lá cây sài đất
Hình 5: Phổ FTIR của lá cây vú sữa
Hình 6: Đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir
đối với ion Cd2+
Bảng 1: Kết quả xác định dung lượng hấp phụ cực đại đối với ion Cd2+ theo phương
trình hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir
Mẫu lá cây Hằng số Lăngmuir, KL (L/g)
Dung lượng hấp phụ
cực đại,
Qmax (mg/g)
Lá bàng 0,026 33,58
Lá chè 0,096 24,70
Lá lục bình 0,088 27,20
Lá vú sữa 0,032 39,81
Lá sài đất 0,358 34,02
Kết quả xác định giá trị hấp phụ cực
đại, Qmax đối với ion Cd2+ của từng loại
lá cây theo phương trình hấp phụ đẳng
nhiệt Langmuir được trình bày trong
hình 6 và Bảng 1. Từ kết quả trong
bảng 1 có thể thấy dung tích hấp phụ
cực đại đối với ion Cd2+ được sắp xếp
theo trình tự tăng dần từ lá chè (24,7
mg/g), lá lục bình (27,20 mg/g), lá
bàng (33,58 mg/g), là sài đất (34,02
mg/g) và lá cây vú sữa (39,81 mg/g). Sự
khác nhau về dung lượng hấp phụ cực
110
đại đối với ion Cd2+của mỗi loại lá cây
là do sự khác nhau về nồng độ gốc
hydroxyl (-OH) được biểu hiện qua
cường độ của đỉnh ở bước sóng
3423cm-1 trong tất cả các mẫu lá cây
nghiên cứu. Phổ FTIR của các mẫu lá
cây từ Hình 1 đến Hình 5 cho thấy
cường độ của đỉnh tại 3423 cm-1 mạnh
nhất là ở lá vú sữa, tiếp theo là ở lá sài
đất và lá bàng tương ứng với dung
lượng hấp phụ cực đại cao nhất trong ba
loại lá này (xem bảng 1). Điều này có
nghĩa là cường độ của của đỉnh đặc
trưng cho nhóm –OH càng mạnh, dung
lượng hấp phụ càng lớn. Sự liên kết
giữa ion Cd2+ với nhóm –OH ở pH 6 có
thể trình bày theo phản ứng:
Bio-OH + Cd2+ Bio-O-Cd+ + H+ (2)
Sự liên kết của ion Cd2+ với nhóm
hydroxyl được biểu diễn như trong
hình 7 dưới đây.
Hình 7: Kiểu tạo phức của Cd2+ liên
quan đến nhóm chức hydroxyl trên
cellulo trong lá cây
Rõ ràng rằng nhóm chức hydroxyl có
vai trò rất quan trọng trong liên kết với
ion Cd2+.
4. KẾT LUẬN
Từ những kết quả phân tích định tính
các nhóm chức trên mẫu lá cây bằng
phổ FTIR chúng tôi có một số kết luận
như sau:
Tất cả các mẫu lá cây được nhiên cứu
đều có khả năng hấp phụ ion kim loại
nặng ở dạng ion đơn giản trong nước
bởi sự proton hóa ở pH từ 5.0- 6.5. Các
anion phức như CrO42-, AsO3- hấp phụ
ở pH thấp (pH từ 2-3). Dung lượng hấp
phụ cực đại đối với ion Cd2+ ở mỗi loại
lá cây là khác nhau phản ánh vai trò của
các các nhóm chức hữu cơ đặc biệt là
nhóm chức hydroxyl.
Phương pháp phân tích FTIR là phương
pháp hữu hiệu, đánh giá nhanh khả năng
hấp phụ ion kim loại nặng của các vật liệu
hấp phụ sinh học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Paul, B., Tchounwou, CG.,
Yedjou, A. K.P., and Dwayne JS.
(2012), Heavy Metals Toxicity and the
Environment, EXS. 101, 133–164.
2. Barakat, MA. (2011), New trends in
removing heavy metals from industrial
wastewater, Arabian J. Chem. 4(4),
361-377.
3. Suc, N.V., Ly, HTY. (2013),
Lead (II) removal from aqueous
solution by chitosan flake modified with
citric acid via crosslinking with
glutaraldehyde, J. Chem. Technol. and
Biotechnol. 88 (9), 1641–1649 ( 2013).
4. Suc., NV, Son, LN. (2014), Mistletoe
leaves as a biosorbent for removal of
Pb(II) and Cd(II) from aqueous solution,
111
Desalination and Water Treatment,
DOI:10.1080/19443994.2014.986532.
5. Ribeiro da Luz, B. (2006), Attenuated
total reflectance spectroscopy of plant
leaves: a tool for ecological and
botanical studies, New Phytologist, 172
(2), 305-318
6. Konwar, M., and Baruah, GD.
(2011), On the nature of vibrational
bands in the FTIR spectra of medicinal
plant leaves, Archives of Applied
Science Research, 3(1), 214-221.
___________________________________________________________________________
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP OXIT CeO2.................(tiếp theo trang 60)
5. I.S. Ahmed, S.A. Shama, H.A.
Dessouki, A.A. Ali, (2011), “Low
temperature combustion sunthesis of
CoxMg1-xAl2O4 nano pigments using
oxalyl dihydrazide as a fuel”,
Chemistry and Physics, vol 125(3), pp.
326-333.
6. Kadkhodaie A, Pouretedal H.R
(2010), “Synthesis CeO2 nanoparticle
catalysis of methylenne blue
photodegradation: Kinetics and
mechaninm”, Chinese Journal of
catalysis, vol 31(11), pp. 1328-1334.
7. Kashinath C Patil, Singanahally T
Aruna and Sambandan Ekambaram
(1997), “Combustion synthesis”,
Current Opinion in Solid State and
Materials Science, vol 2, pp. 158-165.
8. Sara Samiee, Elaheh K. Goharshdi
(2012), “Effect of different precursons
on size and optical properties of ceria
nanoparticles prepared by microwawe
– assisted method”, MaterialsResearch
Bulleti, vol 47(4), pp. 1089-1095.
9. S.T.Aruna, K.C.Patil (1998),
“Combustion synthesis and properties of
nanostructured ceria – zirconia solid
solutions”, NanoStructured Materials, vol
10(6), pp. 955-964.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26448_88918_1_pb_9196_2096848.pdf