Năm là, chú trọng công tác sử dụng và đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực tại chỗ. Đào tạo
các kỹ năng tối thiểu cho cư dân địa phương,
cho đồng bào dân tộc thiểu số khi tham gia
thị trường lao động du lịch. Đảm bảo sinh kế
lâu dài cho họ và giúp họ phát triển trở thành
những người làm chủ.
Sáu là, đầu tư phát triển mạnh cơ sở hạ tầng
để tăng khả năng tiếp cận với các điểm du lịch,
đặc biệt là đường đến các khu bảo tồn, bản
làng, thôn xã vùng sâu, vùng xa với hệ thống
giao thông đường thủy, đường bộ. Đối với các
điểm phát triển du lịch cần xem xét lại tiêu
chí bê tông hay cứng hóa đường giao thông
theo quy định quốc gia trong xây dựng nông
thôn mới, bởi điều này chưa thực sự phù hợp
với tiêu chí hấp dẫn của các điểm du lịch, làm
thay đổi quá mức diện mạo cảnh quan nguyên
sơ của buôn làng; chú ý đầu tư cho cơ sở vật
chất, thiết bị kỹ thuật, hạ tầng xã hội phục vụ
du lịch, sao cho đáp ứng được các nhu cầu của
du khách, đảm bảo sự tiện ích, an toàn trong
du lịch và hỗ trợ đời sống của bà con dân cư.
Bảy là, đẩy mạnh liên kết du lịch với các
tỉnh, hợp tác xúc tiến, quảng bá du lịch ở quy
mô cấp vùng. Nối kết với các địa phương Huế,
Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Nhà Trang để
tăng dòng khách, tạo hệ thống sản phẩm hỗ
trợ và giảm chi phí cho các hoạt động quảng
bá, xúc tiến du lịch.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 465 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Du lịch gắn với phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
85Số 24 - Tháng 6 - 2018
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
DU LỊCH GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TÂY NGUYÊN
BÙI THANH THỦY
Tóm tắt
Tây Nguyên là một vùng đất chứa đựng nhiều tiềm năng du lịch, đặc biệt là tiềm năng du lịch sinh
thái và văn hóa tộc người để phát triển kinh tế du lịch, cải thiện đời sống kinh tế - xã hội của vùng và địa
phương, nhất là đối với khu vực nông thôn miền núi, nơi sinh sống của các đồng bào dân tộc thiểu số.
Lựa chọn hướng phát triển du lịch và tìm phương thức giúp sử dụng hiệu quả du lịch như một phương
tiện bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống và phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới là
một hướng đi thích hợp, rất cần cho khu vực Tây Nguyên.
Từ khóa: Du lịch, nông thôn mới, Tây Nguyên
Abstract
The Central Highlands is a place that contains a lot of tourism potential, especially the potential of
ecotourism and ethnic minorities culture tourism, to develop the tourism-based economy and improve
the socio-economic condition of the region, the local, especially in mountainous rural areas where
ethnic minorities live. Choosing the direction of tourism development and find ways to effectively
use tourism as a means of preserving traditional cultural values and socio-economic development,
building modern rural areas is a preferred direction. It is very necessary for the Central Highlands.
Keywords: Tourism, building modern rural areas, Central highland of Vietnam
1. Ý nghĩa của du lịch trong vấn đề phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới
Các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam
đều nhận thức du lịch là một công cụ xóa đói,
giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội ở những vùng khó khăn. Do hoạt động du
lịch diễn ra ở các vùng địa lý khác nhau của
một quốc gia (vùng rừng núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng biển, đô thị) nên nó trở thành một
công cụ quan trọng có thể tác động đến việc
cải thiện đời sống kinh tế, chất lượng sống
của quốc gia đó ở mọi khu vực thành thị hay
nông thôn, vùng phát triển cũng như chưa
phát triển. Du lịch sẽ tạo cơ hội phát triển cho
người nghèo ngay tại cộng đồng của họ, tránh
sự dịch chuyển lao động từ khu vực khó khăn
về các vùng phát triển. Hơn nữa, thông qua du
lịch, họ sẽ được tiếp cận với những vấn đề mới
mà du khách mang đến để nâng cao kỹ năng,
thay đổi nhận thức, tư duy, các tập quán lạc
hậu, được giao lưu văn hóa, có nhiều việc làm
và có thu nhập cao hơn. Ngoài ra, du lịch còn
có tiềm năng hỗ trợ các hoạt động kinh tế khác,
kể cả việc tạo ra công việc làm thêm bổ sung
cho vấn đề lựa chọn kế sinh nhai, cũng như tạo
ra thu nhập qua hệ thống cung cấp hàng hóa
dịch vụ phụ trợ cho hoạt động du lịch.
Điều đặc biệt, hoạt động du lịch có xu
hướng tuyển dụng nhiều phụ nữ và thanh
niên hơn so với các ngành khác (bởi sự thay
thế nguồn lao động thường xuyên). Việc mang
lại lợi ích kinh tế và sự độc lập của người phụ
Số 24 - Tháng 6 - 201886
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nữ, nhất là những phụ nữ dân tộc thường do
tập quán tộc người nên địa vị thấp kém, ít được
coi trọng, là rất quan trọng trong các chương
trình phát triển gia đình của quốc gia, đảm bảo
phát triển bền vững, bình đẳng giới và phá vỡ
vòng đói nghèo.
Mặt khác, du lịch không chỉ mang lại lợi ích
vật chất cho những người dân bản địa mà còn
tạo ra nhiều lợi ích ý nghĩa như sự tự hào về
truyền thống văn hóa, nhận thức đúng đắn
về việc gìn giữ, phát huy các giá trị, di sản văn
hóa dân tộc, địa phương, nâng cao chất lượng
cuộc sống như sức khỏe, phúc lợi xã hội và
giáo dục. Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng xã hội
xây dựng theo yêu cầu của phát triển du lịch
như giao thông, bưu chính viễn thông, ngân
hàng, hệ thống cung cấp nước sạch, an ninh,
vệ sinh, dịch vụ y tế lại mang lại lợi ích chung
cho cả cộng đồng. Điều đó thực sự cần thiết
cho các khu vực còn thiếu thốn, khó khăn như
Tây Nguyên, nơi có số đông đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống.
2. Du lịch Tây Nguyên, những lợi thế
Tây Nguyên là vùng đất chiến lược quan
trọng vào bậc nhất nước ta, giáp với Hạ Lào và
Đông Bắc Campuchia, gồm 5 tỉnh: Kon Tum,
Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng, với 3
thành phố Plêiku, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt. Theo
kết quả điều tra dân số 1/4/2011, dân số Tây
Nguyên có trên 5 triệu người, chiếm khoảng
6% dân số cả nước.
Đây cũng là vùng sơn nguyên lớn nhất của
cả nước, do kiến tạo của địa chất đã tạo nên
những cao nguyên đất đỏ bazan Kon Tum, Kon
Plông, Kon Hà Nừng, M’Drăk, Buôn Ma Thuột,
Lâm Viên, Di Linh gối lên nhau kéo dài bất tận.
Vùng đất Tây Nguyên nổi tiếng với độ rừng che
phủ trên 60% diện tích, với những cánh rừng
đại ngàn mênh mông chứa đựng thảm thực vật
đa dạng, đồi thông ngút ngàn, một hệ thống
sông, suối, hồ, thác, các khu bảo tồn thiên
nhiên hùng vĩ, phong cảnh tuyệt đẹp rất thuận
lợi để phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng,
tham quan ngắm cảnh thiên nhiên. Đây cũng
là nơi chứa đựng môi trường sinh thái nhân
văn của các dân tộc thiểu số do con người tạo
nên trên những địa bàn cư trú của mình, cùng
với hệ thống các giá trị văn hóa vật thể, phi vật
thể trong quá trình thích ứng, tương tác với
môi trường tự nhiên (cao nguyên, thung lũng,
núi cao, rừng rậm,) mang đậm sắc thái tộc
người. Là nơi cư trú, sinh sống, làm ăn, được
hình thành, tồn tại trong suốt quá trình lịch sử
với các buôn làng, thôn bản, bon, play,
Tây Nguyên còn là một vùng có tiềm năng
kinh tế dồi dào, có kho tàng văn hóa tộc người
phong phú, đa dạng và hết sức độc đáo để
tạo nên một hệ thống tài nguyên du lịch đặc
trưng. Một vùng văn hóa được hình thành và
phát triển chủ yếu trên cơ sở của nền “văn minh
nương rẫy”, “văn minh núi rừng”. Nơi đây chính
là địa bàn cư trú của 20 dân tộc anh em với các
dân tộc bản địa chính như Gia Rai, Ê Đê, Ba Na,
Cơ Ho, Xê Đăng, M’Nông, Pa Cô, Vân Kiều, Mạ,...
Họ đã tạo nên một nền văn hóa truyền thống
với hệ thống các giá trị văn hóa trong đời sống
tộc người, tiêu biểu là các công trình kiến trúc,
trang phục, ẩm thực, phương tiện đi lại, vận
chuyển, công cụ sản xuất cổ truyền, nhạc khí,
lễ hội, phong tập tập quán, nghi thức, văn học,
nghệ thuật dân gian
Công trình kiến trúc bao gồm hệ thống các
kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng, sinh hoạt cộng
đồng (chùa, nhà thờ, nhà mồ, nhà rông, nhà
dài); các di tích/di chỉ khảo cổ; các công trình
kiến trúc dân dụng... Ở mỗi tộc người, các giá
trị kiến trúc đó biểu hiện rất sinh động, gắn bó
mật thiết với môi trường sinh thái nhân văn, hài
hòa trong nếp sống tộc người... tạo nên sự hấp
dẫn đối với du khách trong nước và quốc tế.
Trang phục cổ truyền các dân tộc vùng Tây
Nguyên là một kho tàng phong phú về nghệ
thuật tạo dáng, trang trí, về chủng loại, thể hiện
sự tài hoa, óc thẩm mỹ của người dân và góp
phần quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa tộc
người, tạo nên nét hấp dẫn cho điểm đến du
lịch. Văn hóa ẩm thực phản ánh nghệ thuật ăn
uống trong mối quan hệ ứng xử của con người
nơi đây với môi trường tự nhiên và xã hội.
Những món ăn, đồ uống nổi tiếng của đồng
bào Tây Nguyên như cơm lam, thịt nướng, cà
đắng, muối kiến, cà phê, rượu cần cùng những
đặc sản như mật ong, hạt điều, măng khô
làm nên sức cuốn hút rất lớn trong du lịch.
Phương tiện đi lại bằng voi, thuyền, bè trên
87Số 24 - Tháng 6 - 2018
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
các vùng núi, vùng hồ, cao nguyên giúp cho
môi trường hoạt động du lịch thêm hấp dẫn.
Các loại nhạc cụ độc đáo như: đàn đá, đàn K’ny,
tù và, Đinh tuk, Klongpút, T’rưng, chiêng Klong
Klai, trống Sơgơr, Nghề và sản phẩm thủ
công truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên
như nghệ thuật điêu khắc tượng gỗ, trang trí
cột, vật thờ, dệt thổ cẩm, làm đồ trang sức, đan
lát (gùi, bồ) là những giá trị tạo nên một hệ
thống sản phẩm du lịch độc đáo, riêng biệt, có
sức hút cao.
Mỗi tộc người nơi đây còn lưu giữ một kho
tàng văn hóa phi vật thể đa dạng. Đó là hệ
thống triết lý về vũ trụ và nhân sinh; là các lễ
hội, lễ nghi thờ cúng tổ tiên; các bộ luật tục
giàu giá trị lịch sử; các trò chơi dân gian, các
loại hình dân ca, dân vũ; là kho tàng văn học
truyền miệng (sử thi, truyền thuyết, thần thoại,
ngụ ngôn) và đặc biệt tiêu biểu là không gian
văn hóa cồng chiêng. Văn hóa cồng chiêng trải
rộng suốt 5 tỉnh với chủ nhân là cư dân các dân
tộc: Ba Na, Xê Đăng, M’Nông, Cơ Ho, Rơ Măm,
Ê Đê, Gia Rai. Cồng chiêng Tây Nguyên là biểu
tượng, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con
người, gắn với mọi hoạt động sản xuất, sinh
hoạt của đồng bào. Năm 2005, không gian văn
hóa Cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO
công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi
vật thể của nhân loại.
Nói đến Tây Nguyên còn phải kể đến kho
tàng sử thi “sống” trường tồn trong đời sống
của các tộc người nơi đây, với hàng trăm tác
phẩm được trình diễn trong sinh hoạt cộng
đồng. Đây được coi là vùng sử thi duy nhất ở
Việt Nam và cũng là vùng sử thi quý hiếm trên
thế giới với hơn 622 tác phẩm được tìm thấy.
Ngoài ra, những tri thức dân gian như kinh
nghiệm thuần dưỡng voi, những bài thuốc
gia truyền chữa bệnh, bí quyết về kỹ thuật đúc
đồng để chế tạo ra đàn đá và nhạc khí cồng
chiêng cũng là những giá trị văn hóa tinh
thần quý giá trong kho tàng di sản văn hóa của
vùng đất này, tạo nên những sản phẩm du lịch
độc đáo, khác biệt.
Đặc biệt, Tây Nguyên còn có một hệ thống
những di tích thời kỳ cận hiện đại, di tích cách
mạng, kháng chiến như Bản Đôn, làng Kông
Hoa quê hương anh hùng Núp, là ngục Kon
Tum, là chiến thắng An Khê, Play Me, Đắk Tô,
Đắk Nông, Đăk Min,...
Hệ thống tài nguyên du lịch thiên nhiên,
nhân văn vô cùng phong phú, độc đáo, hấp
dẫn như trên đã tạo cho Tây Nguyên điều kiện
và môi trường để du lịch nơi đây phát sinh và
phát triển. Giá trị của những cảnh quan: rừng,
sông hồ, suối, thác; của di sản văn hóa: di tích
lịch sử, công trình kiến trúc nghệ thuật, các
hình thức sinh hoạt văn nghệ, các tập quán, lễ
hội, ngành nghề truyền thống là những đối
tượng cho du khách khám phá, thưởng thức,
cho du lịch khai thác, sử dụng. Chính những
tài nguyên này không chỉ tạo ra môi trường
và điều kiện cho du lịch phát sinh và phát
triển mà còn quyết định quy mô, thể loại, chất
lượng và hiệu quả của hoạt động du lịch của
vùng/địa phương.
Hiện toàn khu vực Tây Nguyên có 943 cơ sở
lưu trú, trong đó có 1 khách sạn 5 sao, 9 khách
sạn 4 sao, 8 khách sạn 3 sao, 20 khách sạn 2
sao; có 30 doanh nghiệp lữ hành với hơn 100
xe vận chuyển khách du lịch. Hệ thống mạng
lưới giao thông với các quốc lộ 14, 20, 27, 28,
51, 19 gắn kết toàn vùng cùng các sân bay Liên
Khương - Đà Lạt, Buôn Mê Thuột, Plêiku và một
số sân bay nhỏ khác đã tạo môi trường thuận
lợi cho đầu tư và du lịch phát triển. Tây Nguyên
cũng đã có 25 dự án đầu tư với số vốn 3.215
tỷ đồng trên toàn vùng. Một số dự án tiêu
biểu có thể kể đến như: Dự án khu du lịch sinh
thái vườn quốc gia Chư Mom Ray (Kon Tum)
với vốn đầu tư 200 tỷ đồng; khu du lịch sinh
thái đồi thông Hà Tam (Gia Lai), vốn đầu tư 30
triệu USD; khu du lịch sinh thái đồi Cư Luê (Đắk
Lắk), vốn đầu tư 500 tỷ đồng; 151 dự án đầu
tư tại Lâm Đồng với tổng vốn đầu tư là 43.865
tỷ đồng; khu du lịch sinh thái - văn hóa Nam
Nung (Đắk Nông) với vốn đầu tư 180 tỷ đồng.
Trong 15 năm (2000 - 2015), tốc độ tăng
trưởng khách du lịch quốc tế của Tây Nguyên
đạt trung bình 4,9%/năm; khách du lịch nội
địa đạt 13%/năm. Nhiều chính sách khai thác
sản phẩm được triển khai như quy hoạch các
Số 24 - Tháng 6 - 201888
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
làng văn hóa dân tộc, tổ chức các lễ hội truyền
thống, nhất là lễ hội Cồng Chiêng Tây Nguyên,
khai thác các cảnh quan thiên nhiên nơi đồng
bào dân tộc sinh sống.
3. Giải pháp phát triển du lịch, nâng cao đời
sống kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn
mới khu vực Tây Nguyên
Hiện nay, chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới đang được tiến hành
thực hiện đã tạo một môi trường thuận lợi cho
việc phát triển du lịch tại các vùng dân tộc,
nông thôn, và ngược lại du lịch sẽ là động lực
thúc đẩy cho việc thực hiện phong trào xây
dựng nông thôn mới với tốc độ vừa nhanh,
vừa bền vững, do không những tham gia tích
cực vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở
rộng đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, thay
đổi diện mạo cảnh quan, môi trường, mà còn
bảo tồn được các giá trị văn hóa gốc của nông
thôn, tộc người hoặc giá trị về thương hiệu
hàng hóa đặc thù cho địa phương, khu vực.
Suy cho cùng việc xây dựng nông thôn mới
là rất quan trọng song mục tiêu lớn nhất là
phải làm cho người dân có cuộc sống khá giả
và sung túc hơn, góp phần giảm khoảng cách
giàu nghèo, sự chênh lệch giữa người dân
Tỉnh Các điểm du lịch được khai thác
từ các tài nguyên du lịch nổi bật của Tây Nguyên
Chùa Minh Thành; khu Tây Sơn Thượng (căn cứ vua Quang Trung), quê hương anh
hùng Núp (làng Kông Hoa), địa danh Pleime, Cheo Reo, Ja Đrăng; nhà máy thủy điện
Ialy; cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh (giáp Campuchia); buôn làng người Bahnar, Jrai.
Gia Lai
Biển Hồ; thác Phú Cường, thác Queng Thao, thác Chín Tầng; vườn quốc gia Kon Ka
Kinh, khu bảo tồn thiên nhiên Kon Ja Răng.
Nhà thờ gỗ (nhà thờ Chánh Tòa), đại chủng viện Kon Tum; ngục Kon Tum, ngục Tố
Hữu, ngục Đắk Lei, các địa danh Đắk Tô, Tân Cảnh, đồi Chelesi, sân bay Phượng Hoàng;
các buôn làng của người Bana (Kon Ktu, Rơ Hai, Kon Chri), Gia Rai (Lung, Rắc), Xơ Đăng
(Dakripeng, Đakrijob); cửa khẩu Bờ Y (giáp Lào).
Kon Tum
Sông Đakbla, Poko; đỉnh Ngọc Lĩnh, Ngọc Phan; rừng nguyên sinh Chư Mom Ray, Đak
Uy, Sa Thầy, rừng thông Măng Đen; hồ Yaly.
Nhà đày Buôn Ma Thuột; chùa Sắc Tứ Khải Đoan, đình Lạc Giao; Bảo tàng dân tộc Đắk
Lắk; Buôn làng của người Ê Đê, M’Nông, Lào, Gia Rai (buôn Đôn, làng nghề ở buôn Alê
A, Păn Lăm, Kô Sia, Niên); căn cứ cách mạng hang đá Dak Tuar, hang đá Ba tầng (xã
Krông Nô, huyện Lăk).
Đắk Lắk
Hồ Lăk, hồ Ea Nhaie, hồ Eo Kao, suối Đan Kia; thác Dray Nur, Gia Long, Dray H’lonh,
thác Krông Kma, thác Thủy Tiên, thác Dray Nao; đồi thông Cư D’lue, vườn quốc gia Yok
Đôn, Chư Yang Sin, khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô.
Cụm di tích N’Trang Lơng, di tích lịch sử kháng chiến B4 - liên tỉnh IV tại Nâm Nung,
ngục Đắk Mil, di tích lịch sử đồi 722 Đắk Sắk; buôn làng của người M’Nông, Mạ (bon
N’Jriêng, Bu Kon, Buôr, Bu Prâng).
Đắk Nông
Thác Đắk Glun, thác Đắk P’lao, cụm thác Đray Sáp - Gia Long; cao nguyên M’Nông; Hồ
Ea Snô; khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng (Đắk Glong); các hang dung nham núi lửa xã
Buôn Choáh, huyện Krông Nô
Nhà thờ Con Gà, Do Maine; ga Đà Lạt; chùa Thiên Vương cổ sát, Dinh Bảo Đại, thiền
viện Trúc Lâm; Buôn làng dân tộc Mạ (Bảo Lộc), Cơ Ho (Dai Linh), Chu Ru (Đơn Dương),
các làng nông trại (trồng hoa, chè, cây ăn quả, rau,)
Lâm Đồng
Hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, hồ Suối Vàng; Hồ Tuyền Lâm, hồ Đa Nhim; Thác Cam Ly,
Prenn, Datanla, Ponggour, Gougar; đồi Cù; núi Bà (Lang Bian), núi Voi; thung lũng
Tình Yêu.
89Số 24 - Tháng 6 - 2018
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thành thị và nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
vùng có hoàn cảnh khó khăn. Thực tế đã phản
ánh, muốn thực hiện được mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu xây dựng
nông thôn mới, nhất là ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, trước hết cần phải nâng cao đời
sống kinh tế cho người dân.
Tây Nguyên là địa bàn hết sức đặc biệt, nơi
sinh sống của các dân tộc thiểu số, tập trung
nhiều những người nghèo nhất Việt Nam hiện
nay. Mặc dù 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam chỉ
chiếm 15% tổng dân số cả nước nhưng chiếm
tới 47% trong tổng số người nghèo ở Việt Nam.
Theo kết quả khảo sát mức sống dân cư và điều
tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo trên toàn
quốc năm 2012, tỷ lệ người nghèo khu vực Tây
Nguyên là 29,7%, trong đó tỷ lệ người nghèo
ở các tộc người thiểu số chiếm 76,6% chỉ thấp
hơn vùng Duyên hải Nam Trung Bộ (78,4%),
đứng cao thứ hai trong cả nước. Vì vậy, việc lựa
chọn du lịch, tìm các giải pháp phát triển du
lịch nói chung và du lịch ở các vùng dân tộc
thiểu số nói riêng ở khu vực Tây Nguyên là rất
phù hợp, cần thiết bởi nó có vai trò thiết yếu
trong tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm
mới tại chỗ, thay đổi diện mạo, cảnh quan môi
trường làng bản, phát triển cơ sở hạ tầng, hệ
thống phúc lợi cho người dân. Có như vậy mới
đảm bảo được việc thực hiện các mục tiêu, tiêu
chí trong xây dựng nông thôn mới.
Muốn vậy, phát triển du lịch phải được xác
định là một giải pháp trọng yếu trong chiến
lược xóa đói giảm nghèo của quốc gia. Được
chính quyền địa phương triển khai nhằm mục
tiêu vì lợi ích của người nghèo chứ không phải
vì lợi ích thuần túy tăng ngân sách cho địa
phương.
Việt Nam có thể học hỏi rất nhiều kinh
nghiệm từ các nước đã trải qua 30, 40 năm
và đã thành công trong việc đặt nền móng và
phát triển du lịch, thay đổi diện mạo của vùng
nông thôn/nông nghiệp với điểm xuất phát
ban đầu giống Việt Nam hiện nay như Hàn
quốc, Nhật Bản và một số nước Châu Âu.
Xác định rõ nội dung chủ yếu để khai thác
tài nguyên du lịch trên địa bàn Tây Nguyên là
phát triển du lịch sinh thái, cảnh quan thiên
nhiên rừng, du lịch văn hóa tộc người với
phương thức đa dạng hóa thủ thể tham gia,
góp phần tăng thu nhập và việc làm từ du
lịch. Tài nguyên du lịch sẽ được khai thác để
tổ chức các loại hình du lịch mới, với các sản
phẩm và dịch vụ đa dạng, độc đáo, mang tính
đặc trưng của cảnh quan, của từng tộc người,
địa phương và khu vực. Hình thành các khu du
lịch, khu vui chơi giải trí không chỉ tập trung
ở các khu vực thành thị, thị trấn mà ở cả các
vùng nông thôn, tộc người. Các dự án du lịch
phải có sự tham gia của cộng đồng dân cư và
đem lại lợi ích cho cộng đồng.
Để du lịch gắn với phát triển kinh tế - xã hội
và xây dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên, cần
thực hiện một số nội dung:
Một là, xây dựng chính sách thu hút đầu tư
du lịch; chính sách khôi phục, phát triển các
ngành nghề truyền thống như dệt thổ cẩm
của người Mạ, đan lát của người Cơ Ho, nghề
gốm của người Churu, chính sách bảo tồn
và phát triển đàn voi, phát triển các chương
trình du lịch sinh thái gắn với bản làng dân tộc;
chính sách tuyên truyền giáo dục nâng cao
nhận thức về bảo tồn văn hóa truyền thống,
lễ hội của đồng bào dân tộc, nâng cao lòng tự
hào của người dân Tây Nguyên,
Hai là, tăng cường phối hợp hoạt động liên
ngành nhằm khai thác hiệu quả nền văn hóa
đa dạng các dân tộc thiểu số, góp phần bảo
tồn gìn giữ bản sắc văn hóa của đồng bào dân
tộc Tây Nguyên, đồng thời thỏa mãn nhu cầu
giao lưu, tìm hiểu văn hóa giữa du khách và
cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi
tư duy, cải thiện đời sống, tạo cơ hội việc làm
cho cư dân bản địa.
Ba là, triển khai xây dựng các mô hình du
lịch ở nông thôn miền núi Tây Nguyên sao
cho phù hợp với đặc điểm tộc người, các địa
phương khác nhau như mô hình du lịch trang
trại/nông trại; du lịch làng bản, du lịch làng
nghề; du lịch sinh thái nhân văn, du lịch mạo
hiểm với những nét khác biệt. Nông thôn miền
núi Tây Nguyên thường là vùng sâu, vùng xa,
nơi mà dân trí chưa cao, điều kiện kinh tế - xã
hội còn khó khăn và bất kỳ hoạt động nào
cũng dễ dàng tác động đến người dân, vì vậy,
việc tham gia vào một hoạt động thiết thực,
giúp họ cải thiện được đời sống cũng là cách
tích cực góp phần giảm nghèo, giảm tệ nạn,
tạo sinh kế và cuộc sống ổn định.
Số 24 - Tháng 6 - 201890
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Bốn là, cần chú ý trong công tác quản
lý để bảo tồn và phát triển sự độc đáo riêng
có của từng thôn bản, buôn làng về di tích,
danh thắng, về nếp sống và các ngành nghề
thủ công truyền thống. Định hướng, khuyến
khích làng nghề sản xuất các vật phẩm lưu
niệm, mỹ nghệ, tránh sao chép. Việc nâng cấp,
sửa sang nhà cửa, vườn, đường sá, cầu cống,
phục dựng, khôi phục và phát huy sinh hoạt lễ
hội, các hoạt động văn hóa nghệ thuật là cần
thiết để tạo thuận tiện và tăng tiện nghi đón
khách, nhưng song song với đó phải giữ gìn
được các di sản kiến trúc, phong cảnh thanh
bình đúng nghĩa buôn, bon và nét đẹp văn
hóa, thuần phong mỹ tục. Có như vậy, mới
đảm bảo tạo sức hấp dẫn du lịch, cuốn hút du
khách và mang tính bền vững. Đồng thời, khai
thác những phương tiện thô sơ như xe bò, voi,
thuyền gỗ, với những nét đặc sắc của từng
vùng, là phương tiện vận chuyển thường ngày
của người dân, nâng cấp phù hợp với tiện ích
và thẩm mỹ phục vụ du khách đến tham quan,
du lịch.
Năm là, chú trọng công tác sử dụng và đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực tại chỗ. Đào tạo
các kỹ năng tối thiểu cho cư dân địa phương,
cho đồng bào dân tộc thiểu số khi tham gia
thị trường lao động du lịch. Đảm bảo sinh kế
lâu dài cho họ và giúp họ phát triển trở thành
những người làm chủ.
Sáu là, đầu tư phát triển mạnh cơ sở hạ tầng
để tăng khả năng tiếp cận với các điểm du lịch,
đặc biệt là đường đến các khu bảo tồn, bản
làng, thôn xã vùng sâu, vùng xa với hệ thống
giao thông đường thủy, đường bộ. Đối với các
điểm phát triển du lịch cần xem xét lại tiêu
chí bê tông hay cứng hóa đường giao thông
theo quy định quốc gia trong xây dựng nông
thôn mới, bởi điều này chưa thực sự phù hợp
với tiêu chí hấp dẫn của các điểm du lịch, làm
thay đổi quá mức diện mạo cảnh quan nguyên
sơ của buôn làng; chú ý đầu tư cho cơ sở vật
chất, thiết bị kỹ thuật, hạ tầng xã hội phục vụ
du lịch, sao cho đáp ứng được các nhu cầu của
du khách, đảm bảo sự tiện ích, an toàn trong
du lịch và hỗ trợ đời sống của bà con dân cư.
Bảy là, đẩy mạnh liên kết du lịch với các
tỉnh, hợp tác xúc tiến, quảng bá du lịch ở quy
mô cấp vùng. Nối kết với các địa phương Huế,
Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Nhà Trang để
tăng dòng khách, tạo hệ thống sản phẩm hỗ
trợ và giảm chi phí cho các hoạt động quảng
bá, xúc tiến du lịch.
Tạm kết
Phát triển du lịch gắn với phát triển kinh tế
- xã hội, xây dựng nông thôn mới là một trong
những giải pháp hiệu quả và thích hợp cho
khu vực Tây Nguyên. Đây là một vùng đất có
tầm quan trọng đặc biệt về chính trị, kinh tế,
an ninh, quốc phòng. Sơn nguyên không chỉ
là mái nhà của Việt Nam mà cả Đông Nam Á
lục địa. Đảm bảo an sinh, ổn định trật tự và giải
quyết các vấn đề xã hội, xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở và thực hiện thành công xây dựng
nông thôn mới vùng Tây Nguyên là một vấn
đề hết sức quan trọng, cần sự quan tâm, vào
cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành. Hoàn
cảnh địa lý, môi trường, sinh thái và con người
ở đây với cấu trúc xã hội độc đáo, với một tập
hợp các yếu tố văn hóa phong phú, đa dạng,
nhiều màu sắc hấp dẫn, một khu vực lịch sử
hiếm có không chỉ ở Đông Nam Á và thế giới
thông qua du lịch sẽ phát triển mạnh mẽ và trở
thành điểm sáng trong tương lai.
B.T.T
(PGS.TS, Trưởng khoa Gia đình và Công tác
xã hội, Trường ĐHVH HN)
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Thanh Thủy (2009), Phát triển du lịch
vùng dân tộc thiểu số trong mối quan hệ với cộng
đồng, (phần 1, 2), Tạp chí Du lịch, số 7, 8, tr. 49 -51.
2. Bùi Thanh Thủy (2010), Sự thích ứng của văn
hóa truyền thống nhìn từ góc độ du lịch, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học quốc tế Văn hóa trong thế giới hội
nhập, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
3. Nhiều tác giả (2004), Vùng văn hóa Cồng
chiêng Tây Nguyên, Viện Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 26 - 2 - 2018
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 6 - 2018
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- du_lich_gan_voi_phat_trien_kinh_te_xa_hoi_va_xay_dung_nong_t.pdf