Du lịch mùa nước nổi ở vùng
ĐTM nếu được tổ chức hợp lí, đầu tư
đúng mức từ các cấp thì sẽ là một loại
hình du lịch độc đáo cho vùng. Đây là
loại hình du lịch đặc trưng theo mùa
nước nổi, chủ yếu tận dụng nguồn tài
nguyên thiên nhiên, cảnh quan sinh thái,
sản vật địa phương kết hợp với hoạt
động đời sống, sinh hoạt của người dân
trong vùng. Du lịch mùa nước nổi ĐTM
góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân trong vùng, giúp
khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên
một cách có hiệu quả hơn.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 680 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Du lịch mùa nước nổi vùng Đồng Tháp Mười - Tiềm năng và thực trạng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ý kiến trao đổi Số 32 năm 2011
__________________________________________________________________________________________________________
DU LỊCH MÙA NƯỚC NỔI VÙNG ĐỒNG THÁP MƯỜI
- TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG
TRẦN THỊ ĐANG THANH*
TÓM TẮT
Du lịch “mùa nước nổi” ở vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM) là một loại hình du lịch
mới, thể hiện sự thân thiện của con người đối với thiên nhiên. Nếu được đầu tư một
cách đúng mức, loại hình du lịch này sẽ có sức hấp dẫn riêng, tận dụng được tài nguyên
thiên nhiên, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trong vùng.
Từ khóa: mùa nước nổi, du lịch mùa nước nổi, Đồng Tháp Mười.
ABSTRACT
Flood season travel in Dong Thap Muoi – potential and status
Flooding season travel in Dong Thap Muoi is a new tourist form to present
human friendliness to nature. Being invested appropriately; this tourist form would
have its own attraction, make use of natural resources, contributing to improve the
people in the locality.
Keywords: flooding season, travel flooding season, Dong Thap Muoi.
1. Đặt vấn đề
Mùa nước nổi ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long nói chung và vùng
ĐTM nói riêng là một cơ hội cho sự
phát triển kinh tế của vùng và làm nổi
bật đặc trưng văn hóa, sinh hoạt của cư
dân ĐTM. Từ tháng 7 đến tháng 10 âm
lịch hàng năm, nước thượng nguồn sông
Cửu Long đổ về bồi đắp phù sa cho
vùng thêm màu mỡ và làm giảm lượng
phèn. Những chiếc ghe tam bản, xuồng
ba lá chính là phương tiện đi lại, đánh
bắt thủy sản, buôn bán và cả nhà ở.
Những làng nghề phục vụ cho đời sống
của người dân vùng nước nổi như đan
lưới, đan lờ, chằm lá, làm mắm cùng
những loại đặc sản chỉ xuất hiện vào
mùa nước nổi như: cá linh, bông điên
điển, rau choại, tạo nên sự phong
phú, đa dạng cho vùng ĐTM. Cùng với
* ThS, Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng
các điều kiện địa lí phù hợp cho việc
phát triển các loại hình du lịch, thì mùa
nước nổi vùng ĐTM đã tạo nên một loại
hình du lịch mới độc đáo, thể hiện sự
gần gũi giữa thiên nhiên và con người.
Bài viết này tập trung phân tích về các
mặt tiềm năng phát triển du lịch mùa
nước nổi, tác động từ du lịch mùa nước
nổi đến quá trình khai thác phát triển du
lịch và thực trạng phát triển du lịch mùa
nước nổi ở vùng ĐTM dựa trên nguồn
tài liệu về mùa nước nổi ở các tỉnh của
vùng và từ khảo sát thực địa.
2. Tiềm năng phát triển du lịch
mùa nước nổi vùng ĐTM
2.1. Sơ lược về vùng ĐTM
ĐTM (xem hình 1) không phải là
địa danh hành chính, mà là địa danh chỉ
vùng, do người dân đặt ra khi đến đây
khẩn hoang. Sau đó, người Pháp gọi
theo nhận xét về mặt thảo mộc là Plaine
Des Joncs (Cánh đồng lau sậy). Theo
168
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Đang Thanh
__________________________________________________________________________________________________________
địa giới hành chính, vùng Đồng Tháp
Mười được xác định thuộc địa phận của
ba tỉnh: Long An, Đồng Tháp và Tiền
Giang (số liệu được tổng hợp từ báo cáo
của ba tỉnh trong niên giám thống kê
năm 2009) với sự phân bố như sau:
- Long An (299 452 ha, chiếm 47%
vùng Đồng Tháp Mười) gồm các huyện:
Vĩnh Hưng, Tân Hưng, Mộc Hóa, Tân
Thạnh, Thạnh Hóa, Đức Huệ, Thủ Thừa
(4 xã phía Bắc), Bến Lức (3 xã phía
Bắc).
- Đồng Tháp (239 000 ha, chiếm
38% vùng) gồm: thành phố Cao Lãnh
và các huyện Tam Nông, Cao Lãnh,
Tháp Mười, Tân Hồng, Hồng Ngự (trừ
5 xã cù lao), Thanh Bình (trừ 5 xã cù
lao).
- Tiền Giang (92 500 ha, chiếm
15% vùng) gồm các huyện: Cái Bè, Cai
Lậy, Tân Phước và một phần huyện
Châu Thành.
Tính từ phía Bắc quốc lộ 1A thì
diện tích tự nhiên của vùng ĐTM
khoảng 630 952 ha, chiếm 17,72% tổng
điện tích tự nhiên của đồng bằng sông
Cửu Long. ĐTM là một vùng đất mới
nhưng cũng trải qua bao thời kì lịch sử,
cột mốc quan trọng nhất là vào năm
1689 - khi chúa Nguyễn khai khẩn
phương Nam - và mỗi giai đoạn là một
sự phát triển gắn liền với lịch sử:
Hình 1. Bản đồ hành chính Đồng Tháp Mười
169
Ý kiến trao đổi Số 32 năm 2011
__________________________________________________________________________________________________________
- Giai đoạn 1754-1802: Đây là
tuyến phòng thủ trong cuộc đánh dẹp
người Chân Lạp, nơi diễn ra cuộc chiến
tranh giữa quân Tây Sơn và triều
Nguyễn. Cuộc sống người dân trong
giai đoạn này chủ yếu tập trung ở phía
sông Tiền, sông Vàm Cỏ Đông, sống
dựa vào thiên nhiên như đánh bắt cá,
lấy mật ong, đan lát lợp nhà, đan đệm,
khai thác tràm lục và đập lúa ma (lúa
trời).
- Giai đoạn từ 1802 đến 30-04-
1975: Nguyễn Ánh thống nhất đất nước.
Cuộc sống người dân vùng ĐTM mở ra
bước ngoặt mới: kinh tế phát triển với
giao thương buôn bán và trồng lúa; hệ
thống kênh đào tháo phèn đưa về hai
hướng: Tiền Giang và sông Vàm Cỏ;
đường thủy mở rộng giao thương nội,
ngoại vùng với các kênh lớn như Hồng
Ngự, Cao Lãnh, Cái Bè, Thiên Hộ, Mỹ
An, Long Định, Tháp Mười, kênh Trà
Cú Thượng, kênh Lagrange, kênh Cổ Cò.
- Giai đoạn từ sau 1975 đến nay:
Được sự hỗ trợ của Nhà nước, ĐTM
được đầu tư về kinh tế, văn hóa và xã
hội, nhất là việc xây dựng các hệ thống
kênh rạch từ vùng phèn do cố Thủ
tướng Võ Văn Kiệt chỉ đạo, tạo sự
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế
nông nghiệp.
2.2. Hiện tượng mùa nước nổi ở vùng
ĐTM
Nước nổi là hiện tượng nước sông
dâng cao dần trong một khoảng thời
gian nhất định, sau đó giảm dần. Khái
niệm “mùa nước nổi” còn được thay thế
bởi khái niệm “lũ” hoặc “lụt”. Cách gọi
này cho thấy nhận thức của người dân
về hiện tượng thiên nhiên này là hoàn
toàn bình thường, như sự tuần hoàn của
các mùa trong một năm theo quy luật tự
nhiên. Hiện tượng này diễn ra do các
nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, địa hình vùng ĐTM có
dạng lòng chảo, xung quanh cao, giữa
thấp trũng, hơi lệch theo trục Tây Bắc -
Đông Nam, có thể chia ĐTM làm ba địa
hình đặc trưng là địa hình ven sông, các
giồng cát ven biển cổ và địa hình đồng
trũng trải dài từ tỉnh Kandal
(Campuchia) đến đây.
Thứ hai, hiện tượng lũ ở ĐTM
được hình thành bởi nước mưa với khối
lượng lớn trút xuống thượng nguồn
sông Mê-kông, các phụ lưu ở trung du
(ở phía Đông và Tây) do sự tác động
của gió mùa Tây Nam và nhiều yếu tố
thời tiết khác. Theo Nguyễn Quới, Phan
Văn Dốp [7] thì diễn biến một trận lũ ở
vùng ĐTM thường theo ba giai đoạn:
- Giai đoạn đầu gọi là “lũ sông”,
nước bắt đầu từ thượng nguồn sông Mê-
kông chảy vào ĐTM chứa nhiều phù sa
và lượng phù sa này được chuyển vào
đồng ruộng cũng đạt mức cao so với các
giai đoạn sau.
- Giai đoạn giữa gọi là giai đoạn “lũ
tràn”, lũ vẫn chảy theo các kênh chính
nhưng bắt đầu có một lượng nước khác
tràn qua bờ sông Tiền đổ vào ĐTM, tạo
nên quá trình chảy tràn trên bề mặt.
- Giai đoạn cuối là giai đoạn “lũ
rút”, lũ qua các cửa sông trên quốc lộ
1A từ An Hữu đến Trung Lương, chủ
yếu chảy về sông Tiền. Ngoài ra, kênh
Bo Bo và một số kênh khác còn là nơi
thoát lũ ra hệ thống sông Vàm Cỏ, cuối
cùng ra sông Soài Rạp. Hướng lũ đến và
lũ rút thể hiện ở hình 2:
170
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Đang Thanh
__________________________________________________________________________________________________________
Hình 2. Hướng lũ đến và lũ rút vùng ĐTM
Thứ ba, “ngập lụt” ở ĐTM có diễn
biến khác nhau trong từng năm, ngoài
lượng lũ đổ vào còn tùy thuộc các yếu
tố hạn chế quá trình thoát lũ, làm gia
tăng tình trạng ngập lụt: mưa nội đồng,
sự tác động của thủy triều từ biển Đông
và các công trình cơ sở hạ tầng mới
phát triển.
Dù ở mức độ nào thì lũ, lụt vẫn là
yếu tố chính chi phối các phương diện
từ tự nhiên cho đến xã hội của vùng
ĐTM. Đặc điểm của lũ, lụt nơi đây là từ
từ đến và từ từ đi theo chu kì mỗi năm
một lần. Lũ ở nơi đây được người dân
gọi là “con lũ hiền” hay “mùa nước
nổi”. Đây là điều kiện thuận lợi cho
việc hình thành, phát triển loại hình du
lịch mùa nước nổi ở ĐTM.
2.3. Đời sống sinh hoạt của người
dân
Mùa nước nổi tuy làm cho sinh
hoạt, sản xuất của đại bộ phận dân cư
trong vùng bị ảnh hưởng nhưng cũng
mang đến nhiều nguồn lợi cho người
dân. Không những thế, mùa nước nổi
còn thể hiện đặc trưng văn hóa của địa
phương qua các mặt sau đây:
- Về nhà ở: Người dân vùng ĐTM
có thói quen sống tập trung dọc bờ
kênh, sông, rạch. Nhà có kiến trúc
giống như những ngôi nhà ở Nam Bộ,
riêng nền nhà thì tùy theo khu vực ngập
nước nông hay cạn mà cao hay thấp,
hoặc làm nhà “cao cẳng”.
- Về phương tiện di chuyển: Phương
tiện di chuyển vào mùa nước nổi của
người dân là xuồng ba lá, ghe tam bản,
tắc ráng, ghe chày lón, ghe cà vom
Người dân vùng ĐTM sử dụng những vùng ĐTM trong mùa
nước nổi phương tiện này làm “chân đi” như đi
hái rau, đi thăm lưới, đi chợ, đi giăng
171
Ý kiến trao đổi Số 32 năm 2011
__________________________________________________________________________________________________________
câu, đi thăm xóm làng, đi buôn bán. Đôi
khi, những phương tiện đi lại này còn là
mái ấm của những người mà cả cuộc
đời gắn bó cùng ghe xuồng.
- Về hoạt động kinh tế: Người dân
vùng ĐTM có những hoạt động kinh tế
phù hợp với điều kiện của vùng. Trước
đây thì đánh bắt thủy sản và nhiều động
vật hoang dã, khai thác tài nguyên rừng
tràm lục, gặt lúa nước (lúa nổi), Ngày
nay thì trồng lúa, đa dạng hóa cây trồng
vật nuôi, bảo vệ và khai thác rừng tràm,
nuôi cá bè trên sông. Người dân ý thức
được rằng không chỉ biết khai thác mà
còn phải biết cách tái tạo để khai thác
lâu dài. Các hoạt động sản xuất ngày
càng phát triển đa dạng và phù hợp với
mùa nước nổi. Từ đó hoạt động vui chơi
giải trí, khám phá cảnh quan môi trường
sông nước dần dần được hình thành.
- Về đời sống tâm linh: Ngoài việc
thờ ông bà tổ tiên, người dân còn thờ ở
đình làng những người có công với
vùng. Sống trong vùng nước mênh
mông gió to sóng lớn, người dân luôn
cảm thấy thân phận mình nhỏ bé trước
thiên nhiên nên nương tựa tinh thần vào
đấng “bề trên”. Vì vậy ghe nào cũng thờ
Phật Bà Quan Âm, cũng có chỗ cắm
nhang cúng Bà Thủy, chư vị Đại Thần.
Đây là biểu hiện của tâm linh và cũng
có thể xem như là sản phẩm du lịch phi
vật thể.
2.4. Sản phẩm du lịch đặc trưng vào
mùa nước nổi vùng ĐTM
2.4.1. Mùa nước nổi còn là điều kiện
thuận lợi để các loài thủy sản, thực vật
sinh sôi, tạo nên sản phẩm du lịch đặc
trưng, như:
Cây tràm là loài cây đặc trưng của
vùng ĐTM do đặc tính thích nghi với
vùng đất phèn trũng, rất có ích trong
việc bảo vệ môi trường sinh thái, chắn
sóng, lũ, giữ nước. Ngoài rừng tràm
tự nhiên, người dân vùng ĐTM còn
trồng thêm tràm trong quá trình khai
hoang, góp phần đưa diện tích rừng
tràm gia tăng đáng kể. Hiện nay, ở vùng
ĐTM có một số điểm du lịch sinh thái
ngập nước kết hợp cùng cây tràm như
Tràm Chim, Láng Sen đang hoạt
động khai thác du lịch. Nhưng trên thực
tế, tiềm năng về cây tràm của vùng
ĐTM vẫn chưa được khai thác có hiệu
quả.
Cây sen ở ĐTM mọc một cách tự
nhiên khắp mọi nơi cùng lau sậy, cỏ lác,
cỏ năng. Đây là loại cây mà toàn bộ các
bộ phận đều được sử dụng, như: lá sen
để gói bánh, ngó sen dùng nấu canh hay
xào, hoa sen dùng trang trí, Ngoài
hiệu quả kinh tế cao, hoa sen còn làm
cho cảnh quan Đồng Tháp trở nên đẹp
hơn giữa thiên nhiên mùa nước nổi.
Bông điên điển chỉ xuất hiện vào
mùa nước nổi. Đây là loài cây thân
thảo, mọc hoang ở ven các bờ ruộng, bờ
kênh. Bông điên điển được dùng kèm
với nhiều món ăn như: cháo, bún nước
lèo, bún mắm, canh chua nấu với cá
linh; đặc biệt còn dùng làm nhân bánh
xèo, dưa chua hoặc ăn sống.
Bông súng mọc đầy dưới ruộng,
đìa, ao, được người dân dùng với mắm
kho, nấu canh chua.
Rau choại là loại dây leo thuộc họ
dương xỉ, thân bò đến đâu thì rễ bám
đến đó, sống được trong vùng bưng
172
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Đang Thanh
__________________________________________________________________________________________________________
trũng nhờ bộ rễ có sức hút nước mạnh,
đặc biệt rất thích nghi với vùng đất
nhiễm phèn. Tùy vào môi trường sống,
rau choại có nhiều loại khác nhau như
choại đá, choại vườn, choại rừng, chột
lụi, rau ván. Rau choại có thể dùng để
luộc và ăn kèm với các món khác.
Hẹ nước là loài thủy sinh sống
quanh năm nhưng sinh trưởng mạnh
vào mùa nước nổi. Hẹ nước có thể sống
ở vùng phèn nên trở thành đặc sản của
vùng ĐTM và không thể thiếu trong
bữa cơm của người dân ở đây.
Cá linh, vào đầu mùa nước nổi
cũng chính là lúc những con cá linh
theo dòng phù sa trôi về sông rạch.
Trong suốt mùa nước nổi, cá trốn vào
ruộng đồng để tránh sóng gió mưa bão.
Ngày nay, cá linh không còn nhiều như
trước đây nhưng sức hấp dẫn của những
món ăn chế biến từ cá linh thì không dễ
quên đối với người dân vùng ĐTM.
Cá bống trứng thường theo các dề
lục bình trôi theo dòng nước, có thể
dùng chế biến nhiều món ăn bằng cách
chiên hay kho.
Ngoài ra, còn có các loại cá đồng,
lươn, tôm, cua, ốc
Hoạt động du lịch không tách rời
với ẩm thực. ĐTM là nơi có một nền ẩm
thực hoang dã, hào phóng, cộng đồng.
Những món ăn ở đây được chế biến
theo điều kiện tự nhiên, sản vật tự
nhiên, không gian tự nhiên, cách thưởng
thức cũng tự nhiên không cầu kì. Ví dụ
như món nướng, cái gì cũng có thể
nướng được, không chỉ tôm, cua, cá,
heo, gà, vịt, mà còn có các loại rau củ
như khoai, cà tím, đậu bắp,; và có
nhiều cách nướng như: nướng trực tiếp
trên lửa, trên khói, nướng trui, bọc đất
nướng, bọc lá vùi vào lửa
2.4.2. Bên cạnh đó, các làng nghề cũng
là sản phẩm du lịch của ĐTM. Làng
nghề của người dân vùng ĐTM luôn
gắn liền với điều kiện tự nhiên nơi đây
như nghề đan lát, nghề đan đệm, nghề
làm các công cụ dùng đánh bắt cá tôm,
nghề làm mắm, nghề làm khô, nghề
chằm lá. Trong những năm gần đây,
ĐTM còn phát triển nghề đan lục bình
thành túi xách xuất khẩu.
ĐTM là vùng đất có nhiều tiềm
năng cho việc phát triển các loại hình
du lịch như: du lịch sinh thái, du lịch
sông nước miệt vườn, du lịch nghỉ
dưỡng, du lịch chiến trường xưa, du lịch
tìm hiểu thời khẩn hoang Nam Bộ. Sự
hiếu khách, thân thiện cùng với cuộc
sống sinh hoạt của người dân vùng
nước nổi tạo nên đặc trưng văn hóa, là
thế mạnh trong việc khai thác du lịch tại
địa phương.
3. Tác động từ du lịch mùa nước
nổi đến quá trình khai thác phát triển
du lịch ở vùng ĐTM
Du lịch mùa nước nổi phát triển
dẫn đến hàng loạt vấn đề như tự nhiên,
văn hóa, đời sống cũng thay đổi theo.
Cảnh quan vùng ĐTM sẽ thay đổi theo
chiều hướng tích cực nếu có sự quản lí
và đầu tư phù hợp.
Khi hoạt động du lịch diễn ra
trong mùa nước nổi, tài nguyên tự nhiên
của vùng sẽ được sử dụng tối đa. Người
dân không chỉ làm công việc đánh bắt,
nuôi trồng mà còn tham gia phục vụ du
lịch, tạo cơ hội giải quyết việc làm
173
Ý kiến trao đổi Số 32 năm 2011
__________________________________________________________________________________________________________
trong mùa nước nổi, tăng nguồn thu
nhập. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch
còn giúp họ trao đổi kinh nghiệm, hiểu
biết thêm về đời sống, văn hóa, nâng
cao chất lượng cuộc sống.
Du lịch mùa nước nổi của vùng
ĐTM khẳng định giá trị của việc bảo
tồn diện tích tự nhiên, cảnh quan thiên
nhiên dưới sự tác động của thời tiết, khí
hậu. Từ đó các điểm, khu du lịch, khu
bảo tồn và vườn quốc gia của vùng có
điều kiện phát triển.
Cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ
tầng sẽ được quan tâm và đầu tư phù
hợp hơn với tình hình phát triển du lịch
và kinh tế của vùng (chẳng hạn như hệ
thống đường giao thông, hệ thống xử lí
chất thải, phương tiện di chuyển, bến
bãi.)
Về nguồn tài nguyên tự nhiên, bên
cạnh những mặt tích cực có những vấn
đề tiêu cực cần được quan tâm, như: do
phụ thuộc vào mùa, khí hậu, thời tiết,
tài nguyên trong mùa nước nổi được
khai thác nhiều không kịp tái tạo; động
thực vật tự nhiên được sử dụng làm
thực phẩm bị tiêu thụ nhiều trong khi
quá trình tái tạo cần có thời gian. Vì
vậy, nếu khai thác không hợp lí sẽ dẫn
đến nguồn tài nguyên khó tái tạo và có
thể mất đi.
Cuộc sống người dân vùng ĐTM
gắn liền sông nước, các sông rạch vốn
chịu tác động nhiều từ sinh hoạt của
người dân như: giặt giũ, tắm rửa, phóng
uế, xả rác thải, nuôi gia cầm, gia súc,
nên khi du lịch phát triển sẽ phải gánh
thêm một lượng rác thải nữa từ du
khách. Rác thải là bài toán khó mà các
cấp lãnh đạo cần phải tìm cho ra lời
giải.
Vấn đề tiếng ồn từ phương tiện
giao thông (xe, ghe, tàu thuyền) của
du khách đến vùng cũng sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của người dân địa
phương, đến các động vật hoang dã cần
bảo tồn.
4. Thực trạng phát triển du lịch
mùa nước nổi vùng ĐTM
4.1. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ
thuật phục vụ du lịch
Về cơ sở hạ tầng, ĐTM có hệ
thống giao thông đường thủy và đường
bộ chi phối toàn bộ hoạt động của vùng.
Hệ thống giao thông đường bộ gồm có
ba quốc lộ là 30, 62, 1A đang trong tình
trạng được nâng cấp, nhựa hóa, làm mới
các cầu và cống trên đường. Hệ thống
giao thông đường thủy phân bố không
đều, tập trung nhiều ở những nơi khai
thác thuận lợi và thưa thớt ở những nơi
khai thác khó khăn, hệ thống kênh,
mương nhân tạo chiếm đa số. Giao
thông thủy bộ của vùng chi phối rất lớn
đến sự phát triển của hoạt động du lịch,
không chỉ mùa nước nổi mà cả những
mùa khác.
Cơ sở vật chất kĩ thuật của vùng,
đặc biệt là cơ sở lưu trú, trên thực tế
đang trong tình trạng xuống cấp, chất
lượng thấp kém không đủ tiêu chuẩn để
phục vụ khách quốc tế. Vì vậy, du
khách đến tham quan xong vẫn phải trở
về trung tâm để lưu trú.
Về kinh doanh ẩm thực, các cơ sở
ăn uống rất đa dạng về hình thức, mang
đậm chất Nam Bộ nhưng tiêu chí về vệ
sinh an toàn thực phẩm còn là một dấu
174
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Thị Đang Thanh
__________________________________________________________________________________________________________
hỏi lớn. Dịch vụ vui chơi giải trí phát
triển đơn điệu kém sức thu hút. Khách
dễ có cảm giác nhàm chán khi đến tham
quan tại các tỉnh của vùng, nhất là về
đêm, những khu vui chơi giải trí còn
quá ít hoặc hầu như không có.
4.2. Lao động trong ngành du lịch
Số người lao động trong lĩnh vực
du lịch của các tỉnh vùng ĐTM thể hiện
qua bảng sau:
Bảng thống kê số liệu lao động trong ngành du lịch của các tỉnh
vùng ĐTM giai đoạn 2004-2008
Đơn vị: Người
Năm Long An Đồng Tháp Tiền Giang Tổng số
2004 276 278 592 1.146
2005 300 271 610 1.181
2006 350 318 648 1.316
2007 360 308 709 1.377
2008 375 344 720 1.439
Nguồn: Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch của 3 tỉnh
Long An - Đồng Tháp - Tiền Giang năm 2009
Bảng số liệu trên cho thấy lao
động trong ngành du lịch vẫn còn là vấn
đề nan giải của các tỉnh vùng ĐTM.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do
thu nhập không đảm bảo được đời sống
của người làm du lịch; chính sách ưu
đãi để thu hút nguồn lao động còn nhiều
yếu kém; cơ cấu tổ chức chưa tạo điều
kiện cho người dân cùng tham gia du
lịch. Tuy nhiên, người dân ở đây có thế
mạnh để thu hút du lịch, đó là những ưu
điểm cơ bản như tinh thần hiếu khách,
nhiệt tình, vui vẻ và thật thà.
4.3. Các điểm và tuyến du lịch hiện
đang khai thác tại vùng ĐTM
Các điểm du lịch đang được khai
thác ở ĐTM là: Vườn quốc gia Tràm
Chim ở Tam Nông – Đồng Tháp, Khu
bảo tồn Láng Sen, Khu di tích Xẻo
Quýt, Trung tâm bảo tồn dược liệu
ĐTM, sân chim Gáo Giồng, sông Vàm
Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ Tây, làng nổi
Tân Lập, cụm di tích Gò Tháp, chùa tổ
Bửu Lâm, lăng Tiền quân Nguyễn
Huỳnh Đức, dinh Ông Đốc Vàng, Văn
thánh miếu Cao Lãnh.
Tuyến du lịch gồm có: tuyến
Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) –
ĐTM, TPHCM – Tân An – Mộc Hóa,
TPHCM – Tràm Chim, TPHCM – TP
Cao Lãnh – Tam Nông Đồng Tháp,
TPHCM – Đồng Tháp, Tân An – Cần
Đước – Cần Giuộc. Các tuyến du lịch
trên hiện khai thác chủ yếu trong
khoảng thời gian ngắn, thường là 5-6
giờ hoặc chỉ trong ngày, còn những
tuyến 3-4 ngày được khai thác rất ít và
không thường xuyên; điều này dẫn đến
một số hệ quả như sau:
- Thời gian lưu trú qua đêm của
khách không lâu dù lượng khách đến
hàng năm tăng.
- Chưa giúp du khách hiểu được hết
những điều thú vị mà mùa nước nổi
175
Ý kiến trao đổi Số 32 năm 2011
__________________________________________________________________________________________________________
mang đến, chưa tạo được mối giao lưu
giữa người dân trong vùng và du khách,
nhiều du khách dễ có cảm giác nhàm
chán, không muốn quay trở lại.
5. Kết luận
Du lịch mùa nước nổi ở vùng
ĐTM nếu được tổ chức hợp lí, đầu tư
đúng mức từ các cấp thì sẽ là một loại
hình du lịch độc đáo cho vùng. Đây là
loại hình du lịch đặc trưng theo mùa
nước nổi, chủ yếu tận dụng nguồn tài
nguyên thiên nhiên, cảnh quan sinh thái,
sản vật địa phương kết hợp với hoạt
động đời sống, sinh hoạt của người dân
trong vùng. Du lịch mùa nước nổi ĐTM
góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân trong vùng, giúp
khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên
một cách có hiệu quả hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hữu Hiếu (đồng tác giả) (2004), Đồng Tháp 300 năm, Nxb Trẻ, TPHCM.
2. Nguyễn Hữu Hiếu (2007), Văn hóa dân gian vùng Đồng Tháp Mười, Nxb Văn
nghệ, TPHCM.
3. Xuân Huy (2004), Văn hóa ẩm thực và các món ăn Việt Nam, Nxb Trẻ, TPHCM.
4. Lê Phú Khải (1989), Đồng Tháp Mười hôm nay, Nxb TP Hồ Chí Minh, TPHCM.
5. Nguyễn Hiến Lê (1989), Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Nxb Long An, Long
An.
6. Võ Trần Nhã (chủ biên) (1993), Lịch sử Đồng Tháp Mười, Nxb TP Hồ Chí Minh,
TPHCM.
7. Nguyễn Quới và Phan Văn Dốp (1999), Đồng Tháp Mười: nghiên cứu phát triển,
Nxb Khoa học xã hội.
8.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài:13-7-2011; ngày chấp nhận đăng: 02-11-2011)
176
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- du_lich_mua_nuoc_noi_vung_dong_thap_muoi_6719.pdf