Các kênh quảng bá văn hóa của Việt Nam đến Nhật
Bản ngày càng được mở rộng so với trước đây nhờ
vào việc tuyên truyền của các cơ quan Nhà nước, báo
chí truyền thông, các doanh nghiệp, giới học giả cho
đến các cá nhân người Việt Nam ở trong nước, kiều
bào ở Nhật Bản. Trong đó, các hoạt động du lịch của
người Nhật Bản tại Việt Nam và các sự kiện Việt Nam
được tổ chức ở Nhật Bản vẫn đang đóng vai trò quan
trọng nhất định thúc đẩy tăng cường tình hữu nghị và
quan hệ hợp tác của Việt Nam với Nhật Bản. Người
Nhật Bản nhận thức đúng hay sai về Việt Nam phụ
thuộc hoàn toàn vào trình độ quảng bá văn hóa của
Việt Nam. Vì vậy, đòi hỏi việc quảng bá cần được gấp
rút nâng cao trên các phương diện như mục đích, nội
dung, phương pháp và phương tiện. Các ban ngành
cần có kế hoạch cụ thể để tuyên truyền, giáo dục, bồi
dưỡng ý thức và trình độ của người dân để họ nhận
thức được đúng đắn ý nghĩa của công tác quảng bá
văn hóa Việt Nam đến Nhật Bản.
Thế kỷ 21 là thế kỷ cơ hội của sự phát triển thịnh
vượng. Quan hệ ngoại giao Việt Nam với Nhật Bản
không thể dừng lại rời rạc ở một trong ba khía cạnh
kinh tế, chính trị hay văn hóa, mà phải là sự gắn kết
chặt chẽ giữa chúng. Phát triển kinh tế - xã hội luôn là
nhiệm vụ trọng tâm của Việt Nam, việc quảng bá văn
hóa Việt Nam đến Nhật Bản cũng cần phục vụ trực
tiếp hoặc gián tiếp cho nhiệm vụ này. Các hoạt động
du lịch và tổ chức sự kiện cần được tiến hành trong sự
liên kết với các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư
giữa hai bên. Cách tiếp cận như vậy sẽ huy động và
tiết kiệm được nguồn lực cho Việt Nam nhằm phục
vụ hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định xã
hội, hướng đến một nền chính trị bền vững.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 303 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Du lịch và tổ chức các sự kiện trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam đến Nhật Bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(4):191-199
Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu
Trường Đại học Văn Hiến TP.HCM
Liên hệ
Lưu Tuấn Anh, Trường Đại học Văn Hiến
TP.HCM
Email: luutuananh686@gmail.com
Lịch sử
Ngày nhận: 23/01/2019
Ngày chấp nhận: 29/10/2019
Ngày đăng: 31/12/2019
DOI : 10.32508/stdjssh.v3i4.530
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Du lịch và tổ chức các sự kiện trong việc quảng bá văn hóa Việt
Nam đến Nhật Bản
Lưu Tuấn Anh*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Trong thời buổi hội nhập hiện nay, quảng bá văn hóa làmột xu thế tất yếu của hầu hết các quốc gia
trên thế giới trong các chiến lược mở rộng quan hệ quốc tế và phát triển đất nước ở mọi phương
diện. Việc quảng bá văn hóa có khả năng giải quyết những thách thức lớn của thời đại theo hướng
bền vững, chẳng hạn thách thức về nghèo đói, lạc hậu, bất ổn và xung đột. Khi các nền văn hóa
của các quốc gia có điều kiện tiếp xúc với nhau thì việc quảng bá văn hóa càng thật sự cần thiết.
Đối với Việt Nam, việc quảng bá văn hóa là một phương tiện hữu hiệu của toàn cầu hóa văn hóa và
là biện pháp tích cực để xây dựng, mở rộng sức mạnhmềm của Việt Nam với thế giới. Việt Nam đã
có nhiều hoạt động để thúc đẩy mối quan hệ hợp tác quốc tế với Nhật Bản, đặc biệt là vào những
năm đầu thế kỷ 21. Bài viết này khẳng định trong chiến lược quảng bá văn hóa của Việt Nam đến
Nhật Bản, các hoạt động du lịch và công tác tổ chức các sự kiện là những kênh quảng bá có tác
dụng quan trọng thu hút sự tìm hiểu lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, quảng bá hiệu quả hình
ảnh đất nước – con người – văn hóa Việt Nam đến với Nhật Bản. Từ đó thiết lập mối quan hệ quốc
tế bền vững giữa hai nước, tạo điều kiện phát triển thuận lợi cho Việt Nam trên trường thế giới.
Từ khoá: quảng bá văn hóa, ngoại giao văn hóa, du lịch, sự kiện quốc tế, quan hệ Việt Nam – Nhật
Bản
DẪNNHẬP
Trong thời buổi quá trình toàn cầu hóa diễn ra sâu
rộng, khi khoảng cách giữa các quốc gia trên thế giới
ngày càng thu hẹp thì việc quảng bá văn hóa trở thành
xu thế tất yếu được ưa chuộng để thúc đẩy quá trình
hội nhập nhanh chóng của họ. Quảng bá văn hóa là
chìa khoá mở rộng cánh cửa quan hệ quốc tế, là nhân
tố đảm bảo các mục tiêu đối ngoại giữa Việt Nam với
Nhật Bản hiệu quả nhất. Có thể nói, Nhật Bản cho
đến nay vẫn luôn là đối tác chiến lược quan trọng, một
nhà đầu tư lớn của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Mối
quan hệViệt –Nhật không ngừng được thúc đẩy bằng
nhiều hoạt động văn hóa có ý nghĩa trong hơn 45 năm
qua.
Mọi khía cạnh, hiện tượng trong đời sống vật chất và
tinh thần của người Việt Nam đều chứa đựng những
giá trị văn hóa tốt đẹp có thể quảng bá đến Nhật Bản
và cả thế giới. Những năm qua, Việt Nam đã có nhiều
định hướng chiến lược để thúc đẩy việc quảng bá văn
hóa Việt Nam đến Nhật Bản thông qua nhiều kênh.
Các hoạt động du lịch, những sự kiện, lễ hội Việt Nam
được tổ chức bài bản thu hút sự quan tâm, niềm tin và
tìm đến ngày một đông của người Nhật Bản. Chúng
góp phần rất lớn tạo ra sự thành công trong việc quảng
bá hình ảnh đất nước, con người và văn hóa Việt Nam
đến với Nhật Bản. Bài viết này đề cập đến hoạt động
quảng bá văn hóa của Việt Nam đến Nhật Bản qua
hai khía cạnh là các hoạt động du lịch của người Nhật
Bản ởViệtNamvà việc tổ chức các sự kiệnViệtNamở
Nhật Bản để thấy được vai trò, những đóng góp quan
trọng của chúng trong sự tăng trưởng bền vững của
Việt Nam. Qua đó, hy vọng tạo được cái nhìn toàn
diện hơn trong công tác quan hệ quốc tế củaViệtNam
với Nhật Bản nhằm đạt được các mục tiêu phát triển
trước mắt và lâu dài.
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VÀ PHẠMVI NGHIÊN CỨU CỦAĐỀ
TÀI
Các phương pháp như phương pháp nghiên cứu hệ
thống, phương pháp quan sát, phương pháp phân tích
tư liệu và hướng tiếp cận liên ngành được vận dụng
phù hợp và linh hoạt trong bài viết để làm sáng tỏ
những luận điểm mà đề tài hướng đến.
Phương pháp nghiên cứu hệ thống xem việc quảng bá
văn hóa Việt Nam đến Nhật Bản như một hệ thống
gồm nhiều bộ phận nhỏ là các phương thức quảng bá
trong mối quan hệ tương quan chặt chẽ. Trong đó,
mỗi phương thức như hoạt động du lịch hay việc tổ
chức các sự kiện giữaViệtNamvớiNhật Bản lại làmột
hệ thống được cấu thành từ những thành tố chức năng
nhỏ hơn. Phương pháp nghiên cứu hệ thống sẽ làm
Trích dẫn bài báo này: Tuấn Anh L. Du lịch và tổ chức các sự kiện trong việc quảng bá văn hóa Việt
Nam đến Nhật Bản. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 3(4):191-199.
191
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(4):191-199
sáng tỏ cấu trúc nội tại, các đặc trưng của 2 phương
thức này trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam đến
Nhật Bản, cùng với vai trò của việc quảng bá văn hóa
ViệtNamđếnNhật Bản trong hệ thống lớn hơn làmối
quan hệ quốc tế Việt Nam - Nhật Bản. Trong đó, con
người như một mắt xích quan trọng giúp hoạt động
quảng bá văn hóa của Việt Nam đến Nhật Bản thông
qua 2 phương thức này được liên tục vận hành và vận
hành một cách hiệu quả.
Phương pháp quan sát được vận dụng trong bài viết
để nghiên cứu các khía cạnh trong hoạt động du lịch
và tổ chức sự kiện để quảng bá văn hóa Việt Nam đến
Nhật Bản một cách sâu sắc và khách quan hơn. Đối
tượng quan sát của bài viết là các hoạt động tổ chức
sự kiện quảng bá văn hóa của Việt Nam tại Nhật Bản
và các hoạt động du lịch của người Nhật Bản tại Việt
Nam mà tác giả đã được trực tiếp trải nghiệm và biết
đến. Thông qua quá trình thâm nhập và quan sát thực
tế, bài viết xác định được tầm quan trọng của các hoạt
động du lịch và tổ chức sự kiện trong việc quảng bá
văn hóa Việt Nam đến Nhật Bản nhằm phát triển mối
quan hệ quốc tế tốt đẹp giữa 2 quốc gia, tiến tới phát
triểnViệtNam trênnhiều phươngdiện. Trongđó, yếu
tố con người đóng vai trò rất cần thiết. Phương pháp
này cũng giúp nhận diện đúng đắn về những biểu hiện
của yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế trong quá trình
quảng bá văn hóa Việt Nam đến Nhật Bản.
Phương pháp phân tích tư liệu được tiến hành trên
những tư liệu thứ cấp có sẵn (bao gồm các công trình
sách, bài báo chuyên ngành, bài viết trên Internet) với
nội dung liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài.
Phương pháp này hỗ trợ cho công đoạn đầu tiên là xử
lý tư liệu cho đề tài, tạo ra hiệu quả cao trong việc đọc,
thu thập thông tin và xử lý các thông tin đó thànhmột
hệ thống hoàn chỉnh phù hợp với nội dung mà đề tài
cần đạt được. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các quan
điểm nghiên cứu từ các tư liệu đó, bài viết xác định
cơ sở lý luận, thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên
cứu về hoạt động du lịch và tổ chức sự kiện để quảng
bá văn hóa Việt Nam đến Nhật Bản.
Hướng nghiên cứu tiếp cận liên ngành được vận dụng
trong bài viết với việc tích hợp những kiến thức và
phương pháp nghiên cứu của các chuyên ngành khoa
học liên quan như du lịch, quản trị sự kiện, văn hóa
học, quan hệ quốc tế, kinh tế để làm sáng tỏ những
luận điểm muốn chứng minh trong đề tài.
Trong khuôn khổ cho phép, bài viết tập trung phân
tích nội dung chính biểu hiện những đặc trưng, thực
trạng của 2 phương diện quan trọng trong việc quảng
bá văn hóa Việt Nam đến Nhật Bản, đó là các hoạt
động du lịch của người Nhật Bản tại Việt Nam và việc
tổ chức các sự kiện quảng bá văn hóa Việt Nam tại
Nhật Bản. Vì đặc thù của đối tượng nghiên cứu nên
không gian nghiên cứu của đề tài bao gồm không gian
xã hội Việt Nam và không gian xã hội Nhật Bản, trục
thời gian là giai đoạn hiện nay.
VAI TRÒ CỦA VIỆC QUẢNG BÁ VĂN
HÓA CỦA VIỆT NAMĐẾNNHẬT BẢN
Từ đầu thế kỷ 21, việc quảng bá văn hóa là một nhu
cầu cần thiết và là một trong những thành tố chính
trong quan hệ ngoại giao của các quốc gia. Vibeke
Jensen (nguyên Trưởng đại diện văn phòng UNESCO
tại Việt Nam) nhận định: “nhờ văn hóa mà chúng ta
có thể hiểu biết nhau hơn. Văn hóa giúp xóa đi những
đường biên giới hữu hình và vô hình đang ngăn cách
chúng ta”1. Quảng bá văn hóa nên là kết quả tất yếu
của quá trình toàn cầu hóa văn hóa và là phương tiện
hữu hiệu để xây dựng, mở rộng quyền lực mềm soft
power của quốc gia với thế giới. “Theo nhu cầu thực
hiện nhiệm vụ quan hệ đối ngoại và cạnh tranh năng
lực tổng hợp quốc gia, trong sức mạnh tổng hợp quốc
gia không thể thiếu một bộ phận quan trọng là quyền
lực mềm văn hóa quốc gia. Quyền lực mềm văn hóa
ngày càng phát huy vai trò củamình trong thời kỳ toàn
cầu hóa [] quyền lực mềm văn hóa còn khả năng
thông qua phương thức truyền thông văn hóa và thẩm
thấu văn hóa trực tiếp ảnh hưởng đến các quốc gia
khác”2.
Việc quảng bá văn hóa có khả năng giải quyết những
thách thức lớn của thời đại theo hướng bền vững,
chẳng hạn thách thức về sự bất bình đẳng, nghèo đói
và xung đột. Đặc biệt khi nền văn hóa của các quốc
gia có điều kiện cọ sát với nhau thì quảng bá văn hóa
càng thật sự trở nên cần thiết. “Một quốc gia muốn
trở thành cường quốc khu vực hay thế giới thì nền văn
hóa của quốc gia đó phải có sức hút trên phạm vi khu
vực hay thế giới. Đối với một nước vừa và nhỏ, muốn
tồn tại và phát triển thì càng phải phát huy được bản
sắc văn hóa dân tộc. Qua đó nhân thêm sức mạnh để
xây dựng đất nước, giành được sự coi trọng của các
nước và có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế”3.
Chính vì vậy, quảng bá văn hóa là bộ phận hoạt động
hết sức quan trọng trong đường lối đối ngoại của Việt
Nam. Các hoạt động văn hóa không thể tách biệt với
những hoạt động trên các phương diện khác, chúng
gắn kết chặt chẽ với nhau, mang lại kết quả chung cho
sự phát triển của Việt Nam. Việt Nam cần xác định
văn hóa làmột thành tố quan trọng cấu thành nên sức
mạnh quốc gia Việt Nam. Việc quảng bá văn hóa Việt
Nam sẽ góp phần xây dựng và bảo vệ thương hiệu quốc
gia lâu dài choViệtNam trên trường quốc tế. “Thương
hiệu quốc gia là đích đến quan trọng và cũng là khởi
đầu thiết yếu cho sự phát triển của bất kỳ quốc gia
nào. Có nhiều cách để xây dựng thương hiệu, nhưng
192
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(4):191-199
hiệu quả nhất và lâu dài nhất vẫn là vận dụng tối đa
sứcmạnhmềmvăn hóa, những giá trị bản sắc văn hóa
truyền thống vào hoạt động ngoại giao”3.
Cho đến nay, Nhật Bản vẫn là nước đầu tư, viện trợ
lớn ở Việt Nam trong các ngành nghề, lĩnh vực. Việc
phát triển quan hệ ngoại giao Việt – Nhật từ phía Việt
Nam bằng con đường văn hóa là điều cần thiết. Trọng
tâm của việc quảng bá văn hóa Việt Nam đến Nhật
Bản là quảng bá đất nước, con người, bản sắc văn hóa
truyền thống, văn hóa đương đại của Việt Nam đến
với người dân Nhật Bản không nhằm mục đích lợi
nhuận cụ thể nào. Các chiến dịch quảng bá văn hóa
của Việt NamđếnNhật Bản những năm gần đây được
diễn ra bằng nhiều phương thức qua phim ảnh, âm
nhạc, du lịch, các sự kiện – lễ hội, các di sản được công
nhận, cộng đồng người Việt ở Nhật, các văn phòng
đại diện... Chúng góp phần xây dựng và củng cố tình
hữu nghị, lòng tin của nhân dân hai nước. Từ đó, khai
thông, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam với Nhật Bản
trên nhiều phương diện, góp phần đảm bảo an ninh
quốc gia và phục vụ phát triển kinh tế. Trong thời kỳ
mới, quảng bá văn hóa của Việt Nam đến Nhật Bản
càng có tầm quan trọng đối với sự phát triển của Việt
Nam.
Vai trò của việc quảng bá văn hóa của Việt Nam đến
Nhật Bản có thể dễ được nhận thấy nhưng việc xác
định nội hàm và phạm vi của nó lại phức tạp hơn.
Con đường quảng bá văn hóa của Việt Nam đến Nhật
Bản diễn ra theo hai chiều: (1) thông qua văn hóa để
quảng bá đất nướcViệtNamđếnNhật Bản nhằmphát
triển mối quan hệ quốc tế giữa hai nước và ngược lại
(2) thông qua sự phát triển của mối quan hệ giữa hai
nước để thúc đẩy các hoạt động quảng bá văn hóa,
giao lưu văn hóa nhằm nâng cao hình ảnh Việt Nam
trong lòng người dân Nhật Bản nói riêng, quốc tế nói
chung. Tức là sự phát triển bền vững củamối quan hệ
Việt Nam với Nhật Bản được xây dựng bằng văn hóa
và vì văn hóa. Các hoạt động quảng bá của Việt Nam
đến Nhật Bản hướng tới đối tượng là chính phủ và
người dân Nhật Bản, được các đơn vị, cơ quan, Nhà
nước tổ chức, ủng hộhoặc bảo trợ. Phạmvi của chúng
khá rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh
với những mục tiêu phát triển khác nhau. Các hoạt
động đó được triển khai trong khoảng thời gian nhất
định bằng các hình thức văn hóa như: nghệ thuật,
phim ảnh, ấn phẩm, văn học, lịch sử, tư tưởng, trang
phục, ẩm thực... Tuy nhiên, “khác với kinh tế có thể
thu hồi vốn trực tiếp, thì văn hóa là lĩnh vực chỉ có
thể thu hồi vốn dưới dạng vô hình, do đó phải chấp
nhận sự đầu tư tốn kém, lâu dài và kiên trì”3. Những
người làm công tác liên quan đến việc quảng bá văn
hóaViệt NamđếnNhật Bản cần tìm hiểu, nghiên cứu,
đầu tư thích đáng, chứng minh bằng thực tiễn để có
thể hoạch định được các chiến lược, chính sách quảng
bá cụ thể và hiệu quả.
TỔ CHỨC CÁC SỰ KIỆN VIỆT NAMỞ
NHẬT BẢN TRONGHOẠT ĐỘNG
QUẢNG BÁ VĂNHÓA VIỆT NAM
ĐẾNNHẬT BẢN
Những sự kiện văn hóa là kênh quảng bá hiệu quả văn
hóa Việt Nam đến Nhật Bản. “Bất kỳ một sự kiện nào
thực hiện cũng nhằm đạt đượcmục tiêu truyền thông
nào đó. Toàn bộ các hoạt động sự kiện diễn ra trong
bối cảnh không gian thời gian cụ thể khác biệt. Đối
tượng tham dự sẽ nhận được một hệ thống giá trị vật
chất và phi vật chất do sự kiện mang lại. Hệ thống
giá trị đó chính là thông điệp mà chủ sở hữu sự kiện
chuyển tới đối tượng nhận của họ”4. Các sự kiện Việt
Nam tại Nhật Bản được các Bộ ngành, cơ quan, tổ
chức, đơn vị và cá nhân người Việt Nam tự tổ chức
hoặc cùng phối hợp tổ chức với phía Nhật Bản. Đối
tượng trọng tâm hướng tới của các sự kiện là người
Nhật Bản, ngoài ra cộng đồng người Việt Nam hay
người nước khác đang sinh sống ở Nhật Bản cũng là
đối tượng tiếp nhận những thông điệp mà các sự kiện
đó mang lại theo những ý nghĩa khác nhau. Mục tiêu
truyền thông của các sự kiện Việt Nam được tổ chức
ở Nhật Bản đều hướng đến quảng bá đất nước và con
người Việt Nam.
“Vấn đề phát triển công nghiệp văn hóa tất nhiên là
kéo theo hoạt động xuất khẩu sản phẩm văn hóa ngày
càng nhiều. Vấn đề xuất khẩu này không chỉ mang lại
lợi ích kinh tế lớn cho quốc gia mà vô hình trong đó
còn truyền đi những thông điệp truyền thông, quảng
bá về những giá trị văn hóa quốc gia”2 . Những hoạt
động như lễ hội văn hóa Việt Nam, tuần lễ văn hóa
Việt Nam, sự kiện âm nhạc Việt Nam, triển lãm các
thành tựu Việt Nam, các cuộc thi văn hóa nghệ thuật
quốc tế có sự tham gia của Việt Nam được tổ chức ở
Nhật Bản chính là những sản phẩm văn hóa của Việt
Nam được xuất khẩu sang Nhật Bản. Các sản phẩm
này chuyển tải bản sắc văn hóaViệt Nam tới Nhật Bản
một cách đầy đủ nhất. Sự thành công của chúng khiến
cho “văn hóaViệtNamngày càng hiện diện nhiều hơn
ở đất nước mặt trời mọc từ văn học, âm nhạc đến ẩm
thực...”5. Qua đó, quan hệ ngoại giao giữa hai nước
Việt – Nhật được thúc đẩy trên mọi mặt, việc đầu tư
kinh tế của Nhật Bản vào Việt Nam được xúc tiến, mở
rộng hơn sức ảnh hưởng của Việt Nam ra khu vực và
thế giới.
Chẳng hạn đầu tiên nên kể đến là những sự kiện có
quy mô quốc gia và tầm ảnh hưởng lớn như Vietnam
Festival diễn ra tạiNhật Bản. Sự kiệnnày được tổ chức
hàng năm trong hơn 10 năm nay, là dịp tuyệt vời để
193
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(4):191-199
trao đổi văn hóa giữa hai dân tộc Nhật Bản và Việt
Nam. Năm 2008, Vietnam Festival được tổ chức lần
đầu tiên để kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại
giao giữa Nhật bản với Việt Nam, chào mừng 150.000
lượt khách trong vòng ba ngày. Kể từ đó, Vietnam
Festival thu hút hơn 100.000 người mỗi năm6. Sau 10
năm phát triển, Vietnam Festival trở thành hoạt động
giao lưu văn hóa thu hút đông đảo người dân Nhật
Bản và cộng đồng người Việt Nam sinh sống tại Nhật
Bản đến tham dự. Năm 2018, Đại sứ quán Việt Nam
tiếp tục phối hợp với Ban tổ chức lễ hội phía Nhật
Bản và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để tổ chức
Vietnam Festival 2018 nằm trong chuỗi kỷ niệm 45
năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Nhật
Bản tại Tokyo. Vietnam Festival năm này có nhiều
nội dung về ẩm thực truyền thống, nghệ thuật truyền
thống, âm nhạc, du lịch thu hút hàng trăm nghìn lượt
khách người Nhật và người Việt tìm đến. Các gian
hàng du lịch cung cấp thông tin về các di sản thế giới
ở Việt Nam; các tour du lịch, đặc biệt là du lịch miền
Trung Việt Nam (tiêu biểu như Huế, Đà Nẵng, Hội
An); những khu nghỉmát tiên tiến cùng các gói ưu đãi
tại các khách sạn ở các khu nghỉ dưỡng ở Việt Nam
Quy mô của Vietnam Festival ở Nhật Bản có thể tổng
kết thể hiện thông qua các phương diện được miêu tả
trong Bảng 1. Vietnam Festival là phương tiện quảng
bá hiệu quả văn hóaViệt NamđếnNhật Bản, rút ngắn
thậm chí là xóa nhòa khoảng cách địa lý, gắn kết người
dân hai nước. Từ đây tạo điều kiện cho quan hệ hợp
tác hữu nghị giữa hai nước ngày càng phát triển bền
chặt.
Bên cạnh đó còn có các sự kiện âm nhạc lớn do các
nghệ sĩ Việt Nam tự tổ chức hoặc tham gia ởNhật Bản
cũng đã giúp quảng bá văn hóa nghệ thuật Việt Nam
đến Nhật Bản. Chẳng hạn, năm 2015 ca sĩ Mỹ Tâm
đã tổ chức thành công đêm diễn Dreaming together
in Osaka kết hợp với nghệ sĩ guitar nổi tiếng Nhật
BảnOshioKotaro tại khán phòng củaĐài truyền hình
quốc gia NHK. Trong năm 2018, ca sĩ Đông Nhi đại
diện Việt Nam tham gia biểu diễn trong Đại nhạc
hội ASEAN - Nhật Bản lần 2 kỷ niệm 45 năm thiết
lập quan hệ ngoại giao giữa Nhật Bản với các nước
ASEAN tổ chức tại Tokyo. Cho đến những sự kiện
có quy mô nhỏ hơn về văn hóa Việt Nam được tổ
chức trong một vài trường đại học ở Nhật Bản cũng
làm tăng thêm sự quan tâm của sinh viên Nhật Bản
nói riêng, sinh viên quốc tế nói chung về Việt Nam.
Qua đó khơi dậy được niềm tự hào dân tộc và lòng
yêu nước cho cộng đồng du học sinh đang sinh sống
và học tập tại Nhật Bản, bởi lẽ “khi người Việt Nam
sống định cư ở nước ngoài, người Việt không từ bỏ
văn hóa của họ”8. Hơn ai hết, chính các bạn sinh
viên Việt Nam tại các trường đại học ởNhật Bản phần
nào sẽ là bộ mặt của người Việt Nam, là một trong
những kênh quảng bá văn hóa Việt Nam trực tiếp và
sống động nhất. Chẳng hạn những năm qua trường
đại học Ritsumeikan Asia Pacific (APU) ở thành phố
Beppu (Nhật Bản) đều có tổ chức tuần lễ Việt Nam
Vietnamese week trong tháng. Sự kiện này do các giáo
viên giảng dạy tiếng Việt tại đây phối hợp với du học
sinh Việt Nam tổ chức. Các hoạt động trong tuần lễ
này có thể là tổ chức những gian hàng Việt Nam nhỏ,
buổi biểu diễn âm nhạc, buổi trình diễn thời trang,
buổi học nấu các món ăn Việt Nam Các hoạt động
này là nguồn kích sự hứng thú, sự quan tâm và niềm
tin về văn hóa, conngườiViệtNamcủa sinh viênNhật
Bản và sinh viên quốc tế đang học tập tại các trường
đại học này. Trong tương lai, họ có thể sẽ tìm đến Việt
Nam du lịch hoặc làm việc, sinh sống tại Việt Nam.
DU LỊCH TRONGHOẠT ĐỘNG
QUẢNG BÁ VĂNHÓA VIỆT NAM
ĐẾNNHẬT BẢN
Việt Nam là đất nước có nguồn tài nguyên du lịch
phong phú và đa dạng cả về tài nguyên tự nhiên lẫn tài
nguyên nhân văn. Các loại di sản, những hoạt động lễ
hội, văn nghệ dân gian đặc sắc của cộng đồng 54 tộc
người tô lên bức tranh bản sắc đậm đà, phong phú.
Đây chính là cơ sở vững chắc cho sự tăng trưởng bền
vững của hoạt động du lịch ở Việt Nam. “Khi toàn
cầu hóa đã tác động sâu rộng đến văn hóa, đến xã hội
con người nơi nào đó, thì du lịch nơi đó cũng không
thể nằm ngoài sự tác động đó [] Lúc này hoạt động
du lịch không còn gói gọn trong phạm vi của một khu
vực, một quốc gia mà nó có cơ hội được mở rộng ra
ở khắp nơi, trên thế giới”9. Thời gian qua, du lịch
Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, đầu tư phát
triển của Chính phủ, các ban ngành, các cấp. Chiến
lược phát triển du lịch đến năm 2020 được phê duyệt
và triển khai. Luật Du lịch 2017 được ban hành với
nhiều cải tiến và đang đi vào cuộc sống. Tất cả là cơ
sở và tiềm năng to lớn để du lịch Việt Nam có thể tạo
dựng hình ảnh một điểm đến thân thiện, có sức hấp
dẫn đối với du khách Nhật Bản.
“Du lịch không chỉ tạo nên sự vận động của hàng
triệu, triệu người từ nơi này sang nơi khác, mà còn
đẻ ra nhiều hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với
nó [] Thông qua việc phát triển du lịch quốc tế, sự
hiểu biết và mối quan hệ giữa các dân tộc ngày càng
đượcmở rộng”10. Sự đóng góp của du lịch trong công
tác quảng bá hình ảnh Việt Nam tới bạn bè Nhật Bản
có ý nghĩa thiết thực và phù hợp với bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay. Thị trường khách Nhật Bản là một
trong những thị trường tiềm năng đối với ngành du
lịch Việt Nam với lượng khách tăng trưởng ổn định
194
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(4):191-199
Bảng 1: Quymô của Vietnam festival ở Nhật Bản từ 2016 đến 2019 7
2016 2017 2018 2019
Thời gian tổ chức 11/06-12/06 10/06-11/06 19/05-20/05 08/06-09/06
Nơi tổ chức Quảng trường sự kiện công viên Yoyogi (Tokyo)
Các hoạt động quảng
bá văn hóa Việt Nam
Các gian hàng
Trình diễn nghệ
thuật (ca sĩ nổi tiếng
biểu diễn, các nghệ
sĩ biểu diễn nhạc cụ
dân tộc)
Không gian hướng
dẫn phát âm tiếng
Việt
Các gian hàng
Trình diễn nghệ
thuật (ca sĩ nổi tiếng
biểu diễn, các nghệ
sĩ biểu diễn nhạc cụ
dân tộc)
Các gian hàng
Trình diễn nghệ
thuật (ca sĩ nổi tiếng
biểu diễn, các nghệ
sĩ biểu diễn nhạc cụ
dân tộc)
Trình diễn áo dài,
biểu diễn múa rối
nước, diễu hành xích
lô
Các gian hàng
Trình diễn nghệ
thuật (ca sĩ nổi tiếng
biểu diễn, các nghệ
sĩ biểu diễn nhạc cụ
dân tộc)
Số lượng và nội dung
các gian hàng
110 gian hàng:
Gian hàng ẩm thực,
hàng hóa, hàng thủ
công mỹ nghệ
Gian hàng thiện
nguyện
Gian hàng trưng bày
chủ quyền của Việt
Nam trên biển Đông
Không gian quảng
bá du lịch, di sản và
khu nghỉ dưỡng ở
Việt Nam
121 gian hàng:
59 gian hàng ẩm
thực
62 gian hàng quảng
bá đất nước Việt
Nam, du lịch Việt
Nam và bán các sản
phẩm Việt Nam
126 gian hàng:
63 gian hàng ẩm thực
35 gian hàng bán các
sản phẩm Việt Nam
28 gian hàng cho đại
sứ quán và các nhà
tài trợ
120 gian hàng:
60 gian hàng ẩm thực
60 gian hàng của các
công ty, các tổ chức
khác quảng bá cho
Việt Nam
Số lượng khách tham
dự
200.000 180.000 180.000 180.000
Đối tượng khách Các nhà lãnh đạo 2 nước
Du học sinh, thực tập sinh Việt Nam ở Nhật Bản
Người Việt Nam đang sinh sống ở Nhật Bản
Người Nhật Bản
(Bảng 2). Du khách Nhật Bản ngày càng được tạo
điều kiện thuận tiện hơn khi đi du lịch ở Việt Nam,
bằng chứng là mỗi năm Việt Nam thu hút hàng trăm
ngàn lượt khách Nhật Bản tìm đến với những mục
đích khác nhau. Để phát huy tối đa tiềm năng du lịch
sẵn có, đạt những mục tiêu chiến lược chung nhằm
hướng tới thị trường khách khó tính như Nhật Bản,
ngành du lịch Việt Nam đã có những chính sách phát
triển đa chiều như: đầu tư phát triển đồng bộ những
sản phẩm du lịch đặc thù; nâng cấp, phát triển hơn
nữa cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ
cho các hoạt động du lịch; nâng cao chất lượng đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch là những người
giỏi chuyên môn và có sự am hiểu về ngôn ngữ, văn
hóa Nhật Bản; xây dựng những quy chuẩn phục vụ
phù hợp, thoả mãn nhu cầu lưu trú của khách du lịch
Nhật Bản. Tất cả đều hướng tới việc quảng bá tối đa
hình ảnh và sản phẩm du lịch Việt Nam đến với Nhật
Bản.
Tổng cục Du lịch Việt Nam đã phối hợp với các cơ
quan liên quan, đại diện ngoại giao ởNhật Bản tổ chức
nhiều sự kiện lớn, các chương trình quảng bá xúc tiến
du lịch Việt Nam ở Nhật Bản. Những hoạt động này
thu hút sự quan tâm rộng rãi của các cơ quan thông
tin đại chúng, các hãng lữ hành và khách du lịch cả
hai quốc gia. Những ấn phẩm du lịch, đĩa CD quảng
bá hình ảnh, các lễ hội truyền thống của Việt Nam
được sản xuất và phânphối tới du kháchNhật Bản qua
nhiều kênh khác nhau. Các hình thức tuyên truyền
quảng bá du lịch khác được sử dụng như sản xuất
phim quảng cáo giới thiệu về du lịch Việt Nam cũng
được hoàn thành. Hiện nay các website chính của
ngành du lịch đều có cập nhật thông tin về Nhật Bản,
riêng trang vietnamtourism.com có cả tiếng Nhật để
195
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(4):191-199
thuận tiện trong việc mở rộng thị trường mục tiêu
Nhật Bản.
Các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam cũng từng bước
thâmnhậpnhiều hơn vào thị trườngdu lịchNhật Bản,
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại chỗ của ngành.
Nhiều công ty lữ hành lớn ở thành phố Hồ Chí Minh
trong thời gian qua (Saigon Tourist, Vietravel, Ben-
Thanh Tourist) đang mở rộng thị trường Nhật Bản
từ khách vãng lai, khách công ty, khách doanh nhân
đến khách VIP. Các chính sách marketing bao gồm
việc mở rộng kênh phân phối, cách thức chiêu thị đều
tập trung khai thác đối tượng khách hàng tiềm năng
này. Việc làm này của các công ty du lịch không chỉ
trực tiếp làm tăng thị phần, lợi thế trên thị trường mà
còn gián tiếp thúc đẩy hoạt động ngoại giao văn hóa
của Việt Nam với Nhật Bản đi vào chiều sâu, thuận
lợi hơn. “Hàng trăm ngàn khách Nhật Bản đi du lịch
ở Việt Nam là lực lượng xúc tiến, quảng bá du lịch
truyền miệng nhanh và hiệu quả cho ngành du lịch
nói riêng, đất nước – con người Việt Nam nói chung
không chỉ ở Việt Nam hay Nhật Bản mà còn lan rộng
ra khắp thế giới. Đây là tiền đề, là cơ sở cho chiến lược
ngoại giao văn hóa củaViệt NamvớiNhật Bản”3. Mặt
khác, việc được cọ sát với các đối tác Nhật Bản ngược
lại giúp các doanh nghiệp du lịch Việt Nam từng bước
điều chỉnh hoạt động kinh doanh, nâng cao sức cạnh
tranh trong nước lẫn trên trường quốc tế.
Theo Chương V của Luật Du lịch 2017 được Chính
phủ Việt Nam ban hành thì kinh doanh du lịch
bao gồm kinh doanh lưu trú và các dịch vụ du lịch
khác (ăn uống, mua sắm, thể thao). Hiện tại,
“để phát triển kinh doanh, nhiều khách sạn đã mở
rộng thị trường khách hàng của mình đến các nước
phương Đông khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung
Quốc”12, trong đó Nhật Bản là một thị trường tiềm
năng lớn, kiểu kiến trúc với những tiện nghi vật chất
đến từ quốc gia này là một trong những mô hình nhà
hàng – khách sạn hấp dẫn du kháchNhật Bản. Một số
khách sạn cao cấp ởThành phố Hồ Chí Minh có nhà
hàngNhật hoặc có phục vụ cácmón ănNhật nổi tiếng
có thể kể ra như khách sạn Silverland Sakyo Saigon
(4 sao), khách sạn Nikko (5 sao), khách sạn Đệ Nhất
(4 sao), khách sạn Liberty Central Saigon Riverside
(4 sao) Việc đưa nhà hàng Nhật vào hệ thống nhà
hàng của khách sạn cao cấp có 4 tác dụng: (1) thể hiện
sự đánh giá cao vai trò của thị trường khách du lịch
Nhật Bản; (2) tạo sự thuận tiện cho khách Nhật Bản
lưu trú tại Việt Nam, khi những nhu cầu sống của họ
được đảm bảo, họ sẽ có thời gian và tâm trạng để kết
nối với văn hóa Việt Nam; (3) tạo điều kiện cho người
Việt Nam hiểu biết hơn về Nhật Bản thông qua ẩm
thực; (4) tăng doanh thu kinhdoanh. Chất lượngmón
ăn, tiện nghi vật chất, cung cách phục vụ của các nhà
hàngNhật đều nhằm tạo cảm giác gần gũi, thân thuộc
cho khách Nhật như đang sống ở nhà.
KẾT QUẢNGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
Bài báo vận dụng các phương pháp như phương pháp
nghiên cứu hệ thống, phương pháp quan sát, phương
pháp phân tích tư liệu cùng hướng nghiên cứu liên
ngành để tiếp cận, lý giải các nội dung liên quan đến
vai trò, thực trạng, ý nghĩa của việc tổ chức các sự kiện
Việt Nam ở Nhật Bản và các hoạt động du lịch của
người Nhật Bản tại Việt Nam trong bối cảnh quảng
bá văn hóa của Việt Nam đến Nhật Bản. Từ đó, đưa
ra các kết quả nghiên cứu và thảo luận ở các khía cạnh
sau:
(1) Về vai trò của việc quảng bá văn hóa của Việt Nam
đến Nhật Bản: Những năm gần đây, Việt Nam thiết
lập quan hệ ngoại giao với Nhật Bản trên tinh thần
tuân theo tiêu chí vì một bản sắc văn hóa Việt Nam
trên trường quốc tế, vì mở rộng giao lưu văn hóa quốc
tế và vì nền văn minh thế giới. Việc quảng bá rộng
rãi các giá trị văn hóa đặc sắc, độc đáo của Việt Nam
sẽ chuyển tới người dân Nhật Bản những thông điệp
về một Việt Nam hòa bình, thân thiện, cởi mở, đang
thực hiện đổi mới thành công, phát triển nhanh, bền
vững và đóng vai trò ngày càng lớn ở quốc tế. Tuy
nhiên, bản sắc văn hóa Việt Nam vốn có nhiều nét
độc đáo, vì vậy các nhà tổ chức, nhà quản lý phải biết
chọn lọc những gì điển hình, tinh tuý để giới thiệu
với Nhật Bản. Đồng thời, khi chuyển tải những giá
trị văn hóa Việt Nam cũng cần tính đến bản sắc văn
hóa và chiều hướng phát triển hiện đại của Nhật Bản,
cùng nhu cầu hưởng thụ của người Nhật Bản. Việc
này đòi hỏi sự tiếp cận tinh tế, phối hợp chặt chẽ giữa
các cá nhân, đơn vị, ngành ngoại giao và các ngành
hữu quan. Quảng bá văn hóa vừa đóng vai trò quan
trọng trong việc bảo tồn đa dạng bản sắc văn hóa Việt
Nam vừa là giải pháp hòa bình, bền vững để đối phó
với những thách thức của thế kỷ hội nhập. Thực hiện
quảng bá văn hóa Việt Nam có thể khơi dậy và củng
cố lòng yêu nước của người Việt Nam ở trong nước và
ở Nhật Bản. Từ đây, làm nền tảng tinh thần cho việc
triển khai nền ngoại giao rộng mở, tranh thủ sự hợp
tác rộng rãi hơn của Nhật Bản. Thông qua việc giao
lưu văn hóa giữa hai quốc gia, Việt Nam sẽ học hỏi
được những giá trị văn hóa của Nhật Bản để làm giàu
thêm cho nền văn hóa dân tộc. Những mục tiêu ấy
đáp ứng nhu cầu đối nội và đối ngoại của Việt Nam,
song cũng thuận chiều với xu hướng chung của thế
giới hiện nay là rất coi trọng hoạt động ngoại giao văn
hóa.
(2) Về việc tổ chức các sự kiện Việt Nam ở Nhật Bản
trong hoạt động quảng bá văn hóaViệt NamđếnNhật
196
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(4):191-199
Bảng 2: Sự tăng trưởng của lượng khách Nhật Bản đến Việt Nam từ 2016 đến 9 tháng đầu năm năm 2019 11
2016 2017 2018 9 tháng đầu năm 2019
Lượt
khách
Tỉ lệ tăng
trưởng so
với 2016
(%)
Lượt
khách
Tỉ lệ tăng
trưởng so
với 2016
(%)
Lượt
khách
Tỉ lệ tăng
trưởng so
với 2017
(%)
Lượt
khách
Tỉ lệ tăng
trưởng so với 9
tháng đầu năm
2018 (%)
740.592 110,3 798.119 107,7 826.674 103,5 712.532 114,2
Bản: Tất cả những sự kiện về Việt Nam hay văn hóa
Việt Nam được tổ chức ở Nhật Bản dù quy mô lớn
hay nhỏ, do ai tổ chức, được tổ chức ở đâu, thời gian
nào, vớimục đích gì thì đều đã góp phầnmở ra những
trang mới trong hành trình ngoại giao, hội nhập của
Việt Nam với Nhật Bản nói riêng, khu vực và thế
giới nói chung. Thông qua các phương tiện thông
tin truyền thông ở Nhật Bản và ở Việt Nam, những
sự kiện này càng tiếp thị rộng rãi hơn đến cộng đồng
Nhật Bản, cộng đồng quốc tế bức chân dung văn hóa
Việt trên bước đường hội nhập, phát triển. Sau những
sự kiện này, hiểu biết của ngườiNhật Bản vềViệtNam
sẽ được nâng cao, thu hút khách Nhật Bản đến du lịch
ở Việt Nam và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư
Nhật Bản tại Việt Nam. Từ đó tạo ra những thành
tựu phối hợp hiệu quả giữa du lịch, sự kiện và truyền
thông của Việt Nam trong quan hệ ngoại giao Việt –
Nhật thế kỷ 21.
(3) Về việc du lịch của người Nhật Bản tại Việt Nam
trong hoạt động quảng bá văn hóaViệt NamđếnNhật
Bản: Hiện tại người ta nói nhiều đến khái niệmdu lịch
bền vững. “Du lịch bền vững (sustainable tourism)
có thể hiểu khái quát tức là nói sự phát triển của du
lịch luôn được liên tục, đồng đều, vững mạnh và hiệu
quả”9. Sự bền vững này trong các hoạt động du lịch
của người Nhật Bản ở Việt Nam trong công tác quảng
bá văn hóa không do một phía nào đó quyết định, mà
là sự phối hợp của tất cả các yếu tố trong cấu trúc du
lịch cùng vận hành đồng loạt hiệu quả. Sự vận hành
đó do người Việt Nam làm chủ thể quyết định trên cơ
sở nguồn tài nguyên văn hóa của đất nước và hướng
đến đối tượng chính là du khách Nhật Bản. Bên cạnh
những nỗ lực của các cá nhân, tổ chức, đơn vị làm
du lịch thì rất cần sự hỗ trợ nhiều hơn của các ban
ngành liên quan, đặc biệt là các cơ quan ngoại giao
ở Nhật Bản để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt
động du lịch của người Nhật Bản ở Việt Nam. Đây sẽ
là cơ sở để chiến dịch xúc tiến Việt Nam - vẻ đẹp tiềm
ẩn tiếp tục thành công, góp phần quảng bá hình ảnh
Việt Nam, con người Việt Nam tới người Nhật Bản
nói riêng, bạn bè thế giới nói chung.
(4) Về việc mở rộng nghiên cứu các nội dung của đề
tài: Đây mới là nghiên cứu mang tính khởi đầu trong
những nghiên cứu về các hoạt động du lịch và tổ chức
sự kiện trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Nhật
Bản. Trong tương lai, có thể tiếp tục phát triển các
nội dung nghiên cứu của đề tài theo hướng mở rộng
hoặc chuyên sâu ở từng khía cạnh cụ thể, chẳng hạn
như: Du lịch văn hóa tại Việt Nam của người Nhật Bản
trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam đến Nhật Bản,
Các di sản văn hóa Việt Nam trong việc quảng bá văn
hóa Việt Nam đến Nhật Bản,Thực trạng và xu thế của
các hoạt động du lịch của người Nhật Bản tại Việt Nam
trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam đến Nhật Bản,
Đặc điểm của việc tổ chức các sự kiện Việt Nam ở Nhật
Bản trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam đến Nhật
Bản, Tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật Việt Nam
ở Nhật Bản trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam đến
Nhật Bản Đề tài cũng có thể mở rộng theo hướng
nghiên cứu so sánh việc tổ chức các hoạt động du lịch
và sự kiện củaViệtNamvới việc tổ chức các hoạt động
du lịch và sự kiện của Nhật Bản trọng bối cảnh quảng
bá văn hóa giữa 2 quốc gia. Mỗi gợi ý đề tài nêu trên,
nếu được thực hiện đều có thểmang lại những kết quả
nhất định, đóng góp vào việc nghiên cứumối quan hệ
quốc tế giữaViệtNamvàNhật Bản từ bình diện quảng
bá văn hóa.
KẾT LUẬN
Ngày nay, việc quảng bá văn hóa nổi lên thành một
trong những yêu cầu, nội dung và phương thức quan
trọng hàng đầu của công tác đối ngoại của các quốc
gia trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế. Những giá trị của văn hóa (truyền thống và đương
đại) có thể được lan rộng đến nhiều lớp người, nhiều
thế hệ, vượt qua mọi giới hạn không – thời gian, góp
phần thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia,
dân tộc vì một thế giới hòa bình, vì độc lập dân tộc và
tiến bộ xã hội của các quốc gia. Công tác quảng bá văn
hóa Việt Nam đến Nhật Bản luôn nhận được sự quan
tâm củaNhà nước, các tổ chức, đơn vị và cá nhânViệt
Nam, đặc biệt trong giai đoạnViệtNamđangmở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế. Việt Nam cần thiết có những
phương án chiến lược lâu dài để sử dụng sứcmạnh của
các giá trị văn hóa trong các hoạt động tổ chức sự kiện
và du lịch có chất lượng cao nhằm làm cơ sở tinh thần
197
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 3(4):191-199
cho việc phát triển quan hệ ngoại giaoViệt –Nhật bền
vững.
Các kênh quảng bá văn hóa của Việt Nam đến Nhật
Bản ngày càng được mở rộng so với trước đây nhờ
vào việc tuyên truyền của các cơ quan Nhà nước, báo
chí truyền thông, các doanh nghiệp, giới học giả cho
đến các cá nhân người Việt Nam ở trong nước, kiều
bào ở Nhật Bản. Trong đó, các hoạt động du lịch của
người Nhật Bản tại Việt Nam và các sự kiện Việt Nam
được tổ chức ở Nhật Bản vẫn đang đóng vai trò quan
trọng nhất định thúc đẩy tăng cường tình hữu nghị và
quan hệ hợp tác của Việt Nam với Nhật Bản. Người
Nhật Bản nhận thức đúng hay sai về Việt Nam phụ
thuộc hoàn toàn vào trình độ quảng bá văn hóa của
Việt Nam. Vì vậy, đòi hỏi việc quảng bá cần được gấp
rút nâng cao trên các phương diện như mục đích, nội
dung, phương pháp và phương tiện. Các ban ngành
cần có kế hoạch cụ thể để tuyên truyền, giáo dục, bồi
dưỡng ý thức và trình độ của người dân để họ nhận
thức được đúng đắn ý nghĩa của công tác quảng bá
văn hóa Việt Nam đến Nhật Bản.
Thế kỷ 21 là thế kỷ cơ hội của sự phát triển thịnh
vượng. Quan hệ ngoại giao Việt Nam với Nhật Bản
không thể dừng lại rời rạc ở một trong ba khía cạnh
kinh tế, chính trị hay văn hóa, mà phải là sự gắn kết
chặt chẽ giữa chúng. Phát triển kinh tế - xã hội luôn là
nhiệm vụ trọng tâm của Việt Nam, việc quảng bá văn
hóa Việt Nam đến Nhật Bản cũng cần phục vụ trực
tiếp hoặc gián tiếp cho nhiệm vụ này. Các hoạt động
du lịch và tổ chức sự kiện cần được tiến hành trong sự
liên kết với các hoạt động xúc tiến thươngmại, đầu tư
giữa hai bên. Cách tiếp cận như vậy sẽ huy động và
tiết kiệm được nguồn lực cho Việt Nam nhằm phục
vụ hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định xã
hội, hướng đến một nền chính trị bền vững.
TUYÊN BỐ XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Tác giả không có bất kỳ xung đột lợi ích nào trong
công bố bài báo.
TUYÊN BỐĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ
Bài viết nhấnmạnh tầm quan trọng của việc quảng bá
văn hóa trong mối quan hệ quốc tế của Việt Nam với
Nhật Bản.
Bài viết cung cấp những luận điểm quan trọng về vai
trò và ý nghĩa của công tác tổ chức sự kiện và hoạt
động du lịch trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam
đến Nhật Bản.
Bài viết gợi mở hướng nghiên cứu về nghiên cứu tổ
chức sự kiện và hoạt động du lịch như các phương
tiện hiệu quả cho công tác hợp tác quốc tế lâu dài, bền
vững giữa các quốc gia, mà ở đây cụ thể là Việt Nam
– Nhật Bản.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Nhiều tác giả. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia Ngoại giao Văn hóa vì
một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình,
hội nhập và phát triển bền vững. Hà Nội; 2008.
2. Nguyễn TiếnMạnh. Phát triển công nghiệp văn hóa và vấn đề
nâng cao quyền lực mềm văn hóa quốc gia. Tạp chí Văn hóa
và nguồn lực. 2017;11(3):3–9.
3. Lưu Tuấn Anh. Ngoại giao văn hóa của Việt Nam với Nhật Bản
trong thế kỷ XXI. In: Kỷ yếu hội thảo Khoa học quốc tế 40 năm
quan hệ Việt Nam - Nhật Bản - Thành quả và triển vọng, Đào
tạo nguồn nhân lực Nhật Bản - Bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam; 2013. p. 222–233.
4. Lưu Văn Nghiêm. Tổ chức sự kiện. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại
học Kinh tế quốc dân; 2007.
5. Hoàng Liên Sơn. Dấu ấn văn hóa Việt Nam ở Nhật Bản;
2013 [trích dẫn năm 2019 tháng 01 23]. Available
from: https://vov.vn/van-hoa-giai-tri/dau-an-van-hoa-viet-
nam-o-nhat-ban-281774.vov.
6. Kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản - Việt
Nam, Việt Nam Festival năm 2018; 2018 [trích dẫn năm 2019
tháng 01 23]. Available from:
outline.php.
7. Lưu Tuấn Anh. Bảng Quy mô của Vietnam festival ở Nhật Bản
từ 2016 đến 2019; 2019 [trích dẫn năm 2019 tháng 01 23].
Available from:
8. Nguyễn Thị Hiền. Hội nhập, biến đổi, truyền thống và bản sắc
văn hóa của cộng đồng người Việt ở hải ngoại (Trường hợp
nghiên cứu ở thung lũng Silicon, California, Hoa Kỳ). Tạp chí
Văn hóa học. 2015;5(21):3–22.
9. Lưu Tuấn Anh. Du lịch từ góc nhìn văn hóa. Tạp chí Văn hóa &
Nguồn lực. 2017;11(3):17–24.
10. Nguyễn Minh Tuệ (cb). Địa lý du lịch. Tp.HCM: Nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh; 1999.
11. Lưu Tuấn Anh. Bảng Sự tăng trưởng của lượng khách Nhật
Bản đến Việt Nam từ 2016 đến 9 tháng đầu năm năm 2019;
2019 [trích dẫn năm 2019 tháng 10 23]. Available from: http:
//vietnamtourism.gov.vn.
12. Lưu Tuấn Anh. Hoạt động tổ chức của khách sạn từ góc nhìn
văn hóa. Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn. 2018;4(1):131–
142.
198
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 3(4):191-199
Open Access Full Text Article Research Article
Van Hien University
Correspondence
Luu Tuan Anh, Van Hien University
Email: luutuananh686@gmail.com
History
Received: 23/01/2019
Accepted: 29/10/2019
Published: 31/12/2019
DOI : 10.32508/stdjssh.v3i4.530
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Tourism and event organization in the promotion of Vietnamese
culture to Japan
Luu Tuan Anh*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
In the current integration as deep, cultural promotion is an indispensable trend of most countries
in the world in the strategy of expanding international relations and developing countries in all
aspects. Cultural promotion is capable of addressing the great challenges of the era towards sus-
tainability, such as challenges of poverty, backwardness, instability, and conflict. When the cultures
of countries are in contactwith each other, the promotion of culture is really necessary. For Vietnam,
cultural promotion is an effective means of cultural globalization and a positive measure for Viet-
nam to build and expand Vietnam's soft power to the world. In recent years, Vietnam has hadmany
activities to promote international cooperation relations with Japan, especially in the early years
of the 21st century. This article confirms in the context of the promotion strategy of Vietnamese
culture to Japan, tourism activities, and event organization as important channels to attract mutual
understanding between the two countries. It also helps promote the image of the country, peo-
ple, and culture of Vietnam to Japan. Since then, this will create a strong international relationship
between the two countries and create favorable development conditions for Vietnam in the world.
Key words: cultural promotion, cultural diplomacy, tourism, international events, Vietnam-Japan
relations
Cite thisarticle : TuanAnhL.Tourismandeventorganization in thepromotionofVietnameseculture
to Japan. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 3(4):191-199.
199
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- du_lich_va_to_chuc_cac_su_kien_trong_viec_quang_ba_van_hoa_v.pdf