To the early XX century, the French colonial government developed many tourist centers in
Vietnam. At first, it sent some scientist groups to go around Vietnam to find the cool sites to build the
resorts for the French colonial officials. Some sites where had the beautiful landscapes and low
temperature were found, such as Ha Long, Sa Pa, Tam Dao, Mau Son, Ba Vi, Do Son, Sam Son, Bach
Ma, Nha Trang, Da Lat and Vung Tau. They had been built into resorts, and then became the famous
tourist centers. Many foreign visitors, especially the Europeans went to Vietnam tourist sites. There
were more and more Vietnamese people who liked becoming visitors. The French colonial
government not only exploited Vietnam tourism as an economic branch, but also used it to attract the
foreign investors to Vietnam. Tourism also became the bridge to link Vietnam culture to other cultures
in the world.
10 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 582 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Du lịch Việt Nam đầu thế kỷ XX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 164-173
164
Du lịch Việt Nam đầu thế kỷ XX
Trần Viết Nghĩa*
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG Hà Nội
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Nhận ngày 27 tháng 5 năm 2010
Tóm tắt. Đến đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã phát triển các hoạt động du lịch ở Việt Nam. Ban
đầu chúng cử những nhà khoa học người Pháp đi tìm khắp Việt Nam những nơi có khí hậu mát mẻ
để xây dựng các khu nghỉ dưỡng cho các quan chức thực dân. Một số nơi có phong cảnh đẹp, khí
hậu mát mẻ đã được các nhà khoa học Pháp phát hiện ra như Hạ Long, Sa Pa, Tam Đảo, Mẫu Sơn,
Ba Vì, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Bạch Mã, Nha Trang, Đà Lạt, và Vũng Tầu. Những địa danh này đã
được người Pháp xây dựng thành các khu nghỉ dưỡng, về sau phát triển thành các đô thị và trung
tâm du lịch nổi tiếng. Nhiều du khách nước ngoài, đặc biệt là du khách châu Âu đã đến các địa
điểm du lịch ở Việt Nam. Ở Việt Nam bắt đầu hình thành sở thích đi du lịch. Thực dân Pháp
không chỉ khai thác du lịch như một ngành kinh tế, mà còn sử dụng nó để thu hút các nhà đầu tư
ngoại quốc vào Việt Nam. Thông qua các hoạt động du lịch, nhiều người Việt Nam đã biết đến
nhiều địa danh du lịch nổi tiếng ở Việt Nam và trên thế giới. Du lịch trở thành cầu nối văn hoá
Việt Nam với nhiều nền văn hoá trên thế giới.
*Trong lịch sử châu Âu đã có nhiều thương
nhân, giáo sĩ và nhà thám hiểm đi khám phá
nhiều vùng đất ngoại Âu. Nhưng phải đến thế
kỷ XIX, du lịch mới trở thành một ngành kinh
tế ở châu Âu. Đây là thời kỳ các nước thực dân
phương Tây đã cơ bản phân chia xong các
thuộc địa trên thế giới. Do đó, các nhà kinh
doanh du lịch ở châu Âu đã có điều kiện tổ
chức các tua (tour) du lịch cho các du khách
châu Âu đi tham quan các thuộc địa. Người
châu Âu lúc này đã có một sự hiểu biết đáng kể
về các vùng đất trên thế giới thông qua các
công trình nghiên cứu địa lý của các nhà khoa
học và các nhà thám hiểm. Các tác phẩm văn
học của Jules Verne, Rudyard Kipling, Julien
_______
**E-mail: nghiatv@vnu.edu.vn
Viaud được coi là những cuốn sách hướng dẫn
du lịch. Thêm vào đó là sự quảng bá tích cực
của báo chí, tiêu biểu như các tờ La Revue des
deux mondes (Tạp chí hai thế giới),
L’Illustration (Báo ảnh) và Le Tour du mond
(Vòng quanh thế giới), đã kích thích những
người châu Âu vốn hiếu kỳ đi khám phá và tìm
hiểu những vùng đất mới đầy kỳ bí và hấp dẫn
mà họ chưa từng được đặt chân đến.
Sau khi chiếm được Việt Nam, chính quyền
thuộc địa đã cử nhiều đoàn thám hiểm đi khảo
sát và tìm kiếm khắp Việt Nam những nơi có
địa hình đẹp, có khí hậu phù hợp với việc nghỉ
dưỡng và du lịch. Qua các cuộc khảo sát đó, các
nhà thám hiểm đã khám phá ra nhiều địa danh
lý tưởng như Đà Lạt, Nha Trang, Sa Pa, Tam
Đảo, Mẫu Sơn, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Bạch Mã,
T.V. Nghia / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 164-173 165
Vũng Tầu, Ba Vì, và Hạ Long. Những địa danh
này nhanh chóng được người Pháp xây dựng
thành những trung tâm du lịch để kinh doanh
kiếm lời. Đây cũng là cơ sở ban đầu cho sự
hình thành ngành du lịch Việt Nam1).
1. Sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam
Năm 1913, Maurice Rondet Saint, Thư ký
của Uỷ ban du lịch thuộc địa Pháp, sau khi trở
về từ Đông Dương đã có bản báo cáo về những
tiềm năng của du lịch Đông Dương: “Du lịch đã
làm biến đổi nhiều vùng trên trái đất và là một
nhân tố kinh tế quan trọng hàng đầu. Ngoại trừ
Tunisie và Algérie, thuộc địa của chúng ta cho
đến tận bây giờ chiếm một vị trí rất mờ nhạt về
du lịch... Đông Dương nằm trên một phần của
thế giới nơi có mật độ du lịch lớn. Con số sau
đây có thể chứng minh điều này: Hiện nay,
Nhật Bản đón hàng năm khoảng 20.000 khách
du lịch; Java là 8.000 khách; Philippines là
4.000 khách; Ấn Độ là 25.000 khách, trong khi
đó Đông Dương chỉ có 150 khách. Nhật Bản là
một nước mà vẻ đẹp và những điều lý thú của
nó rất nổi tiếng, nhưng hiển nhiên là không thể
bằng Đông Dương. Java là nơi có rất ít những
thứ để xem, lại càng không thể so sánh với
Đông Dương ở bất cứ điểm nào. Phillippines
thu hút được 4.000 khách du lịch cũng chỉ do
những công dân Mỹ muốn tới thăm thuộc địa
mới của mình. Đối với Ấn Độ, đó là một luồng
khách được thiết lập từ lâu, được khai thác
trong nguồn khách hàng quốc tế mà chuyến du
lịch của họ phần nào mang tính chất cổ điển”
[8: 4-5].
Maurice Rondet Saint đã chỉ ra nguyên
nhân dẫn đến sự yếu kém của du lịch Đông
Dương là do Chính phủ Pháp chưa có sự phối
_______
1) Để viết được bài này, tôi xin chân thành cảm ơn anh
Nguyễn Văn Thuyên, nguyên là cán bộ của Trung tâm lưu
trữ Quốc gia I, đã cung cấp cho tôi những tư liệu (đã dịch từ
tiếng Pháp) về du lịch Việt Nam đầu thế kỷ XX [1-7].
hợp với các cơ quan du lịch quốc tế trong việc
quảng bá hình ảnh Đông Dương ra nước ngoài,
tổ chức và khai thác các tuyến điểm du lịch. Do
đó hầu hết các khách hàng tiềm năng của thế
giới đều không biết tới Đông Dương.
Báo cáo của Maurice Rondet Saint đã được
Bộ Thuộc địa, nhất là Uỷ ban du lịch thuộc địa
Pháp hết sức quan tâm. Năm 1914, Uỷ ban đã
tiến hành quảng bá du lịch Đông Dương bằng
cách xuất bản sách giới thiệu về Đông Dương
và gửi thư đề nghị hợp tác du lịch tới các công
ty du lịch trên thế giới. Ngay lập tức Công ty
Du lịch EMS- HALL của Mỹ, có trụ sở tại San
Francisco, đã viết thư đáp từ và tỏ ý muốn được
cùng hợp tác để phát triển du lịch Đông Dương.
Nội dung bức thư như sau:
“San Francisco, ngày 7- 3- 1914
Gửi Uỷ ban du lịch thuộc địa
Trả lời bức thư của quý ngài ngày 17- 2 vừa
qua, chúng tôi hân hạnh được thông báo cho
ngài biết rằng lời đề nghị của quý ngài làm
chúng tôi rất quan tâm. Hàng năm chúng tôi có
khoảng từ 100 đến 200 người đăng ký cho
chuyến du lịch Tour du monde (Vòng quanh thế
giới). Dưới đây tôi kèm theo những chương
trình tham quan để quý ngài thấy các tua du
lịch của chúng tôi được phối hợp như thế nào.
Nhiều khách du lịch của chúng tôi đã thực
hiện chuyến du lịch vòng quanh thế giới và tìm
những vùng đất mới để tham quan. Chúng tôi
có ý định tổ chức một chuyến du lịch từ San
Francisco đến Tahiti, Niudilân, Úc, Philíppin,
Hồng Kông, Nhật Bản và trở về San Francisco.
Chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng ta tổ chức
quảng bá tốt ở Mỹ thì Đông Dương có thể sẽ có
nhiều may mắn thay thế Ai Cập, bởi vì các
khách du lịch sống ở phía Tây Chicago đến
Đông Dương một cách dễ dàng. Theo tập ảnh
mà quý ngài gửi cho chúng tôi, chúng tôi thấy
rằng Đông Dương đặc biệt có thể thu hút khách
du lịch.
T.V. Nghia / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 164-173 166
Công ty du lịch EMS- HALL sẵn sàng gửi
tới Đông Dương một nhân viên du lịch có kinh
nghiệm với nhiệm vụ nghiên cứu thực địa, xin
gửi cho chúng tôi những tài liệu cần thiết cho
phép chúng tôi lập các tuyến du lịch thường
xuyên từ San Francisco tới Hồng Kông và
Đông Dương. Để cho chuyến du lịch hoàn
chỉnh hơn, chúng tôi sẽ đưa thêm Thái Lan,
Singapo, Java, Philíppin và trở về San
Francisco thông qua Nhật Bản...” [9: 1-2].
Du lịch Đông Dương đang có cơ hội phát
triển thì bị ngưng trệ bởi Thế chiến thứ nhất
(1914- 1918). Do đó, du lịch Đông Dương
không có thêm một bước tiến đáng kể nào. Năm
1916 số du khách đến Đông Dương mới chỉ là
150 người [9: 58].
Sau Thế chiến thứ nhất, mặc dù không phải
là ngành kinh tế mũi nhọn nhưng Pháp muốn
lợi dụng du lịch để mời gọi các nhà tư bản đầu
tư vào Việt Nam. Ngày 20- 10- 1922, Albert
Sarraut, Bộ trưởng thuộc địa Pháp, đã gửi Chỉ
thị cho các viên Toàn quyền ở các thuộc địa của
Pháp hướng dẫn việc phát triển và khai thác du
lịch: “Có vẻ như thừa khi nhấn mạnh ở đây tới
tính cần thiết về sự tổ chức du lịch; nó không
chỉ cần thiết về mặt phát triển kinh tế của các
thuộc địa của chúng ta; mà nó còn làm cho mọi
người biết đến những lãnh thổ rộng lớn đặt
dưới quyền của chúng ta, và cũng cần phải nói
thêm rằng những lãnh thổ này vẫn còn xa lạ với
những người nước ngoài hay ít nhất là đối với
những người Pháp; một lợi ích cao hơn tầm
quốc gia đòi hỏi chúng ta phải làm cho mọi
người biết về hành động khai hoá văn minh và
bình định của nước Pháp; một lợi ích riêng đòi
hỏi các thuộc địa của chúng ta phải được tham
quan, bởi vì hôm nay là một khách du lịch, ngày
mai có thể trở thành thực dân và ví dụ này
không phải là hiếm. Vì vậy, việc tổ chức du lịch
phải gồm 2 chặng đường: 1. Quy hoạch các
thuộc địa, 2. Khai thác du lịch ở thuộc địa và tổ
chức tuyên truyền.
1. Việc quy hoạch thuộc địa gồm: lập ra các
tổ chức du lịch; công nghiệp khách sạn; kiểm
kê các danh lam thắng cảnh và bảo tồn chúng;
lập ra các rừng quốc gia và các khu bảo tồn
săn bắn; nghiên cứu các tuyến điểm du lịch;...
2. Đồng thời với việc quy hoạch, cần phải
quan tâm tới bước thứ hai, có nghĩa là việc khai
thác du lịch ở thuộc địa và tổ chức tuyên
truyền. Tôi cũng xin các ngài đặc biệt quan tâm
tới tầm quan trọng của việc tổ chức các phương
tiện vận chuyển bên ngoài cũng như bên trong
nước, phù hợp với những đòi hỏi của khách du
lịch...” [9: 43-44].
Ngày 27- 7- 1923, quyền Toàn quyền Đông
Dương là Baudoin đã ra Nghị định thành lập Uỷ
ban du lịch trung ương (Comité central du
Tourisme). Các thành viên của Uỷ ban gồm
Thủ hiến các xứ, Giám đốc các Sở Tài chính,
Sở Kinh tế, Giám đốc Trường Viễn Đông bác
cổ, và Kiến trúc sư trưởng của Sở kiến trúc. Uỷ
ban trực thuộc Phủ Toàn quyền. Nghị định cũng
quy định việc thành lập Uỷ ban du lịch vùng
(Comité régional du Tourisme) ở mỗi xứ thuộc
Liên bang Đông Dương. Uỷ ban này có chức
năng giúp các Thống sứ trong việc tổ chức hoạt
động du lịch địa phương. Tuy nhiên, việc đặt
các cơ quan du lịch dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Phủ Toàn quyền và các Sở kinh tế đã làm
cho hoạt động du lịch ở Đông Dương không có
hiệu quả bởi vì những người phụ trách cao cấp
không có nghiệp vụ du lịch. Hơn nữa, các chức
vụ được giao chỉ có tính kiêm nghiệm nên
không được họ quan tâm thoả đáng. Theo quy
định, Uỷ ban du lịch trung ương mỗi năm phải
họp ít nhất một lần, nhưng từ năm 1923 đến
năm 1928, Uỷ ban chưa tổ chức được lần họp
nào do không triệu tập được thành viên.
Để khắc phục nhược điểm đó, ngày 3- 4-
1928, quyền Toàn quyền Đông Dương là
Monguillot đã ra Nghị định về việc tổ chức lại
ngành du lịch Đông Dương. Nghị định cho
phép thành lập Sở tuyên truyền và du lịch
T.V. Nghia / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 164-173 167
(Service de la Propagande et du Tourisme), Văn
phòng du lịch Đông Dương (Office
indochinoise du Tourisme), và Văn phòng tuyên
truyền (Bureau de la Propagande). Sở tuyên
truyền và du lịch sẽ đảm nhiệm các công việc
liên quan đến các hoạt động du lịch. Văn phòng
du lịch Đông Dương có nhiệm vụ quan hệ với
các Uỷ ban du lịch địa phương; các công ty du
lịch, các hãng du lịch và các tổ chức du lịch;
thống kê và bảo tồn các danh lam thắng cảnh,
rừng quốc gia và khu bảo tồn săn bắn; cải tạo
hoặc quy hoạch các tuyến điểm du lịch, phương
tiện giao thông và khách sạn. Văn phòng tuyên
truyền có nhiệm vụ tập hợp và phổ biến các
thông tin về tài nguyên, đời sống văn hoá, xã
hội của Đông Dương; tổ chức chụp ảnh, làm
phim, quảng cáo, hội chợ và triển lãm về Đông
Dương; quan hệ với các cơ quan kinh tế, cơ
quan ngoại giao và hãng thông tấn để đẩy mạnh
hoạt động tuyên truyền.
Rõ ràng, Nghị định năm 1928 đã khắc phục
được những bất cập trong bộ máy tổ chức du
lịch Đông Dương, làm cho bộ máy tổ chức
ngành du lịch tinh gọn hơn và chuyên nghiệp
hơn. Sở tuyên truyền và du lịch trở thành một
cơ quan du lịch chính quy (9: 160).
2. Về hoạt động quảng bá du lịch
Trước Thế chiến thứ nhất, hầu hết các hoạt
động quảng bá du lịch Đông Dương do Câu lạc
bộ Touring của Pháp đảm nhiệm. Câu lạc bộ
này được thành lập vào năm 1890 và trở thành
một tổ chức hoạt động công ích từ năm 1907.
Năm 1910, Câu lạc bộ thành lập Văn phòng du
lịch thuộc địa, có trụ sở tại số 65, đại lộ
Grande- Armée, và được đặt dưới sự bảo trợ
của Tổng thống Pháp. Câu lạc bộ đã xuất bản
sách giới thiệu về Đông Dương, gửi thư quảng
cáo đến các công ty du lịch lớn trên thế giới, in
các sách hướng dẫn du lịch v.v... để thu hút các
khách du lịch Âu- Mỹ đến Đông Dương. Công
việc quảng bá đang tiến triển thuận lợi thì bị đứt
quãng đột ngột do Thế chiến thứ nhất bùng nổ.
Sau Thế chiến thứ nhất, vấn đề khôi phục
lại các hoạt động quảng bá du lịch Đông Dương
trở nên cần thiết hơn, bởi nước Pháp cần phải
khuyếch trương mạnh mẽ các hình ảnh về Đông
Dương để chào gọi các nhà đầu tư. Hoạt động
quảng bá được đẩy mạnh hơn, nhộn nhịp hơn
do có sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện
truyền thông tiện ích như sách, báo, phim ảnh,
hội thảo v.v... Thực dân Pháp đã tổ chức nhiều
cuộc hội thảo, triển lãm tranh ảnh, chiếu phim
về các danh lam thắng cảnh, phong tục, tập
quán và các hoạt động du lịch tại Đông Dương
ở Pháp, Anh, Mỹ và Nhật Bản.
Tháng 7- 1923, tạp chí chuyên ngành du
lịch là Revue du Tourisme indochinoise (Tạp
chí du lịch Đông Dương) ra đời tại Sài Gòn.
Bên cạnh nó còn có một số tờ báo khác đã có
những hỗ trợ đáng kể cho công tác tuyên truyền
như tờ La Dépêche coloniale (Điện tín thuộc
địa), Revue indochinoise (Tạp chí Đông Dương)
và Bulletin des Amis du Vieux Huế (Tạp chí
những người bạn yêu Huế).
3. Một số hoạt động du lịch tiêu biểu
Nhờ có sự quảng bá tích cực của các
phương tiện truyền thông, các cơ quan du lịch
nên các hoạt động du lịch ở Việt Nam nói riêng,
Đông Dương nói chung cũng có nhiều bước
tiến đáng kể. Đã có một số công ty chuyên về
du lịch và các công ty vận tải của Pháp và Đông
Dương tham gia vào hoạt động tổ chức đưa đón
khách đi du lịch như Compagnie francaise du
Tourisme (Công ty du lịch Pháp), và
Messageries Maritimes (Công ty vận tải biển).
Phương tiện phục vụ du lịch ban đầu là tàu
thuỷ, tàu hoả, ô tô, xe kéo tay, võng, kiệu, ngựa,
sau này có thêm máy bay của Hãng hàng không
Pháp Air France.
T.V. Nghia / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 164-173 168
Các tuyến du lịch trọng điểm trong nước
như Sài Gòn, Đà Lạt, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội,
Hải Phòng, Sa Pa v.v... đã đón tiếp nhiều đoàn
khách du lịch trong và ngoài nước. Nguồn
khách đi du lịch ban đầu chủ yếu là người Âu-
Mỹ. Người Việt chưa có thói quen đi du lịch và
đời sống kinh tế còn có nhiều khó khăn. Sau
Thế chiến, do tác động của việc quảng bá du
lịch và đời sống kinh tế khá giả hơn nên đã có
khá đông người Việt Nam tham gia vào các tua
du lịch trong nước và nước ngoài.
Trong thời kỳ đầu du lịch là lĩnh vực hoàn
toàn mới mẻ và do người Pháp chiếm ưu thế
hoàn toàn, về sau đã có một số người Việt chen
chân vào kinh doanh du lịch, tiêu biểu là chủ
hiệu ảnh Khánh Ký ở Sài Gòn. Ngày 7- 1-
1930, chủ hiệu ảnh Khánh Ký đã gửi thư cho
chủ hiệu ảnh Hương Ký ở Hà Nội đề nghị cùng
cộng tác tổ chức chuyến du lịch sang Pháp xem
Hội chợ Paris: “Trong này tôi vừa được giấy
của hãng tàu cho rédution (giảm giá) về cuộc
Đấu sảo Paris, vậy tôi có lập một cuộc du lịch
ở trong này được nhiều người muốn đi lắm.
Nay ông ở ngoài đó ông có biết ai muốn đi
hoặc ông có đi sang qua bên đó để quan sát cho
vui thì ông vào trong này đi với tôi cùng một
chuyến tàu thì thực là tiện lợi lắm. Trong này
tôi định tôi lấy vé tàu cùng vừa đi vừa về, cùng
ăn ở bên đó tôi bao hết trong hai tháng ở Paris
mà giá tiền rất rẻ. Như cách đi tàu hạng 1
Changeurs Réunis hay hạng 2 Messageries
Maritimes cả ăn ở hai tháng hết thảy là 2200 $.
Cách đi hạng 3 Messageries hay hạng 3
Changeurs hết thảy là 1350 $. Cách đi hạng tư
hết thảy là 850 $. Còn sự tiêu pha xe pháo
ngoài Paris thì độ 3, 4 $ một ngày là đủ. Còn
cái tiện này nữa như có người Fonctionnaire
(công chức) nào không có sẵn tiền dư thì đến
khi đi trả trước cho một nửa số tiền, còn lại bao
nhiêu thì có thể trả góp được làm 4 tháng. Như
vậy thì thực là tiện hơn hết vì rằng ở trong này
có nhiều fonctionnaire người ta bằng lòng như
thế. Vậy ông xin vui lòng dủ cho được nhiều đi
cho vui. Sau nữa về cái phần của ông đi thì tôi
xin trâm trước nhiều. Lại còn mỗi một người đi
được một cái bon- exposition (phiếu dự thưởng)
may ra khi sổ số được 10.000 $ cũng nên. Nhân
đây tôi nhờ ông làm ơn dán dùm cho mấy cái
nhật trình cho người ta biết và có ai hỏi thì nhờ
ông trả lời dùm cho những lời tôi đã nói ở trên.
Sau đây xin có lời kính chúc ông cùng quý
quyến được vạn an. Nay kính lời. Khánh”[10:
3- 4].
Ngay sau đó, Khánh Ký và Hương Ký đã
đăng các mẩu tin quảng cáo trên báo chí để tập
hợp thêm khách cùng đi du lịch:
“Cuộc đi du lịch đấu sảo ở Paris
Kính cáo đồng bào trong khắp Tam kỳ biết
rằng:
Chúng tôi có nhiều người dủ nhau đi du lịch
cuộc đấu sảo Paris năm 1931 này để quan sát
về Mỹ thuật, Kinh tế, Thực nghiệp và Văn minh
Âu- Tây, nên chúng tôi tổ chức cuộc du lịch này
thật là tiện lợi lắm...
Trong hai mươi người đi có một người đưa
đường đi coi các danh thắng và thông ngôn cho
mình. Ngài nào không biết tiếng Pháp cũng có
người cắt nghĩa dành giọt...
Ngài nào muốn hỏi điều gì thêm hoặc muốn
dự cuộc du lịch này xin biên thơ thẳng cho
Khánh ký Photo Saigon hoặc quá bộ lại Hiệu
Hương ký Photo, 84 Hàng Trống Hà Nội nói
truyện. Kính đạt” [10: 2].
Sau sự thành công của tua du lịch năm
1931, Khánh Ký đã thiết lập một chi nhánh tại
số 11, phố Balainville, quận 5, Paris. Năm
1937, Khánh Ký và hãng Cook đã phối hợp
quảng cáo và tổ chức hai tua du lịch tham quan
nước Pháp nhân dịp nước Pháp tổ chức hội chợ
vào tháng 5 và tháng 11- 1937. Hai nhà tổ chức
này còn sẵn sàng đáp ứng nếu khách có nhu cầu
đi tham quan một số nước châu Âu như Anh,
Bỉ, Đức, Thuỵ Sĩ và Ý.
T.V. Nghia / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 164-173 169
Bên cạnh việc mở tuyến tham quan từ Việt
Nam tới châu Âu thì một số công ty du lịch và
cá nhân còn tổ chức các chuyến tham quan tới
các nước ở châu Á như Thái Lan, Nhật Bản và
Hồng Kông. Ngày 22- 6- 1937, Nguyễn Văn
San, trú tại số 7, phố Minault, Bắc Ninh, đã gửi
đơn lên Thống sứ Bắc Kỳ xin tổ chức tua du
lịch đi Hồng Kông. Năm 1938, chính quyền
thuộc địa Đông Dương dự định tổ chức một
cuộc hành hương về thánh địa Méc ca để kiếm
lời, nhưng thương vụ này không được người
Việt Nam hưởng ứng.
4. Một số địa danh du lịch tiêu biểu
Địa danh Ba Vì: Núi Ba Vì (núi Tản Viên)
có ba đỉnh: đỉnh Đông Nam cao nhất dài 1.284
mét; đỉnh giữa dài 1.160 mét; đỉnh Tây Bắc dài
1.140 mét. Ba Vì không ẩm như Tam Đảo và
luôn có gió nên rất thông thoáng. Nhiệt độ thấp
nhất trong năm là 1708 và cao nhất là 2906.
Năm 1914, người Pháp đã xây dựng được một
con đường lên núi tới độ cao 400 mét. Tại độ
cao này, năm 1916 ông Marius Borel đã xây
dựng một trại chăn nuôi và một khu nhà nghỉ
hè. Đây là nhà nghỉ mát đầu tiên ở Ba Vì [8,
56].
Đến năm 1937, tại độ cao 400 mét mới chỉ
có 4 biệt thự của Borel, Trú sứ Sơn Tây,
Demolle và bác sĩ Joyeux. Thực dân Pháp đã
xây dựng một Trung tâm nghỉ mát cho quân đội
ở chỏm phía Bắc núi Ba Vì. Trung tâm có 15
ngôi nhà kiên cố và 2 nhà ăn. Cũng trong năm
1937, ông Regimbaud là chủ Khách sạn Tông
đã cho xây dựng một ngôi nhà sàn nhỏ ở độ cao
600 mét trên sườn Bắc để làm nơi nghỉ hè và
trồng thử các loại rau quả. Mùa hè năm 1940,
đã có khoảng 60 trẻ em người Pháp và người
An Nam dưới sự hướng dẫn của Seitz đã cắm
trại trong rừng ở độ cao 800 mét. Năm 1941,
Seitz đã xây dựng hai ngôi nhà xây, có một
ngôi có chiều dài tới 30 mét tại độ cao này [8:
56- 57].
Đến năm 1942, chính quyền thuộc địa quyết
định xây dựng Ba Vì thành một khu nghỉ mát
trong tỉnh Sơn Tây. Ba Vì đã được cấp điện
chiếu sáng và một đường dây điện thoại. Một
bản quy hoạch đã được thảo ra gồm có một
trạm bưu điện, một chợ, một sân thể thao, xây
một tuyến đường mới cho các xe lớn đi tới các
khu nghỉ mát.
Năm 1942, Ba Vì đã có thêm 3 ngôi nhà
nữa tại độ cao 800 mét được xây dựng để đón
nhận 400 thanh niên. Con đường lên tới độ cao
1000 mét được khởi công ngày 26- 2- 1942 và
lô thứ nhất ở độ cao 1000 mét đã được hoàn
thành vào ngày 23- 4- 1943 [8: 59].
Khu nghỉ mát Ba Vì cũng thu hút được một
lượng đáng kể khách du lịch người châu Âu và
người bản xứ. Ba Vì có lợi thế về cảnh đẹp, khí
hậu mát mẻ, và khá gần Hà Nội và Sơn Tây.
Nguồn cung ứng thực phẩm khá dồi dào và tiện
lợi. Ngoài ra, Ba Vì còn thu hút khách du lịch
bởi sự huyền bí của các khu rừng nguyên sinh,
rất thích hợp cho các chuyến thám hiểm đầy thú
vị.
Địa danh Bạch Mã: Năm 1932, Girard, kỹ
sư trưởng ngành cầu đường, trong khi đi tìm
một địa điểm nghỉ mát thuận lợi ở gần Huế đã
phát hiện ra Bạch Mã, một ngọn núi cao 1.450
so với mực nước biển, cách Huế 40 km về phía
Nam.
Do ở gần biển nên nhiệt độ ở Bạch Mã
không bao giờ xuống dưới 40C trong mùa đông
và không vượt quá 260C trong mùa hè. Tiết trời
mát mẻ nhưng không lạnh. Nhiệt độ thay đổi từ
100C đến 220C [8: 77- 78].
Năm 1933, Hạt công chánh Trung Kỳ đã
xây dựng tại Bạch Mã một ngôi nhà gỗ đầu tiên
của khu nghỉ mát. Năm 1934, người Pháp đã
xây dựng một con đường dùng cho cáng lên
Bạch Mã. Năm 1936 đã có thêm 17 ngôi nhà gỗ
T.V. Nghia / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 164-173 170
được xây dựng. Năm 1937, người Pháp đã làm
một tuyến đường cho xe ô tô đi tới độ cao 500
mét. Tuyến đường được hoàn thành vào năm
1938. Nhờ có tuyến đường này mà khu nghỉ
mát Bạch Mã phát triển nhanh chóng. Nhiều
ngôi nhà mới được xây dựng: 40 ngôi nhà
(1938), 45 ngôi nhà (1942) và 30 ngôi nhà
(1943). Tổng số ngôi nhà của khu nghỉ mát lên
tới con số 130 [8: 80].
Tại Bạch Mã có hai khách sạn, mỗi khách
sạn có từ 6 tới 15 phòng, hoạt động từ đầu
tháng 5 đến 15- 09. Quân đội Pháp có 15 ha để
xây dựng trung tâm nghỉ hè, cho phép nhận một
số lượng lên tới 300 quân nhân người Âu [8:
80].
Khu nghỉ mát Bạch Mã có diện tích 900 ha,
sở hữu nhiều cảnh quan thiên nhiên rất đẹp như
thung lũng Morang với các thác nước hoang dã
(có thác nước cao tới 600 mét), con suối dài
hàng cây số nằm uốn lượn trong một công viên
thiên nhiên gồm dương xỉ, thông và phong lan.
Với cảnh quan đẹp, cơ sở hạ tầng tương đối tốt,
chất lượng dịch vụ và phục vụ tốt, khu nghỉ mát
Bạch Mã đã thu hút được một lượng lớn khách
tới nghỉ dưỡng và tham quan trong dịp hè.
Địa danh Đà Lạt: Nhà bác học người Pháp
là Yersin đã phát hiện ra Đà Lạt. Năm 1893,
Yersin đã chinh phục được đỉnh Langbian. Từ
đây ý tưởng về xây dựng một khu điều dưỡng ở
Đà Lạt được hình thành. Năm 1897, hai đoàn
khảo sát của Pháp được phái đi từ Phan Rang.
Đoàn thứ nhất do Thouard dẫn đầu đi nghiên
cứu về việc lắp đặt đường sắt. Đoàn thứ hai do
Garnier dẫn đầu đi nghiên cứu việc xây dựng
đường bộ. Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương
là Paul Doumer đã cưỡi ngựa lên vùng cao
nguyên. Từ năm 1898 đến năm 1901, các đoàn
khảo sát do Oddera, Garnier và Bernard dẫn
đầu tới Đà Lạt để nghiên cứu xây dựng tuyến
đường bộ từ Sài Gòn đi Đà Lạt. Năm 1901,
phái đoàn do Guynet chỉ huy đã xây dựng một
số ngôi nhà gỗ ở Đà Lạt. Năm 1902, do Paul
Doumer rời Đông Dương nên dự án xây dựng
Đà Lạt tạm ngưng lại, và Langbian bị lãng quên
trong mười năm sau đó. Phải đến năm 1921,
Toàn quyền Albert Sarraut đã phê duyệt một
khoản tín dụng để xây dựng một con đường và
một số ngôi nhà ở Đà Lạt. Năm 1915, những du
khách châu Âu đầu tiên đã đến Đà Lạt. Năm
1917, Toàn quyền Roume đã khánh thành Dinh
Langbian. Đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời
của khu nghỉ mát Đà Lạt.
Năm 1922, chính quyền thuộc địa đã thực
hiện bản quy hoạch của kiến trúc sư Hébrard để
xây dựng Đà Lạt thành một đô thị. Hébrard đã
quy hoạch Đà Lạt trở thành đô thị có sức chứa
tới hơn 300.000 dân. Chính vì dân cư ở Đà Lạt
lúc này rất thưa thớt nên các chi tiết thiết kế đều
rất tuyệt vời. Không có các ngôi nhà chen chúc,
khắp nơi là các biệt thự rộng rãi nằm giữa các
khuôn viên, các vườn cây và hoa. Nhà quy
hoạch đô thị tài ba này còn có ý tưởng tạo một
hồ nhân tạo bằng cách chặn thác Cam Ly để tô
điểm cho thành phố.
Sau khi cơ sở hạ tầng được xây dựng, người
Pháp đã nhanh chóng đổ xô đến Đà Lạt kinh
doanh. Họ đã biết tận dụng các điều kiện tốt về
khí hậu và đất đai để xây dựng các trang trại
trồng rau, cây ăn quả (mỗi năm Đà Lạt xuất hơn
1.200 tấn rau cho các địa phương khác), đồn
điền trồng chè, trồng cà phê, trại chăn nuôi. Các
khu vui chơi thể thao và giải trí nhanh chóng
được xây dựng.
Đà Lạt là một trung tâm dã ngoại rất lý
tưởng. Bởi địa hình cao nguyên ở đây rất đẹp,
có những đường xe hơi và đường mòn chạy
qua. Có nhiều điểm để ngắm cảnh như đỉnh
Robinson, đỉnh ba cây thông, hồ than thở, rừng
tình yêu, các thác nước ở Cam Ly và ở Ankroet.
Hoạt động săn bắn ở các khu rừng gần Đà Lạt
cũng rất hấp dẫn du khách. Đà Lạt còn là một
trung tâm giáo dục và điều dưỡng về y tế. Chỉ
sau vài thập kỷ phát triển, từ một nơi heo hút ít
T.V. Nghia / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 164-173 171
ai để ý tới, Đà Lạt đã trở thành một thành phố
du lịch và nghỉ dưỡng nổi tiếng.
Địa danh Đồ Sơn: Năm 1880, Jean Dupuis
đổ bộ lên bán đảo Đồ Sơn và tiến hành khảo sát
qua loa các địa điểm ở đây rồi bỏ đi. Năm 1886,
các ông Vlaveanos, Costa và Gouma đã phát
hiện ra Đồ Sơn [11: 45- 46]. Họ đã giới thiệu
cho các gia đình người Âu ở Bắc Kỳ đến đây để
trốn tránh cái nắng mùa hè.
Năm 1891, thực dân Pháp đã khởi công xây
dựng một tuyến đường nối Hải Phòng với Đồ
Sơn. Đến năm 1892, con đường đã được hoàn
thành. Trú sứ Kiến An đã cho xây dựng ở Đồ
Sơn một ngôi biệt thự [1: 46]. Ngay sau đó
nhiều người Pháp đã đổ ra Đồ Sơn xây nhà.
Những con đường lớn được xây dựng, phần lớn
được trải nhựa.
Ngày 18- 5- 1909, Toàn quyền Đông
Dương là Klobukowski ra Nghị định nâng cấp
Đồ Sơn thành đô thị (1, 47). Từ khi trở thành đô
thị, Đồ Sơn càng có sức hấp dẫn đối với các du
khách. Du khách chọn Đồ Sơn làm điểm đến là
vì ở đây có đường giao thông thuận tiện, cảnh
sắc tươi đẹp, chất lượng phục vụ và dịch vụ tốt,
khí hậu trong lành. Hàng năm từ tháng 5 đến
tháng 10, rất nhiều du khách đã đến các Bãi
Lớn, vịnh Clateau, vịnh Hoa tiêu (Baie des
Pilotes), và vịnh Pagodon. Mặc dù có tới 150
biệt thự và ba khách sạn, nhiều nhà hàng,
nhưng vẫn không đủ phục vụ khách đi nghỉ hè
[11: 46- 47].
Địa danh Sa Pa: Đỉnh núi Fansipan ở Sa Pa
được mệnh danh là ông hoàng của các ngọn núi
ở Đông Dương. Fansipan nằm trên dãy núi
Hoàng Liên Sơn với độ cao trên 3.000 mét so
với mực nước biển. Những thác nước rạch vách
núi thành những đường thẳng đứng dài óng ánh
như bạc. Sa Pa có những cây đào trĩu quả,
những dàn nho xanh tốt, những con bò trên các
bãi chăn thả, những ngôi biệt thự rêu phong, bãi
đua ngựa, nhà thờ, những cửa hàng sặc sỡ và
ngôi chợ. Cảnh sắc Sa Pa thật hấp dẫn du
khách.
Sa Pa phát triển nhanh chóng. Từ năm 1910
đến năm 1920, ở Sa Pa chỉ có 6 biệt thự, trong
đó biệt thự Mangin là đẹp nhất. Từ năm 1920
đến 1930 đã có thêm vài chục ngôi nhà, một số
khách sạn và Toà Công sứ. Từ năm 1930 đến
1940 có thêm 26 biệt thự và nhà thờ. Năm 1941
có thêm 01 biệt thự, năm 1942 có thêm 07 biệt
thự và 1943 có thêm 10 ngôi nhà [11: 64].
Việc quy hoạch đô thị Sa Pa gặp nhiều khó
khăn do địa hình có các thung lũng, khe, đồi và
dốc. Bản quy hoạch phải thể hiện được ẩn sau
Sa Pa hiện tại là một Sa Pa của tương lai.
Không được phép mắc những sai lầm trong quy
hoạch mà tương lai không thể sửa chữa được.
Quy hoạch phải tôn trọng những gì quá khứ và
hiện tại đã xây dựng. Quy hoạch phải chuẩn bị
cho sự phát triển hài hoà của một đô thị lớn. Do
đó, khu đô thị Sa Pa được người Pháp quy
hoạch rất cẩn thận và chi tiết. Các khu chức
năng được xác định rõ ràng như khu biệt thự
cao cấp, khu biệt thự thường, khu dân cư, khu
thương mại và công nghiệp, khu công viên, khu
hành chính, khu giải trí, Tất cả các công trình
xây dựng phải được thiết kế sao cho hài hoà với
cảnh sắc thiên nhiên ở nơi đây.
Địa danh Sầm Sơn: Khu nghỉ mát Sầm Sơn
được phát hiện ra vào năm 1900 khi thực dân
Pháp làm tuyến đường xuyên Đông Dương qua
địa phận tỉnh Thanh Hoá. Nhận thấy tiềm năng
du lịch và thương mại ở Sầm Sơn, người Pháp
đã nhanh chóng tiến hành quy hoạch khu đô thị
ở đây. Sầm Sơn gồm 2 trung tâm đô thị với
tổng diện tích là 244 ha. Khu Sầm Sơn thượng
nằm trên sườn núi đá ở phía nam khu nghỉ mát,
trông ra biển. Ở đây có tới 40 biệt thự (trong đó
có 32 biệt thự một tầng và 8 biệt thực có tầng
lầu). Có nhiều con đường rộng có chất lượng tốt
chạy ngang dọc trong khu đô thị để đi dạo bộ
hoặc đi ô tô. Khu trung tâm được phủ xanh
bằng các cây thông, cây phi lao và các cây có
T.V. Nghia / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 164-173 172
hương thơm khác. Khu Sầm Sơn hạ có 214 nhà
gạch, trong đó có 22 nhà tầng. Các ngôi nhà
xếp thành 4 dãy phố dọc theo 2 km bờ biển [11:
72].
Khí hậu ở Sầm Sơn khá thoáng mát. Tháng
lạnh nhất trong năm là tháng 1 có mức nhiệt độ
trung bình là 15,70C. Tháng 6 và tháng 7 có
nhiệt độ nóng nhất. Nhiệt độ trung bình trong
tháng 6 là 28,90C. Biển Sầm Sơn yên tĩnh suốt
mùa nóng. Nước biển mát và khá trong. Tại
Sầm Sơn có rất nhiều hải sản như cá, cua, tôm,
ốc, sò, và nghêu.
Khu du lịch Sầm Sơn có thể làm hài lòng du
khách bằng các hoạt động tắm biển, câu cá,
quần vợt, leo núi, đi bộ và dã ngoại. Những du
khách mơ mộng và cô đơn có thể đắm mình
trong khu Rừng huyền bí rộng hàng trăm ha ở
phía Bắc. Ngoài ra du khách có thể đến thăm
một số làng nghề sản xuất nước mắm, làm quạt
và làm chiếu ở gần đó.
Địa danh Vũng Tầu1): Cho đến cuối thế kỷ
XIX, Vũng Tầu vẫn chỉ là nơi đồn trú của hải
quân Pháp. Từ năm 1895 đến 1902, người Pháp
đã thực hiện bản quy hoạch đô thị do Outrey
thiết kế. Outrey đã cho xây dựng trên biển một
con đê chắn sóng dài tới 400 mét nhưng đã bị
cơn bão năm 1904 cuốn trôi. Công việc xây
dựng Vũng Tầu vì thế bị chậm lại. Đến năm
1917, tuyến đường thuộc địa số 15 đắp qua các
đầm lầy với các cây cầu lớn qua các sông mới
nối Vũng Tầu với đất liền. Từ đó Vũng Tầu
phát triển rất mạnh.
Các điều kiện khí hậu tuyệt vời của Vũng
Tầu đã lôi cuốn nhiều người Sài Gòn tới nghỉ
dưỡng, phục hồi sức khoẻ. Một dưỡng đường
đã được xây dựng ở đây. Về sau nó được sáp
nhập vào Đại Khách sạn (Grand Hôtel). Toàn
quyền Đông Dương là Paul Doumer đã cho xây
_______
1) Thời Pháp thuộc địa danh Vũng Tầu có tên gọi là Ô Cấp
hay Cap Saint Jacques. Tên Cap Saint Jacques do người
Bồ Đào Nha đặt ra để nhớ tới vị thánh đỡ đầu nước họ là
Jacques de Compstelle.
dựng một biệt thự rất đẹp được đặt tên là Biệt
thự trắng (Villa Blanche) [11: 84- 85]. Từ khi
Vũng Tầu trở thành một đô thị, đã có nhiều biệt
thự được xây dựng để phục vụ cho các hoạt
động nghỉ dưỡng và du lịch ở đây.
Kết luận
Du lịch là một ngành kinh tế đem lại lợi
nhuận cao ở nhiều nước, nhưng ở Việt Nam
trong thời kỳ Pháp thuộc du lịch không phải là
một ngành kinh tế mũi nhọn mang lại siêu lợi
nhuận. Thực dân Pháp lợi dụng du lịch như một
thứ chim mồi để câu kéo các nhà đầu tư Pháp
vào Việt Nam. Tuy nhiên, du lịch Việt Nam vẫn
có những bước tiến đáng kể như từng bước
được chuyên nghiệp hoá và trở thành một
ngành kinh tế. Số lượng khách quốc tế đến
tham quan Việt Nam cũng ngày một đông hơn
(cũng có những thời điểm số lượng khách quốc
tế sụt giảm do suy thoái kinh tế và chiến tranh
thế giới) và đa dạng hơn (du khách đến từ Pháp,
Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan...). Ban đầu
người Việt Nam cũng chưa thực sự hào hứng
với hoạt động du lịch, nhưng về sau do nhu cầu
làm ăn ở trong nước và quốc tế, tìm hiểu thế
giới bên ngoài, cùng với điều kiện kinh tế dư dả
đã làm cho ngày càng có nhiều người Việt Nam
ham muốn đi du lịch. Địa chỉ du lịch ở châu Âu
mà người Việt Nam thích đến nhất là nước
Pháp, và ở châu Á là Thái Lan, Hồng Kông,
Trung Quốc và Nhật Bản. Thông qua các công
ty du lịch, các phương tiện truyền thông, thì
những hình ảnh về đất nước, con người và văn
hoá Việt Nam đã được giới thiệu đến nhiều
nước trên thế giới. Du lịch bên cạnh ý nghĩa là
một ngành kinh tế còn là một cầu nối văn hoá
quan trọng giữa Việt Nam với thế giới bên
ngoài.
T.V. Nghia / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26 (2010) 164-173 173
Tài liệu tham khảo
[1] Trung tâm lưu trữ quốc gia I (TTLTQGI), Phông
Phủ Thống sứ (RST), Hồ sơ số (HSS) 81973,
Organisation du tourisme colonial en Indochine
en 1923 (Tổ chức du lịch thuộc địa Đông Dơng
năm 1923).
[2] TTLTQGI, RST, HSS 75215, Organisation du
tourisme en Indochine, 1922- 1931 (Tổ chức du
lịch Đông Dương, 1922- 1931).
[3] TTLTQGI, RST, HSS 72548, A.s programme
d’organisation et de propagande touristiques,
1927 (Về chương trình tổ chức và tuyên truyền
du lịch, 1927).
[4] TTLTQGI, RST, HSS 75222, A.s Activités du
Conseil régional de Tourisme du Tonkin, 1922-
1932 (Về các hoạt động của Uỷ ban du lịch Bắc
Kỳ, 1922- 1932).
[5] TTLTQGI, RST, HSS 71711, Propagande en
faveur du Tourisme indochinoise, 1914- 1940
(Tuyên truyền cho du lịch Đông Dương, 1914-
1940).
[6] TTLTQGI, RST, HSS 72715, A.s Constitution
d’un Bureau offiel du tourisme en Indochine,
1928 (Về việc lập một Văn phòng du lịch Đông
Dương, 1928).
[7] TTLTQGI, RST, HSS 75210, Excursions et
croisières touristiques organisés en Indochine,
1932- 1938 (Các chuyến tham quan và các
chuyến du lịch đường biển được tổ chức ở Đông
Dương, 1932- 1938).
[8] TTLTQGI, RST, HSS 20859, Organisation du
tourisme en Indochine, 1913 (Tổ chức du lịch
Đông Dương, 1913).
[9] TTLTQGI, RST, HSS 72710, Organisation et
développement du tourisme en Indochine, 1914-
1929 (Tổ chức và phát triển du lịch ở Đông D-
ương, 1914- 1929).
[10] TTLTQGI, RST, HSS 75211, A.s Croisières
touristiques organisées hors d’Indochine, 1931-
1939 (Về các chuyến du lịch đường biển đợc tổ
chức ngoài Đông Dương, 1931- 1939).
[11] Tỉnh thành xưa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Hải
Phòng, Hải Phòng, 2004.
Some features on Vietnam tourism during the
French colonial feriod
Tran Viet Nghia
College of Social Sciences and Humanities, VNU
336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam
To the early XX century, the French colonial government developed many tourist centers in
Vietnam. At first, it sent some scientist groups to go around Vietnam to find the cool sites to build the
resorts for the French colonial officials. Some sites where had the beautiful landscapes and low
temperature were found, such as Ha Long, Sa Pa, Tam Dao, Mau Son, Ba Vi, Do Son, Sam Son, Bach
Ma, Nha Trang, Da Lat and Vung Tau. They had been built into resorts, and then became the famous
tourist centers. Many foreign visitors, especially the Europeans went to Vietnam tourist sites. There
were more and more Vietnamese people who liked becoming visitors. The French colonial
government not only exploited Vietnam tourism as an economic branch, but also used it to attract the
foreign investors to Vietnam. Tourism also became the bridge to link Vietnam culture to other cultures
in the world.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5_13_9333.pdf