Dung tích hít vào của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát dung tích hít vào (IC) của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính sau điều trị thuốc giãn phế quản.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang phân tích. Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) và được theo dõi, điều trị với seretide và salbutamol (ventoline). Ngoài ra, các trường hợp đều được đo chức năng hô hấp trước và sau điều trị với thời gian giữa hai lần đo ít nhất trong bốn tuần.
Kết quả: Từ 2/2006 đến 2/2007, có 73 bệnh nhân BPTNMT (57 nam và 16 nữ). Tất cả họ có tuổi từ 40 trở lên. 49 trường hợp (67%) hút thuốc lá, trung bình 32 16 gói/năm. Số trường hợp BPTNMT giai đoạn II là 24; giai đoạn III là 34; và giai đoạn IV là 15. Sau điều trị thuốc giãn PQ, chỉ số IC tăng 330 ml và 22%; và FEV1 tăng 210 ml và 18% so với trước điều trị. Sự cải thiện này đều xảy ra tương tự ở các giai đoạn (II, III và IV) của BPTNMT cũng như ở từng lứa tuổi và đều có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Ngoài ra, sự tăng IC và FEV1 sau khi điều trị thuốc giãn phế quản ở
DUNG TÍCH HÍT VÀO CỦA BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH
16 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2091 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dung tích hít vào của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DUNG TÍCH HÍT VÀO CỦA BỆNH NHÂN
BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát dung tích hít vào (IC) của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mãn
tính sau điều trị thuốc giãn phế quản.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang phân tích. Tất cả bệnh nhân
được chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) và được theo dõi, điều
trị với seretide và salbutamol (ventoline). Ngoài ra, các trường hợp đều được đo
chức năng hô hấp trước và sau điều trị với thời gian giữa hai lần đo ít nhất trong
bốn tuần.
Kết quả: Từ 2/2006 đến 2/2007, có 73 bệnh nhân BPTNMT (57 nam và 16 nữ). Tất
cả họ có tuổi từ 40 trở lên. 49 trường hợp (67%) hút thuốc lá, trung bình 32 16
gói/năm. Số trường hợp BPTNMT giai đoạn II là 24; giai đoạn III là 34; và giai đoạn
IV là 15. Sau điều trị thuốc giãn PQ, chỉ số IC tăng 330 ml và 22%; và FEV1 tăng
210 ml và 18% so với trước điều trị. Sự cải thiện này đều xảy ra tương tự ở các giai
đoạn (II, III và IV) của BPTNMT cũng như ở từng lứa tuổi và đều có ý nghĩa thống
kê (P < 0,05). Ngoài ra, sự tăng IC và FEV1 sau khi điều trị thuốc giãn phế quản ở
nhóm hút thuốc lá là có ý nghĩa thống kê (P < 0,05), ngược lại ở nhóm không hút
thuốc lá sự thay đổi này không có ý nghĩa (P > 0,05). Đồng thời, khi phân tích ở nhiều
mức độ khác nhau, thì giá trị P của IC luôn luôn có ý nghĩa thống kê hơn giá trị P của
FEV1.
Kết luận: Sự thay đổi của dung tích sống hít vào (IC) dùng để đánh giá đáp ứng điều
trị thuốc giãn phế quản cho bệnh nhân BPTNMT tốt hơn là sự thay đổi của FEV1.
ABSTRACT
THE SURVEY OF INSPIRATORY CAPACITY IN COPD PATIENTS
AFTER TREATED WITH BRONCHODILATORS
Vo Minh Vinh, Quang Van Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of
No 4 - 2008: 173 - 177
Objectives: to survey inspiratory capacity in COPD patients after treated with
bronchodilators.
Method: analytical crossed-sectional study.
Results: from 2/2006 to 2/2007, there were 73 COPD patients (75 male and 16
female). All of them were at least 40 years old. 49 cases (67 %) smoked cigarette,
average at 32 16 packs/year. There were 24 cases in phase II of COPD; 34 in phase
III; and 15 in phase IV. After treating with bronchdilators, value of IC index increased
to 330 ml and 22%; and value of FEV1 increased to 210 ml and 18% more than
before treating bronchdilators. These improvement took place similarly in phases of
COPD (II,III, and IV) as well as in each age group and were significantly statistical (P
< 0.05). On the other hand, the increases of IC and FEV1 after treating with
bronchdilators in smoke group were significantly statistical (P < 0.05), whereas in
non-smoke group were not significantly statistical (P > 0.05). Simultaneously,
analysis in many aspects, P-value of IC was more significantly statistical than P-value
of FEV1.
Conclusion: The change of IC in evaluation of the response of treatment with
bronchodilators in COPD patients was better than the change of FEV1.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) hiện nay là một vấn đề sức khỏe, là một
trong những nguyên nhân hàng đầu về tỉ lệ mắc bệnh và tử vong, gây ra một gánh
nặng cho nền kinh tế và xã hội trên toàn cầu. Như những bệnh mạn tính khác, những
rối loạn bất phục hồi gây ra những triệu chứng đòi hỏi người bệnh cần phải được điều
trị ngoại trú thường xuyên và không tránh khỏi những đợt kịch phát cần phải nhập
viện, và toàn bộ gánh nặng BPTNMT vẫn chưa được đánh giá đúng mức(5,6).
Hút thuốc lá, nguy cơ chính đã được khẳng định do hậu quả gây tổn hại cấu trúc và
chức năng ở hệ hô hấp, dẫn đến BPTNMT cũng như nhiều loại bệnh khác. Tuy nhiên
không phải tất cả những người bị BPTNMT đều có liên quan đến yếu tố nguy cơ
thuốc lá, bởi có sự khác nhau về tính thụ cảm sinh bệnh của từng cá thể. BPTNMT
luôn được quan tâm và đề cập đến quá trình viêm trên các cấu trúc giải phẩu đường
hô hấp. Do vậy, hiện nay vẫn còn nhiều nghiên cứu với mục đích phát hiện thêm
những ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến diễn tiến bệnh nhằm hổ trợ cho việc
điểu trị đạt được các mục tiêu cần thiết
Vấn đề điều trị đến hiện tại vẫn chủ yếu bao gồm: sử dụng linh hoạt các thuốc dản
phế quản, các loại corticoid uống hoặc hít, phục hồi chức năng, liệu pháp oxy dài hạn
tại nhà trong những trường hợp hạ oxy trong máu, cai thuốc lá nếu bệnh nhân đang
hút là điều kiện tiên quyết(5,6).
Việc đánh giá chức năng hô hấp trước, trong và sau điều trị thuốc dản phế quản ở
bệnh nhân BPTNMT từ trước đến nay chúng ta vẫn dựa chủ yếu vào thông số thể tích
thở ra gắng sức trong giây đầu (FEV1) và trị số Tiffeneau (FEV1/VC) hoặc trị số
Geansler (FEV1/FVC).
Nhiều bệnh nhân bị mắc BPTNMT đặc biệt là những bệnh nhân có hạn chế lưu
lượng khí thở ra lúc nghĩ ngơi càng nhiều thì sự phục hồi của trị số FEV1 rất ít, tuy
nhiên những bệnh nhân này đều giống nhau: cảm thấy dễ thở hơn và khả năng gắng
sức tốt hơn sau điều trị với thuốc giãn phế quản (2), và sự cải thiện dung tích hít vào
(IC:Inspiratory capacity) ở những bệnh nhân này rất có ý nghĩa. Do vậy chúng tôi tiếp
tục nghiên cứu thêm thông số IC trên bệnh nhân BPTNMT để có thêm nhiều thông
tin cho việc điều trị, chăm sóc và theo dõi bệnh nhân BPTNMT tốt hơn.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân
Theo dõi 76 bệnh nhân BPTNMT được chẩn đoán và điều trị ngoại trú, tại phòng
khám hô hấp Bệnh viện Đại học y Dược, bệnh nhân được khám lâm sàng, chụp XQ,
đo chức năng hô hấp làm test giãn phế quản, nếu có trị số Tiffeneau < 70% dự đoán
trước và sau test giãn phế quản thì chọn vào nghiên cứu.
Các đối tượng khó thở do các bệnh lý như suy tim, tràn khí màng phổi rối loạn chức
năng thần kinh ngoại biên được loại trừ ra khỏi mẫu nghiên cứu.
Thuốc điều trị là Seretide và Salbutamol (Ventoline)
Thời gian hai lần đo chức năng hô hấp theo dõi ít nhất là bốn tuần lễ, thời gian làm
nghiên cứu từ 2/2006 đến 2/2007.
Đối tượng được xác định mắc BPTNMT qua thăm khám và kết quả chức năng hô
hấp trước và sau làm test giãn phế quản (FEV1/VC<70% TSDĐ), có hoặc không có
hút thuốc lá.
Kỹ thuật đo chức năng hô hấp
-Chiều cao và cân nặng được xác định bởi thước và cân y khoa, tuổi của bệnh nhân
lấy năm đo chức năng hô hấp trừ cho năm sinh.
-Trị số dự đoán (predictive) là của người châu Á.
-Trị số dự đoán của IC được tính bằng TLC-FRC (TSDĐ).
-Filter(ống ngậm có màng lọc) chỉ dùng cho từng bệnh nhân.
-Bệnh nhân đo chức năng hô hấp ở tư thế ngồi.
-Máy móc sử dụng là máy hô hấp ký loại lưu lượng - thể tích (Flow-Volume). Thể
tích được tính bằng cách tích phân lưu lượng theo thời gian. Thể tích và lưu lượng
được tự động tính ra theo điều kiện thân nhiệt, áp suất môi trường và bảo hòa hơi
nước (BTPS). Máy được định chuẩn mỗi ngày với syringe 3 lít với các lưu lượng
khác nhau. Độ chính xác phải đạt là 3% hoặc 50ml, tùy số nào lớn hơn như hội lồng
ngực Hoa Kỳ qui định. Kỹ thuật viên được huấn luyện kỹ lưỡng và thành thạo với
việc làm hô hấp ký. Bệnh nhân được giải thích cặn kẽ và dùng kẹp mũi trong qui trình
đo,. Chúng tôi đo 3 lần dung tích sống chậm và 3 lần dung tích gắng sức, với dung
tích sống thở chậm phải làm tối thiểu 3lần thể tích lưu thông(TV), các điểm thở ra tại
vị trí tổng dung tích phổi (TLC) và điểm hít vào tại vị trí thể tích khí cặn(RV) phải đạt
đường bình nguyên. Các tiêu chuẩn giãn đồ là đường biểu diễn suôn sẽ, đưởng gắng
sức phải tà đầu và đoạn thở ra dài tối thiểu 6 giây và đạt bình nguyên ít nhất 1 giây.
Hai đường dung tích sống chậm và hai đường dung tích gắng sức lớn nhất không
được lệch nhau quá 5% hoặc 100ml, tùy số nào lớn hơn(1).
Xử lý số liệu
Nhập dữ liệu với EpiData, phân tích số liệu bởi phần mềm Stata for Window 8.0.
Phép thống kê
Test T, (bắt cặp); bác bỏ H0 khi Pgiá trị <0.05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1: Các đặc điểm dịch tễ của mẫu nghiên cứu:
Đặc điểm Nam Nữ
Giới tính 73 (100%) 57(78%) 16(22%)
Tiền căn lao
phổi
16.4%
10
(17.5%)
2(12.5%)
Tiền căn
thuốc lá
67%
3216(pys)
47(82%) 2(12.5%)
Đặc điểm Nam Nữ
Tuổi trung
bình
6012 6212 5313
Chiều cao
(cm)
1587
(143-176)
1605
(143-
176)
1525
(143-163)
Cân nặng
(kg)
521 541 481
BIM(Kg/m2) 20.91.8 20.90.9 20.71.5
Thời gian
điều trị(ngày)
7112 5223 5925
Huyết áp tối
đa(mmHg)
12711 12812 12610
Huyết áp tối
thiểu
(mmHg)
827 838 816
Mạch
(lần/phút)
827 7213 6811
Ghi chú: Mean: trung bình; SD: độ lệch chuẩn; pys:pack-year: gói-năm.
* Nhận xét: Tuổi thấp nhất trong nghiên cứu là 40 tuổi, mức độ hút thuốc lá 3216
gói-năm: là những yếu tố rất liên quan đến BPTNMT.
Bảng 2: Kết quả chức năng hô hấp:
N
Trước điều
trị (lít)
Sau điều
trị (lít)
P giá trị
IC 73 1.49 0.51
1.82
0.57
0.01
FEV1 73 1.18 0.52
1.40
0.63
0.01
*Nhận xét: Cả hai trị số dung tích hít vào (IC) và thể tích thở ra gắng sức trong giây
đầu(FEV1) đều cải thiện có ý nghĩa (P<0.05).So sánh trị số cơ bản thì mức cải thiện
của IC là 330ml và 22%, của FEV1 là 210 ml và 18%.
Bảng 3: Kết quả chia theo từng giai đoạn của BPTNMT
*Nhận xét:Trong từng mức độ bệnh
trị số IC và FEV1 đều cải thiện có ý
nghĩa, tuy nhiên P giá trị của IC có ý
nghĩa hơn của FEV1.
Bảng 4: Kết quả chức năng hô hấp
của nhóm hút thuốc và không hút
thuốc
N
Trước
điều trị
Sau
điều trị
P giá
trị
Độ N
Truớc
điều
trị(lít)
Sau điều
trị(lít)
P giá
trị
IC 2 24
1.80
0.46
2.26 0.47 0.0005
IC 3 34
1.47
0.45
1.63 0.35 0.0001
IC 4 15
1.17
0.39
1.41 0.41 0.0001
FEV1 2 24
1.74
0.46
1.85 0.48 0.02
FEV1 3 34
1.03
0.28
1.150.26 0.001
FEV1 4 15
0.63
0.15
0.68 0.17 0.004
IC 49 1.47 0.54
1.84
0.10
0.002
Hút
thuốc lá
FEV1 49 1.14 0.53
1.35
0.59
0.04
IC 24 1.50 0.54
1.84
0.10
0.38 Không
hút
thuốc lá FEV1 24 1.22 0.51
1.40
0.52
0.57
Nhận xét: Trong cả hai nhóm hút và không hút thuốc lá thì xét về mặt cải thiện có ý
nghĩa thì P giá trị của IC vẫn nhỏ hơn của FEV1.
Bảng 5: Kết quả phân chia theo mức tuổi:
Mức
tuổi(năm)
N
Truớc
điều trị
(lít)
Sau điều
trị (lít)
P giá
trị
IC 40-49 17
1.72
0.56
2.26
0.66
0.04
IC 50-59 19
1.67
0.55
2.02
0.59
0.06
IC 60-69 12
1.46
0.42
1.75
0.46
0.04
IC ≥70 25
1.29
0.36
1.63
0.36
0.0005
73
1.49
0.51
1.82
0.57
0.01
FEV1 40-49 17
1.43
0.63
1.75
0.65
0.04
FEV1 50-59 19
1.34
0.61
1.52
0.64
0.37
FEV1 60-69 12
1.07
0.38
1.21
0.48
0.27
FEV1 ≥70 25
0.90
0.25
1.08
0.36
0.03
73
1.18
0.52
1.40
0.63
0.01
BÀN LUẬN:
Qua phần kết quả nêu trên cùng với phần nhận xét chi tiết của mỗi kết quả chúng tôi
nhận thấy rằng: Không có BPTNMT giai đoạn 1 (theo tiêu chuẩn của GOLD 2006)
trong nghiên cứu, điều này có thể cho ta thấy rằng mức độ chăm sóc sức khỏe ban
đầu của người dân chúng ta còn thấp.
Trị số IC và FEV1 trong nghiên cứu này giống nhau ở điểm là cùng giảm tương ứng
theo mức độ nặng của BPTNMT (bảng 3).
Các trị số IC và FEV1 trong nghiên cứu đều cải thiện có ý nghĩa trước và sau điều
trị. Tuy nhiên khi phân tích ở nhiều góc độ khác nhau như chia ra từng giai đoạn
của bệnh, chia ra theo từng mức tuổi thì thấy rằng P giá trị của trị số IC nhỏ hơn,
đặc biệt ở giai đọan III và giai đoạn IV khi trị số FEV1 cải thiện không có nghĩa
hồi phục (≥12% và 200ml) thì thấy trị số IC cải thiện rõ rệt hơn.
Trong quá trình điều trị và theo dõi bệnh nhân BPTNMT thầy thuốc chúng ta
thường cho đo chức năng hô hấp và chủ yếu theo dõi trị số Tiffeneau và FEV1 nếu
không có điều kiện thì theo dõi tình trạng lâm sàng như cải thiện sự khó thở, tăng
khả năng gắng sức nhưng nếu chỉ vậy thì mới chỉ là kinh nghiệm của người thầy
thuốc, thiếu chứng cứ y học cần thiết. Vấn đề đặt ra là nếu trị số FEV1 và
Tiffeneau không có sự phục hồi, vậy có còn thông số chức năng hô hấp nào đại
diện cho sự cải thiện lâm sàng của BPTNMT, đó là thông số IC. Thông số IC
(inspiratory capacity) hay dung tích hít vào không đại diện cho sự nghẽn tắc
đường thở mà nó đại diện cho căng phồng phổi động học (dynamic lung
hyperinflation = DH). Những nghiên cứu chỉ cho thấy rằng trong khi gắng sức DH
góp phần hiểu rõ sự bất thường của hô hấp(4).
Những bằng chứng quan trọng gián tiếp của DH có được từ những nghiên cứu,chứng
minh rằng sự giảm khó thở sau điều trị thuốc giãn phế quản và phẩu thuật giảm thể
tích phổi đã được giải thích bởi giảm một phần hoạt động của các thể tích phổi(4).
Tiêu chuẩn vàng xác nhận BPTNMT là giới hạn lưu lượng thở ra, nó xảy ra khi
thở bình thường lúc nghĩ ngơi như là hậu quả động học của dung tích cặn chức
năng (FRC) và điều này đã không được xác minh nhiều trước đây. Trong khi gắng
sức yêu cầu thông khí gia tăng ở những bệnh nhân bị giới hạn lưu lượng thì diễn
tiến khí đóng (air trapping) nhiều hơn là không tránh khỏi.
-Sự không thể mở rộng thể tích lưu thông (tidal volume) trong sự đáp ứng tăng hô
hấp khi gắng sức góp phần quan trọng trong khả năng gắng sức của bệnh nhân
BPTNMT giai đoạn vừa và nặng. Đo trị số IC và các thành phần thể tích có được từ
phép đo IC trong khi gắng sức đã bổ xung cách đánh giá thông khí truyền thống bắt
buộc và có thể giúp hiểu thấu thêm về sự mất sức,tàn tật nói chung ở bệnh nhân
BPTNMT.
- Các thuốc giãn phế quản như Formoterol, salmeterol, oxytropium được xem là các
thuốc điều trị duy trì BPTNMT.Kết quả cho thấy ở bệnh nhân BPTNMT có giảm trị
số IC cơ bản thì có sự gia tăng IC sau chỉ định thuốc giãn phế quản, sự gia tăng này
có tương quan mạnh với cảm giác cải thiện khó thở khi nghĩ ngơi.Thuốc giãn phế
quản thường được sử dụng ở bệnh nhân BPTNMT để làm giảm sự tắc nghẽn , hầu hết
nhiều bệnh nhân BPTNMT có thể tồn tại chắc chắn sự gia tăng lưu lượng khí sau hít
khí dung thuốc giãn phế quản, một phần ba trong số họ cho thấy sự thay đổi hô hấp
ký không có ý nghĩa. Đó là một nguyên lý thông thường, tuy nhiên sự cải thiện về
triệu chứng và khả năng gắng sức có thể có mà không có sự cải thiện về hô hấp ký.
Như thế cho thấy có tần suất những bệnh nhân có mức độ tắc nghẽn nặng
(FEV1<50% trị số dự đoán),là những đối tượng thường biểu hiện giới hạn lưu lượng
thở ra, ví dụ lưu lượng thở ra bình thường của họ tối đa dưới điều kiện bình thường.
Trong sự hiện diện của giới hạn của lưu lượng thở ra, thì lưu lượng thở ra chỉ có thể
tăng khi thở ở một thể tích phổi cao hơn. Như thế giới hạn lưu lượng thở
ra(EFL:Expratory flow limitation) đã nâng mức căng phồng động học phổi, một điều
kiện mà ở đó thể tích cuối thì thở ra (EELV; End-expiratory lung volume) hay dung
tích cặn chức năng lớn hơn lúc cân bằng thể tích đàn hồi, kết quả có một áp lực dương
cuối kỳ thở ra (PEEP: Possitive end-expiratory pressure) và thật sự đó là ngưỡng tải
(threshold load) hít vào. Căng phồng phổi động học không chỉ kèm tăng công hít vào
do PEEP mà còn tổn thương chức năng cơ hít vào, điều này cùng với sự nén động học
làm giới hạn lưu lượng trong khi thở bình thường có thể góp phần khó thở trong
những bệnh nhân BPTNMT bị giới hạn lưu lượng.
Thuốc giãn phế quản thường được sử dụng trong điều trị BPTNMT như đồng vận 2,
kháng cholinergic, methylxanthine. Sự lựa chọn tùy vào loại thuốc có sẵn và sự đáp
ứng của bệnh nhân. Tất cả các loại thuốc giãn phế quản cho thấy gia tăng khả năng
gắng sức ở bệnh nhân BPTNMT mà không cấn thiết có sự thay đổi có ý nghĩa của
FEV1 (bắng chứng A)(3).
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy dung tích sống hít vào (IC) có tương quan mạnh hơn với
tình trạng khó thở và khả năng chịu đựng gắng sức của bệnh nhân BPTNMT dù có
hay không có sự thay đổi FEV1. Đồng thời, sự thay đổi trị số IC trên kết quả chức
năng hô hấp cũng dễ nhận thấy hơn. Sự thay đổi này được ghi nhận như sau:
1- Dung tích hít vào tăng trung bình của hai nhóm như sau: trước điều trị IC=1.49 ±
0.51 (lít), sau điều trị IC= 1.82± 0.57 (lít) tức là tăng 330ml và 22% so với trị số cơ
bản, tương tự của FEV1 là 180 ml và 18%.
2-Khi so sánh IC và FEV1 ở các giai đoạn của BPTNMT thì thấy sự cải thiện đều có
ý nghĩa thống kê (p<0.05), tuy nhiên P-giá trị của IC luôn nhỏ hơn P-giá trị của
FEV1.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 66_7594.pdf