Tại các nước ASEAN khác, nhiều biện pháp đang được thực thi nhằm trả
lại cho khu vực chúng ta một môi trường xanh, sạch như được hình dung
trong Tầm nhìn 2020.
Với tưcách là một tổchức hợp tác khu vực; ASEAN đã rất coi trọng việc
thúc đẩy hợp tác vềmôi trường giữa các nước thành viên. Cốgắng đầu
tiên theo hướng này là tuyên bốManila vềmôi trường khu vực ASEAN
(ngày 30/4/1981). Trong bản tuyên bố đó, các nhà lãnh đạo ASEAN
khẳng định mục tiêu hợp tác là bảo vệmôi trường khu vực ASEAN, duy
trì tính b ền vừng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao chất
lượng sống của con người trong khu vực. Bản tuyên bốcũng đềra các
biện pháp chung vềmôi trường, quyết định đưa các vấn đềmôi trường
vào nỗlực phát triển và vào nội dụng giảng dạy ởcác trường học trong
khu vực ASEAN.
Sau Tuyên bốManila, nhiều tuyên bốvềcác vấn đềmôi trường nói
chung và các vấn đềmôi trường cụthểnó riêng đã được thông qua như
Tuyên bốBangkok vềmôi trường (ngày 29/1l/1984); Tuyên bốASEAN
vềcác công viên di sản và khu bảo tồn (ngày 29/11/1984) Thỏa thuận
Kualalumpur vềmôi trường và phát triển ngày 19/6/1990).
357 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1715 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ebook Chiến lược phát triển của các nước Ðông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan trọng của việc nghiên cứu về văn hóa
môi trương với tư cách là nền tảng của cải cách giáo dục.
1
Culture in ASEAN and the 21st.Century, Ibid. p. 123
326
Để cải cách giáo dục, Ekavidya Nsthalang cho rằng cần phải nhìn lại toàn
bộ hệ thống giáo dục hiện nay và xác
định đúng những phẩm chất mà
chúng ta đang thiếu, những cái cần sửa chữa hoặc cần tăng thêm sức
sống.
Những gợi ý trên của các nhà khoa học đáng được các cơ quan vạch
chính sách ở các nước ASEAN 6 xem xét, cân nhắc trong quá trình hoạch
định đường lối cải cách giáo dục của nước họ trong những năm tới.
Kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực của các nước thành viên ban đầu đã
cung cấp cho các nước thành viên mới, trong đó có Việt Nam, những bài
học quý giá.. Từ thực tiễn của công tác giáo dục - đào tạo của mình trong
những năm qua và rút kinh nghiệm của các nước đi trước, trong đó có
kinh nghiệm của các nước ASEAN 6, Đảng và Nhà nước ta, vốn rất coi
trọng công tác giáo dục đào tạo, nay lại càng quan tâm tới lĩnh vực này
hơn nữa. Tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hỏi đất nước trong hoàn
cảnh các nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp, Đảng ta
đã nhận thức một cách sâu sắc rằng con người là nguồn lực nội lực quan
trọng nhất của nước ta.
Dân số Việt Nam hiện nay đã lên tới gần 77 triệu người, đứng thứ 13 trên
thế giới, thứ 7 trong số 42 nước châu Á - Thái Bình Dương, thứ hai trong
ASEAN Trong giai đoạn từ 1991 - 1995, tốc độ tăng trưởng dân số của
Việt Nam là 2% trong khi mức tăng trung bình của dân số thế giới là
1,5% và của các nước công nghiệp phát triển là 0,2%. Hàng năm, ở nước
ta có khoảng 1 triệu thanh niên tham gia vào lực lượng lao động. Năm
327
1995, cả nước có 35 triệu lao động, tăng 6,2 triệu so với 1990. Lao động
trẻ (từ 16 tới 35 tuổi) chiếm tới 65% nguồn nhân lực, 87% dân số Việt
Nam đã biết đọc, biết viết Trong số 35 triệu lao động, có 4,8% đã qua đào
tạo (chiếm trên 11 % tổng lực lượng lao động). Lao động Việt Nam được
đánh giá là có khả năng tiếp thu nhanh, để đào tạo và cần cù, chịu khó.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực của nước ta cũng có một số nhược điểm
không nhỏ.
Thứ nhất, có sự mất cân đối về trình độ cán bộ. Năm 1993, số người có
bằng đại học chiếm 1,5% dân số, trong khi đó 5,28% có bằng công nhân
kỹ thuật sơ cấp là trung học chuyên nghiệp.
Thứ hai, mất cân đối trong việc phân bổ cán bộ có trình độ giữa khu vực
sản xuất và phi sản xuất, giữa nông thôn và thành thị. Năm 1993, có tới
65,5% cán bộ có trình độ đại học làm việc trong khu vực phi sản xuất vật
chất. Khu vực quốc doanh thu hút đại đa số cán bộ có trình độ đại học
(95%). Cán bộ có trình độ chuyên môn cao cũng tập trung nhiều ở thành
phố và các đô thị lớn (59,5% cán bộ có trình độ cao đẳng và đại học,
42,8% cán bộ có trình độ trung cấp chuyên nghiệp).
Thứ ba, chất lượng lao động chưa cao. Phần lớn lao động hiện nay được
đào tạo từ thời bao cấp nên khả năng thích ứng với cơ chế thị trường còn
kém.
Nguồn nhân lực trên là rất quý giá, nhưng chưa thể là động lực chính để
328
phát triển của đất nước như chúng ta
mong đợi, nhất là trong thời đại
ngày nay, khi sự giàu có của một quốc gia được quyết định bởi sự giàu có
về tri thức của nước đó chứ không phải dựa vào nguồn tài nguyên thiên
nhiên và lao động cơ bắp như những thập niên trước. Một dân tộc nghèo
về tri thức, nhất là tri thức về kinh tế, thì dù cố gắng đến đâu cũng không
thể biến đất nước mình thành một quốc gia hùng cường. Với nhận thức
rằng: "Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học công nghệ đã trở thành nhân
tố quyết định sức mạnh và vi thế của mỗi quốc gia trên thế giới"1, Đảng
và Nhà nước ta đang làm hết sức mình để biến dân tộc ta thành một dân
tộc giàu tri thức. Ngay từ Đại hội VII (1991), Đảng đã khẳng định phát
triển giáo dục, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu của nước ta.
Vấn đề giáo dục-đào tạo và xây dựng nền công nghệ quốc gia đã được
thảo luận trong các Hội nghị Trung ương 4 và Hội nghị Trung ương 6,
khóa VII. Sau Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung
ương Đảng (tháng 12, 1996) đã được triệu tập để xem xét và đánh giá về
công tác giáo dục-đào tạo ở nước ta trong những năm qua và đề ra định
hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời đại công nghiệp
hóa và hiện đại hóa. Ở Hội nghị này, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
chỉ rõ: "Chúng ta chỉ có thể phát triển kinh tế xã hội lành manh và bền
vững bằng việc chăm lo phát triển giáo
d
ục với tốc độ nhanh hơn, chất
lượng tốt hơn, hiệu quả lớn hơn và đảm bảo công bằng xã hội trong giáo
dục và đào tạo". Do đó, "Phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản,
quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đất nước”
2
.
1
Trích phát biểu khai mạc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ hai (Khóa
VIII) của Tổng Bí thư Đỗ Mười. Xem: Văn kiện Hội nghị lần thứ 2, Ban chấp hành
trung ương khóa VIII. Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, !997, tr.5.
2
Tài liệu trên, tr 20
329
Để phát triển giáo dục, Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương
khóa VIII đã vạch ra "Định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa và nhiệm vụ tới năm
2000". Trong định hướng đó, Đảng ta chỉ rõ rằng nguồn nhân lực mà
nước ta cần phát triển là: "người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành
thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng và phát huy bởi một
nền giáo dục tiên tiến gắn liền với nền khoa học, công nghệ hiện đại".
Như vậy, mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta là đào tạo lực lượng
lao động có kỹ năng, chứ không phải là đào tạo nguồn lao động giản đơn,
chỉ thích hợp với các ngành công nghiệp tập trung lao động. Để có được
một nguồn nhân lực như vậy, Hội nghị Trung ương hai nhấn mạnh "Giáo
dục phải làm tốt nhiệm vụ đào tạo đội ngũ lao động cho khoa học công
nghệ". Những biện pháp được đề ra nhằm đạt tới mục tiêu trên là:
- Tạo điều kiện cho hầu hết trẻ em dưới 5 tuổi đều được học các
chương trình nhà trẻ, mẫu giáo chuẩn bị đủ sức cần thiết để vào các
trường tiểu học.
- Đảm bảo 60% trẻ em ở độ tuổi 11 - 15 tuổi được học hết các trường
cơ sở, 40% trong độ tuổi từ 16 tới 18 tuổi học hết phổ thông trung
học. Sau đó, cố gắng phân phối hợp lý số lượng học sinh tốt nghiệp
trung học vào đại học vào các trường trung cấp, các trường chuyên
nghiệp theo tỷ lệ 50/50.
- Phấn đấu đưa tỷ lệ lao động được đào tạo lên 20 - 25% trong tổng
1ực lượng lao động (hiện nay tỷ lệ này là 10% ).
- Thực hiện phổ cập tiểu học trong cả nước vào năm 2000, phổ cập
phổ thông cơ sở năm 2010 và phổ cập trung học vào năm 2020.
- Phấn đấu từ năm 2020 đưa quy mô giáo dục đạt mức tương đương
các nước phát triển trong khu vực.
330
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ
hai, khóa VIII của Đảng về công tác giáo dục-đào tạo, trong những năm
qua ngành giáo dục- đào tạo của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
đáng khích lệ. Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất
nước ở Kỷ nguyên toàn cầu hóa, cần tiến hành những cải cách sâu rộng
hơn nữa để nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay của nước ta.
Trên bình diện khu vực, ASEAN cũng quyết tâm đẩy mạnh hợp tác trong
việc đào tạo nguồn nhân lực. Trong Chương trình Hành động Hà Nội, các
nhà lãnh đạo
Hiệp hội dự định: "Củng cố mạng lưới các trường đại học
ASEAN và thúc đẩy quá trình chuyển mạng lưới này thành Trường đại
học ASEAN" và "củng cố hệ thống giáo dục ở các nước thành viên vào
năm 2001 để tất cả mọi tầng lớp nhân dân, kể cả những người bị thiệt
thòi, bình đẳng tiếp cận giáo dục cơ sở, đại cương và trung học. Ngoài ra,
ASEAN còn dự định thực hiện vào năm 2000 chương trình ASEAN về
nguồn nhân lực trong khoa học và công nghệ để giải quyết nhu cầu của
các ngành công nghiệp và giới kinh doanh...
Những biện pháp như vậy nhằm thiết lập một sự hợp tác chặt chẽ hơn
trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Điều này là hoàn toàn cần thiết và có ích
cho ASEAN nói chung và các nước thành viên nói riêng. Bởi vì, nó sẽ
giúp ASEAN tiến tới những tiêu chuẩn chung về giáo dục đào tạo, tiết
kiệm chi phí và đặt nền móng cho sự liên kết khu vức toàn diện và sâu
sắc hơn trong tương lai. Vì những mục đích trên, nên chăng thiết lập một
trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chung cho toàn ASEAN Những người
được đào tạo ở trung tâm này có thể được tuyển dụng làm việc ở bất cứ
nước ASEAN nào, nếu nước cử đi cho phép họ làm như vậy.
331
2.1.4 - Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng trong nước.
Ngoài việc dành ưu tiên cho phát triển nguồn nhân lực, ASEAN còn phải
nỗ lực phấn đấu để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nông thôn và
thành thị, nếu Hiệp hội này muốn nhìn thấy một ASEAN phát triển bền
vững trong những năm sắp tới. Bởi vì, sự phát. triển không đồng đều đã
và đang phá vỡ những cố gắng phát triển của nhiều nước ASEAN trong
những năm qua và gây nên tình trạng bất ổn định chính trị ở thột số nước
thành viên ASEAN.
Để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị trong mỗi
quốc gia, các nước ASEAN đang cố gắng phi tập trung hóa các cơ sở
công nghiệp tại thủ đô và các thành phố lớn bằng cách xây dựng những
trung tâm phát triển mới ở các vùng nông thôn hẻo lánh nhăm lôi cuốn
những vùng đó vào luồng phát triển chung của đất nước và tạo điều kiện
cho các dân tộc thiểu số sống ở các khu vực trên được chia sẻ các lợi ích
của sự phát triển. Chẳng hạn, ở Malaysia, chính phủ đã đề ra một kế
hoạch hành động nhằm phát triển Hành lang phía Đông để phát triển công
nghiệp tại các bang kém phát triển. Các vùng tăng trưởng đặc biệt đã
được xác định trong Hành lang bao gồm phát triển công nghiệp hóa dầu
tại Gebeng, Pahang, Kerteh và Trenganu. Kế hoạch phát triển bán đảo
Klias ở Sa ba sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng của bang này, nhất là của vùng
duyên hải phía Tây và các vùng phụ cận. Để triển khai kế hoạch phát
triển Hành lang phía Đông, chính phủ sẽ cung cấp kết cấu hạ tầng công
nghiệp như đường sá, điện, viễn thông, hải cảng... Ngân sách dành cho kế
hoạch phát triển trên lên tới 551 triệu Ringít.
332
Cùng với việc phát triển các cơ sở công nghiệp tại những vùng hẻo lánh,
các nước ASEAN còn có nhiều cố
gắng để phân phối một cách đồng đều
hơn các phúc lợi xã hội cho nhân dân ờ những vùng trên. Theo hướng
này, Chính phủ Thái Lan đã vay tiền của Ngân hàng phát triển châu Á và
Ngân hàng thế giới để lập ra Chương trình khu vực xã hội và Dự án đầu
tư xã hội. Chương trình được thực hiện trong bốn năm, với số vốn ban
đầu là 300 triệu USD, bao trùm lên các lĩnh vực sau: thị trường lao động,
phúc lợi xã hội, giáo dục và sức khỏe. Để triển khai Dự án đầu tư xã hội,
chính phủ đã lập ra Quỹ đầu tư xã hội (Social Investment Fund - SIF).
Quỹ có nhiệm vụ tài trợ cho các tổ chức đặt cơ sở trên cộng đồng để tiến
hành các hoạt động do các tổ chức đó vạch ra và thực hiện. Mực đích của
SIF là:
- Khôi phục nền kinh tế cộng đồng bằng một quá trình phi tập trung
hóa có khả năng tạo ra mối quan hệ đối tác giữa các cộng đồng phát
triển.
- Thúc đẩy khả năng quản lý giữa các xã hội dân sự và bộ máy hành
chính địa phương vì mục tiêu tự túc ở tầm dài hạn.
- Thúc đẩy và khuyến khích nền kinh tế tự túc.
- Khuyến khích quan hệ đối tác hoặc sự tham gia của cộng đồng
trong việc phát
triển xã hội bằng cách xây dựng các xã hội dân sự bền vững và một
sự quản lý tốt.
Quỹ được chia thành hai phần: Kênh I do các vụ của chính phủ quản lý
để tiến hành các công trình tạo việc làm. Vốn tài trợ của kênh này được
quản lý theo cách thông thường giống như các dự án được tài trợ của
333
nước
ngoài. Kênh tị bao gồm 150 triệu USD lại được chia thành hai phần:
một phần gọi là Quỹ phát triển khu vực thành thị (RUDP), với tổng số
vốn là 30 triệu USD. Quỹ này được sử dụng để cho chính quyền các
thành phố vay l20 triệu USD còn lại được gọi là Quỹ đầu tư xã hội (SIF).
Quỹ đó được dùng để tài trợ cho các tổ chức cộng đồng trên khắp đất
nước. Bộ Tài chính Thái Lan đã phân công cho Ngân hàng tiết kiệm của
chính phủ (GSB) thực hiện các dự án thuộc cả hai phần của Kênh II.
Ngân hàng tiết kiệm của chính phủ đã lập ra Văn phòng Quỹ xã hội
(SOFO) để quản lý cả RUDP và SIF.
Bắt đầu từ tháng 9-1998, SOFO đã bắt đầu nhận các dự án đầu tư của các
tổ chức cộng đồng. Ở Thái Lan, khái niệm "các tổ chức cộng đồng" được
diễn dịch một cách rộng rãi để bao gồm cả những nhóm cá nhân tồn tại ít
nhất một năm cho tới lúc gửi đơn xin tài trợ, được lôi cuốn vào các hoạt
động tập thể với kết quả khả thi. Nó cũng có thể bao gồm những tổ chức
chính thức hơn như Hội đồng xã, nhà thờ, chùa chiền, tu viện. Các dự án
của họ phải phù hợp với năm lĩnh vực sau:
a) Nâng cao năng lực về thể chất để phát triển kinh tế cộng đồng.
b) Sự thịnh vượng và an ninh cho cộng đồng.
c) Duy trì tài nguyên thiên nhiên, môi trường văn hóa
d) Phát triển nguồn lực con người cho các tổ chức cộng đồng hoặc các
mạng lưới
của họ.
e) Nâng cao năng lực cho mạng lưới các tổ chức cộng đồng.
Sau một năm chính thức hoạt động, SOFO đã nhận được 8.293 đơn xin
334
tài trợ, trong đó 1.626 dự án nhỏ đã nhận được tài trợ với tổng sổ tiền là
1.607 triệu bạt (tương đương 43 triệu USD). Các dự án nhỏ đó được phân
bổ khắp 75 tỉnh bao gồm 2000 làng được hưởng lợi từ các dự án trên.
Trong số các dự án đó, có 39,9% thuộc lĩnh vực (a); 21.5% thuộc lĩnh vực
(b); 20,3% thuộc lĩnh vực (d); 16,4% thuộc lĩnh vực (e).
Ở các nước ASEAN khác, chính phủ cũng đề ra nhiều chương trình nhằm
giảm bớt sự chênh lệch về phúc lợi xã hội giữa các vùng. Chương trình
Mạng lưới an sinh xã hội đang được thực hiện ở Indonesia hiện nay là
một ví dụ. Chương trình được triển khai từ 1998, có mục đích:
- Đảm bảo an toàn những thực- phẩm cơ bản cho người nghèo với
giá phù hợp.
- Tạo việc làm để tặng sức mua cho người nghèo.
- Cung cấp các dịch vụ giáo dục và y tế cho người nghèo.
- Tạo các hoạt động kinh tế ở cấp cộng đồng.
Tuy nhiên, trong năm hoạt động đầu tiên, chương trình đã không thu
được mấy kết quả do lựa chọn sai mục tiêu và các hoạt động trút kinh
nghiệm của năm trước,
chương trình Mạng lưới an sinh xã hội năm 2000
được tập trung vào năm lĩnh vực sau:
a) An ninh lương thực bao gồm các hoạt động cung cấp gạo giá rẻ,
phát triển chăn nuôi gia súc và nuôi tôm.
b) Giúp đó xã hội trong lĩnh vực giáo dục cấp học bổng, tài trợ cho các
trường phổ thông và đại học, đặc biệt là các trường tiểu học.
c) Tạo việc làm ở khu vực thành thị, đặc biệt là cho phụ nữ.
d) Tài trợ vốn cho các doanh nghiệp nhỏ.
335
Ở Philippines, những cố gắng xóa đói giảm nghèo cũng đang được xúc
tiến mạnh mẽ. Chẳng hạn, trong chiến lược phát triển được gọi là
"Philippines năm 2000", chính phủ nước này đã đề ra ba ưu tiên:
- Giảm nghèo đói báo gồm giảm nghèo tuyệt đối và tương đối.
- Tăng cường công ăn việc làm.
- Tăng cường hội nhập xã hội, tạo điều kiện cho các nhóm xã hội
khác nhau được sống trong sự hài hòa có tính chất hợp tác và tích
cực.
Việc thực hiện những chương trình như vậy đang góp phần thu hẹp dần
khoảng cách phát triển giữa các vùng, các khu vực khác nhau trong mỗi
nước ASEAN.
Với tư cách tổ chức hợp tác khu vực, ASEAN cũng đang tích cực hỗ trợ
cho những cố gắng phát triển đồng đều của các nước thành viên. Hiện
nay, Kế hoạch khung của ASEAN về phát triển nông thôn và xóa đói
giảm nghèo đang được thực hiện với sự giúp đỡ của UNDP. Chính phủ
Ốxtrâylia cũng dành cho các nước ASEAN những giúp đỡ đáng kể trong
nỗ lực nâng cao phúc lợi cho mọi tầng lớp xã hội của mỗi nước. Một
trong những ví dụ về sự giúp đỡ đó là Mạng lưới an sinh xã hội ASEAN -
Ốxtrâylia được chính thức triển khai từ tháng 5-2001.
Tuy nhiên, những cố gắng thực hiện công bằng xã hội của các nước
ASEAN sẽ không đưa lại kết quả mong đợi nếu không khắc phục được
tình trạng tham nhũng hối lộ ngày càng trầm trọng ở các nước này.
336
2.1.5 - Cải cách chính trị, hạn chế ảnh hưởng "chủ nghĩa tu bản thân
hữu”.
Tham nhũng hối lộ không phải là căn bệnh xã hội riêng của các nước
ASEAN mà là căn bệnh chung của tất cả các xã hội, đã phát triển hay
đang phát triển. Căn bệnh đó cũng không phải chỉ là sản phẩm của chủ
nghĩa tư bản mà đã có mặt trong chế độ phong kiến hàng ngàn năm về
trước. Ở các nước Đông Nam Á, cội nguồn của bệnh tham nhũng là chế
độ phong kiến chuyên chế và các quan hệ xã hội được chi phối bằng quan
hệ chủ - khách (patron - client), quan hệ giữa người bảo hộ và người được
bảo hộ. Khi các nước thực dân châu Âu tới xâm lược Đông Nam Á và
thiết lập ách cai trị thuộc địa ở các nước này, họ đã không xóa bỏ các
quan hệ xã hội phong kiến tồn tại ở đây mà lại tìm cách lợi dụng những
quan hệ đó để phục vụ cho nền thống trị của họ. Những gốc rễ của nạn
tham nhũng đã không hề bị xóa bỏ cả khi các nước ASEAN đã giành
được độc lập. Các đảng phái, các người hùng chính trị đã tìm cách duy trì
chúng để làm lợi cho mình. Điều này thể hiện đặc biệt rõ trong nền chính
trị Thái Lan hiện đại. Để trở thành những “người hùng" chính trị, một
quan chức Thái Lan, với sự ủng hộ của một số tập đoàn kinh tế, sẽ đứng
ra lập một chính đảng. Phần lớn những chính đảng đó đều chỉ là các phe
nhóm chính trị, không có cương lĩnh rõ ràng và cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
Chính đảng này có thể đăng ký tham gia vào các cuộc bầu cứ ở bất kỳ cấp
nào, nếu họ muốn. Để có tiền vận động bầu cử, các chính khách phải dựa
vào sự ủng hộ tài chính của các tập đoàn kinh tế lớn, kể cả các tập đoàn
nước ngoài. Về phần mình, các tập đoàn kinh tế cũng cần tới sự che chắn
bảo vệ và những hợp đồng kinh tế béo bở của chính phủ. Do đó, họ sẵn
sàng rút hầu bao, nếu thấy ứng cứ viên mà họ ủng hộ có triển vọng. Khi
đã thu gom được tiền của các tập đoàn kinh tế, các chính khách sẽ tìm
cách mua phiếu bầu của cử tri. Hiện tượng mua phiếu bầu là một hiện
tượng rất phổ biến ở Thái Lan và nhiều nước ASEAN khác. Nhận xét về
337
tình trạng gian lận trong bầu cứ ở Thái Lan, Tạp chí "Những vấn đề đối
ngoại" số ra tháng 9 và 10-1998 đã viết: "…các chính trị gia thường vay
tiền để mua phiếu. Sau khi thắng cứ giành một chức trong nội các rồi tìm
cách trả nợ chính trị của mình bằng quỹ đen. Khoảng 20 tỷ bạt (800 triệu
USD) đã được huy động vào cuộc bầu cử 11/1996". Chính mối quan hệ
cộng sinh giữa chính trị và giới tài chính" là nguồn gốc của cải gọi là
"chủ nghĩa tư bản thân hữu" ở Thái Lan và nhiều nước ASEAN khác "Sự
pha trộn giữa hoạt động tài chính và chính trị đã góp phần làm suy yếu
nền kinh tế Thái Lan" và làm cho nhân dân mất niềm tin vào chính phủ.
"Công chúng Thái Lan nhìn các chính khách như những người bị điều
khiển bởi sự ích kỷ, thiếu trung thực, lạm đụng quyền lực và tham nhũng.
Các chính khách đã lợi dụng địa vị của họ để kinh doanh và giành lấy
độc quyền... Sự vắng mặt của những khác biệt về tư tưởng và chính sách
giữa các đảng phái chính trị đã làm cho nền chính trị Thái Lan trở thành
không gì khác hơn là một trò chơi giành quyền lực”1. Tình hình tương tự
cũng diễn ra ở nhiều nước ASEAN khác.
Tiếp tục duy trì những nền chính trị như vậy thực chất là duy trì những
bất công xã hội, là để cho tiền của đất nước, của những người đóng thuế
tiếp tục chảy vào túi bọn quan liêu, tham nhũng.
Nhận thức được điều đó, chính phủ nhiều nước ASEAN, đặc biệt là Thái
Lan và Indonesia đang xúc tiến nhiều biện pháp quyết liệt nhằm xóa bỏ
dần chủ nghĩa "tư bản thân hữu”, nguồn gốc của nạn tham ô, hối lộ ở
nước họ.
Ngay sau khi trở thành Thủ tướng Thái Lan, ông Chuan Leekpai đã tiến
1
Asian Survey, vol. XL, N.o, January/ February 2000, P.93
338
hành nhiều biện pháp cải cách hệ thống chính trị ở nước ông. Hiến pháp
1997 là một trong những biển pháp đó. Hiến pháp mới được thiết kế
nhằm làm cho Thượng viện của Quốc hội gồm hai viện của Thái Lan trở
thành một cơ quan trung lập về chính trị và trong sạch về đạo đức. Các
thượng nghị sĩ không được phép có quan hệ với bất kỳ đảng phái chính trị
nào, phải có độ tuổi trên 40 và có ít nhất là bằng cử nhân. Các thành viên
của Thượng viện cũng phải do dân cử thông qua bầu cử chứ không phải
đo chỉ định như trước.
Với mục đích làm cho các cuộc bầu cử của Thái Lan trở thành những
cuộc bầu cử trong sạch phản ánh đúng ý nguyện của nhân dân; trong Hiến
pháp 1997, Thái Lan đã lập ra một cơ quan phụ trách các công việc liên
quan tới bầu cử gói là Cơ quan bầu cử quốc gia (NEC). NEC có quyền
tuyên bố không đủ tư cách đối Với bất kỳ thành viên Thượng viện hoặc
Hạ viện nào, nếu phát hiện thấy các bằng chứng phạm tội gian lận bầu cử
Và Vận động chính trị.
Hiến pháp mới cũng trao quyền nhiều hơn cho nhân dân. Theo Hiến pháp
1997, một số cơ quan mới đã được thành lập như hệ thống Tòa án hành
chính, Luật Thông tin chính thức và Uỷ ban chống thám nhũng quốc gia
(NCCC), Văn phòng Thanh tra. Mục đích thành lập các cơ quan Ôn là tạo
điều kiện cho nhân dân tham gia nhiều hơn vào việc kiểm soát các công
việc của chính
phủ và bộ máy quan liêu. Những cơ quan trên đã được trao
những quyền lực đáng kể. Chẳng hạn, trong năm 1999, chín thành viên
của NCCC đã được trao quyền để kiểm tra về những lời tố cáo tham
nhũng và xem xét tài sản của các chính trị gia và các quan chức chính phủ
Những kết quả điều tra của NCCC đã được trình lên Thượng viện.
339
Mặc dù, cuộc đấu tranh nhằm làm trong sạch bộ máy nhà nước của Thủ
tướng Chuan Leekpai còn chưa mang lại những kết quả chờ đợi, nhưng
nó đã góp phần lấy lại niềm tin của nhân dân Thái Lan và của các nhà đầu
tư nước ngoài khuyến khích họ mạnh dạn bỏ vốn vào nền kinh tế nước
này.
Cuộc đấu tranh chống "chủ nghĩa tư bản thân hữu” ở Indonesia gặp nhiều
khó khăn, phức tạp hơn: Bởi vì, chế độ độc tài quân sự đã kéo dài liên tục
suốt 30 năm. Trong 30 năm đó, "chủ nghĩa tư bản thân hữu” ở nước này
đã xây dựng được những gốc rễ khá bền chắc, không dễ gì phá nổi. Khi
mới lên cầm quyền (5/1998), do sức ép của các lực lượng dân chủ, Tổng
thống Habibi đã tiến hành một số biện pháp nhằm tước bỏ bớt thế lực của
gia tộc Xuháctô và dân chủ hóa đời sống chính trị của đất nước. Kết quả
của những cố gắng đó là cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên được tiến hành ở
Indonesia vào ngày 7/6/1999, 44 năm sau kể từ khi cuộc bầu cử dân chủ
đầu tiên được tổ chức vào 1955.
Để thanh toán nạn tham nhũng một cách triệt để, thì chỉ việc xóa bỏ
những cơ đế làm nảy sinh thám nhũng còn chưa đủ. Các nước ASEAN
cần cố găng nâng cao trình độ dân trí nói chung và trình độ hiểu biết pháp
luật của nhân dân nói riêng. Sự hiểu biết về pháp luật sẽ giúp nhân dân
lao động tìm đến sự giúp đỡ của luật pháp nhiều hơn là trông cậy vào sự
bảo lãnh được mua bằng tiền của các quan chức chính phủ bị tha hóa.
2.1.6 - Những cố gắng thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước
thành viên cũ và mới
340
Để phát triển bền vững ASEAN còn phải phấn đấu để giảm bớt sự chênh
lệch về trình độ phát triển giữa các nước thành viên, đặc biệt là giữa các
nước thành viên cũ và các nước thành viên mới. Một ASEAN phát triển
đồng đều còn là nhà nhân tố quan trọng đảm bảo hòa bình và an ninh khu
vực. Nhận thức được điều đó, Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 34 tổ
chức tại Hà Nội (từ ngày 23 tới ngày 25/7/2001) đã tập trung thảo luận
các biện pháp nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành
viên. Kết quả thảo luận đã đưa tới "Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng
cách phát triển nhằm tăng cường liên kết ASEAN". Trong bản Tuyên bố
trên, các nhà lãnh đạo ASEAN đã bày tỏ "quyết tâm thúc đẩy hợp tác có
hiệu quả và giúp đỡ lẫn nhau thông
qua các nỗ lực chung nhằm thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN"1.
Để thực hiện hóa quyết tâm trên, ASEAN cam kết dành nguồn lực đặc
biệt để thúc đẩy sự phát triển của Campuchia, Lào, Mianmar và Việt
Nam. Sự trợ giúp của ASEAN cho các nước trên được ưu tiên cho ba lĩnh
vực sau: Phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ thông tin
và viễn thông. Sở dĩ những lĩnh vực trên được đặt ở vị trí ưu tiên vì đây
chính là những khâu yếu nhất của các nền kinh tế mới của Hiệp hội. Đẩy
nhanh sự phát triển các lĩnh vực trên, chẳng những ASEAN có thể gắn
kết, Campuchia, Lào, Mianmar và Việt Nam (CCLMV) vấn các nước
thành viên cũ một cách chặt chẽ hơn nhờ hệ thống giao thông xuyên
Đông Nam Á mà còn tạo điều kiện cho họ nâng cao khả năng tiếp thu
công nghệ và xây dựng cơ sở cho việc chuyển sang xây đựng nền kinh tế
tri thức, vẫn được xem là con đường ngắn nhất để đuổi kịp trình độ phát
triển của các nước thành viên cũ.
1
Trích Tuyên bố Hà Nội về “thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm tăng cường liên kết ASEAN". Xem:
Tuần báo Quốc tế Số từ 26/7 đến 1/8/2001 . tr. 5
341
Với mục đích như vậy, trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, cố gắng của
ASEAN được tập trung vào phát triển và thực hiện các dự án xây dựng hệ
thống đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, việc đi lại của
mọi người dân
và tăng thu nhập cho họ. Ngoài ra, ASEAN còn dự định triển khai nhanh
mạng lưới năng lượng xuyên ASEAN bao gồm dự án mạng lưới điện
ASEAN và dự án đường dẫn khí đốt xuyên ASEAN Những dự án này sẽ
góp phần bảo đảm sự an toàn và bền vững của các nguồn cung cấp năng
lượng trong nội bộ ASEAN.
Về phát triển nguồn nhân lực: Với quan điểm cho rằng phát triển nguồn
nhân lực là chìa khóa cho tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội và thành đạt
của con người bên cạnh sự giúp đỡ của một số nước thành viên cũ cho
các nước thành viên mới trên cơ số song phương, với tư cách là tổ chức
hợp tác khu vực, ASEAN dự kiến thiết lập và tăng cường các cơ sở, các
chương trình đào tạo tại các nước thành viên mới và liên kết với các cơ
sở, các chương trình đào tạo ở các nước thành viên khác vì mục tiêu hỗ
trợ lẩn nhau. Ngoài ra, ASEAN còn khuyến khích việc nâng cao khả năng
sử dụng tiếng Anh, thiết lập các tiêu chuẩn, các lộ trình trong lĩnh vực
giáo dục nhằm bảo đảm sự phát triển các kỹ năng và nhận thức của nhận
dân mà nền kinh tế tri thức và thời đại thông tin đòi hỏi. Bên cạnh những
dự kiến trên, việc giúp đỡ đào tạo công chức cho các nước thành viên mới
cũng được đưa vào chương trình nghị sự của Hiệp hội trong những năm
sắp tới.
Trong quan điểm của ASEAN, công nghệ thông tin và viển thông ICT) là
"một công cụ quan trọng nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển và khoảng
342
cách kỹ thuật số trong từng nước và giữa các nước thành viên cũng như
giữa ASEAN và các khu vực khác trên thế giới"1. Vì thế, trong Tuyên bố
Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, ASEAN tiếp tục khẳng định
coi trọng việc thúc đẩy phát triển và sử dụng ICT để tăng thu nhập cho
người dân, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, cải thiện hệ thống giáo dục
công cộng, tăng cường phúc lợi của y tế công cộng và chăm sóc sức khoẻ
cho người nghèo. Theo hướng này, ASEAN sẽ sớm triển khai Hiệp định
khung về ASEAN điện tử và sáng kiến Vành đai công nghệ thông tin
châu á (Asian IT Ben). Việc phổ biến và sử dụng rộng rãi các hàng hóa và
dịch vụ ICT không đắt tiền, thúc đẩy thương mại điện tử trong khu vực
cũng được Hiệp hội coi trọng. Đó là lý do giải thích vì sao ASEAN mong
muốn đẩy nhanh tự do hóa và khuyến khích thương mại và đầu tư trọng
lĩnh vực IIT.
Cùng với việc giúp đỡ các nước thành viên mới rút ngắn khoảng cách
phát triển với các nước thành viên cũ, ASEAN còn quan tâm tới việc hỗ
trợ cho Việt Nam, Lào; Cạmpuchia và Mianmar trong quá trình tham gia
vào hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Vì mục đích này, các Bộ trưởng
Kinh tế ASEAN đã quyết định mở rộng quy chế đối xử ưu đãi mà sáu
nước thành viên ASEAN cũ dành cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước
thành viên mới trên cơ sở song phương. Với tư cách Hiệp hội, ASEAN
kêu gọi nỗ lực của mỗi nước thành
viên để hoàn thiện những thủ tục cần
thiết nhằm thực hiện Hiệp định khung ASEAN về hàng hóa quá cảnh để
tạo điều kiện thuận lợi và giảm giá thành vận tải trên bộ ở khu vực Đông
Nam Á. Ngoài ra, ASEAN còn bày tỏ mong muốn sớm ký kết các thỏa
thuận của ASEAN về vận tải đa phương thức và vận tải liên quốc gia.
Việc mở rộng các dịch vụ có hiệu quả hơn nữa về hàng không trong khu
1
Trích: Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách…Tài liệu đã dẫn, tr.5
343
vực để tạo thuận lợi cho vận chuyển người và hàng hóa cũng được
ASEAN quan tâm. Bởi vì, điều đó sẽ giúp tăng cường hội nhập khu vực,
thúc đẩy giao dịch thương mại và sự giao lưu của nhân dân các nước
trong khu vực kích thích các hoạt động kinh tế và tăng trưởng. Theo tinh
thần trên, ASEAN khẳng định quyết tâm thực hiện chính sách dịch vụ
Hàng không cạnh tranh để tiến dần tới chính sách bầu trời mở trong khu
vực.
Việc thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước thành viên cũ còn phụ
thuộc vào sự tham gia của họ vào các quá trình liên kết kinh tế khu vực
và quốc tế khác. Với nhận thức như vậy, ASEAN kêu gọi các nước thành
viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thúc đẩy nhanh quá trình gia
nhập WTO của Campuchia, Lào và Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho
những nước này hướng quyền lợi đầy đủ hơn trong hệ thống thương mại
đa phương của thị trường thế giới.
Trong số 4 nước thành viên mới, cho tới hiện nay chỉ Việt Nam có cơ hội
tham gia vào tiến trình kinh tế châu á Thái Bình Dương (APEC ) và hợp
tác Á-Âu (ASEM). Ba nước còn lại hiện còn đứng ngoài các tiến trình
trên. Điều này khiến cho Lào, Campuchia và Mianmar không thể khai
thác được các cơ hội mà APEC và ASEM có thể đưa lại cho họ. Vì thế,
trong Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, ASEAN cam
kết: "Tăng cường các nỗ lực chung nhằm tạo điều kiện cho Campuchia,
Lào và Mianmar tham gia các nhóm làm việc của APEC và ASEM để các
nước này sớm trở thành thành viên đầy đủ của các diễn đàn này"1.
1
1
Trích: Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách…Tài liệu đã dẫn, tr.5
344
Bên cạnh các biện pháp trên, trong Chương trình Hành động Hà Nội cũng
như trong Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, ASEAN
còn chủ trương tiếp tục xây dựng các vùng tăng trưởng để rút ngắn
khoảng cách phát triển giữa các nước, xóa đói, giảm nghèo và giảm thiểu
sự cách biệt về kinh tế - xã hội trong khu vực.
Cho tới nay, ASEAN đã xây dựng được một số tam giác tăng trưởng
trong đó thành công nhất là Tam giác tăng trưởng phía Nam bao gồm
Singapore, tỉnh Johor của Malaysia và tỉnh Riau của Indonesia. Tam giác
này được xây dựng vào tháng 10/1989 theo sáng kiến của Phó Thủ tướng
thứ nhất Singapore lúc đó là ông Gôchốctông. Tam giác tăng trưởng phía
Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong hợp tác phát triển Khu
công nghiệp Batam do Indonesia và Singapore hợp
tác xây dựng nằm
trong khu tam giác này đã có nhiều xí nghiệp độc lập và liên doanh, trong
đó hơn 30 xí nghiệp đã đi vào hoạt động.
Tam giác tăng trưởng thứ hai được gọi là Tam giác tăng trưởng phía Bắc,
bao trùm lên các tỉnh Phu két ở phía Nam Thái Lan, các tỉnh Peris,
Kedah, Butterworth. và Perak của Malaysia, một số đảo thuộc Xumatra
của Indonesia. Tổng số dân cư của Tam giác tăng trưởng này lên tới 25
triệu người. Đây là một Tam giác tăng trưởng có nhiều triển vọng phát
triển do nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí nằm ở Trung
tâm Đông Nam Á.
Ngoài hai tam giác tăng trưởng trên, ASEAN còn xây dựng các vùng tăng
trưởng khác như Tứ giác tăng trưởng phía Đông. Tứ giác tăng trưởng này
được xây dựng theo sáng kiến của Tổng thống Philippines Phiđen Ramốt
345
từ tháng 9/1993 và bao gồm đảo Minđanao của Philippines, vùng phía
Đông các bang Saba và Sasawark của Malaysia, Brunây và một số đảo
của Indonesia thuộc Sulavesi và Kalimantan. Đây là vùng rất giàu tài
nguyên khoáng sản và nguồn nhân lực. Những nước tham gia vào vùng
tăng trưởng này đã nhất trí đẩy mạnh hợp tác với nhau trong các lĩnh vực
thương mại, đầu tư du lịch, nông nghiệp, năng lượng, giao thông vận tải.
Nếu hoạt động tốt, Tứ giác tăng trưởng phía Đông sẽ góp phần đẩy nhanh
sự phát triển của những vùng nghèo nhất của ba nước thành viên là
Indonesia, Malaysia và Philippines.
Hợp tác phát triển dưới hình thức các tam, tứ giác tăng trưởng là một hình
thức hợp tác năng động và hiệu quả. Nó giúp khai thác được những lợi
thế so sánh của các bên tham gia và làm cho quá trình phân công lại lao
động trong khu vực trở nên hợp lý hơn. Những tam, tứ giác tăng trưởng
hiện tại đã trở thành địa bàn đầu tư hấp dẫn của các nhà đầu tư nước
ngoài và bổ sung cho hợp tác khu vực của ASEAN.
Ngoài lợi ích kinh tế, các tam, tứ giác tăng trưởng trên còn tạo điều kiện
cho nhân dân các nước trong vùng tăng cường. giao lưu với nhau. Trên cơ
sở đó, những tình cảm khu vực sẽ nẩy mầm và phát triển. Chính những
tình cảm này mới là chất keo gắn kết lâu bền các nước trong khu vực với
nhau.
Tuy nhiên, để các tam, tứ giác tăng trường có sức sống, các nước tham
gia cần cố gắng làm cho sự hợp tác đó thật sự trở thành hợp tác ba bên,
hợp tác bốn bên, chứ không phải là hợp tác song phương trong thực tế
như tình trạng đang diễn ra ở Tam giác tăng trưởng phía Nam như hiện
346
nay.
Trong những năm gần đây, ASEAN đặc biệt chú ý tới việc phát triển Tiểu
vùng Mê Công, một khu vực không chỉ có tầm quan trọng về chiến lược
mà còn rất giàu tiềm năng phát triển kinh tế. Tiểu vùng Mê Công hay còn
gọi là Tiểu vùng Mê Công mở rộng là một vùng lãnh thổ bao trùm lên
một phần lãnh thổ của năm quốc gia thuộc lưu vực Mê Công: Việt Nam,
Lào, Campuchia Thái Lan, Mianmar và tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Khu
vực này có diện tích rộng chừng 2,23 triệu km2, trong đó 1/3 là lưu vực
Mê Công. Dân số tiểu vùng vào năm 1988 là 250 triệu người. Thu nhập
bình quân theo đầu người của cả tiểu vùng năm 1944 vào khoảng 80.7
USD. Nhưng nếu trừ Thái Lan, mức bình quân đầu người chỉ còn 235
USD
1
.
Do vị trí địa lý quan trọng và tiềm năng phát triển của nó, cho tới nay đã
có 6 chương trình và dự án phát triển Tiểu vùng. Chương trình Hợp tác
phát triển vùng lưu vực Mê Công là chương trình của ASEAN. Chương
trình được thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ V, tổ chức ở
Bạngkok tháng l2/1995. Mục đích của Chương trình là tạo nên một sự
phát triển bền vững và lôi cuốn các vùng kém phát triển của các nước
thành viên vào luồng phát triển chung của khu vực, xóa dần khoảng cách
phát triển giữa ASEAN 6 và ASEAN 4. Trong kế hoạch phát triển tiểu
vùng Mê Công, ASEAN đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng kết cấu hạ
tầng, vốn còn kém phát triển ở vùng này. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN
V, Malaysia và Singapore đã đề xuất sáng kiến xây dựng tuyến đường sắt
1
Những số liệu về kinh tế xã hội cũ Tiểu vùng Mê Công dùng ở đây, dược dẫn theo TS. Nguyễn Trần
Quế, trong báo cáo: "Một số vấn đề hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công". Bài trình bày tại Hội theo quốc
gia: "Chương trình Hành động Hà nội - Sáng kiến từ Việt Nam" do Viện nghiên cứu Đông Nam Á tổ
chức, tháng 9/1998.
347
Singapore - Côn Minh. Mục đích của việc xây dựng tuyến đường này là
tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ kinh tế, văn hóa giữa các nước ASEAN và
Trung Quốc.
Hợp tác phát triển nông – lâm nghiệp là một lĩnh vực quan trọng khác của
hợp tác tiểu vùng Mê Công. Cho tới nay, 12 dự án hợp tác đã được vạch
ra trong lĩnh vực này, trong đó có dự án khu vực rừng mẫu về quản lý bền
vững khu vực tiểu vùng Mê Công; phát triển nguồn nhân lực và xây dựng
hệ thống thông tin quản lý rừng tổng hợp; mạng lưới kiểm dịch động vật
vùng lưu vực Mê Công; dự án thành lập trung tâm đào tạo cơ giới hóa
nông nghiệp; thiết lập trung tâm hạt giống trong các nước được lựa chọn
thuộc lưu vực Mê Công; khảo sát đa dạng sinh học và tiềm năng kinh tế
về cá ở lưu vực Mê Công…
Nhằm thúc đẩy Hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng, trong Tuyên bố Hà
Nội tháng 7/2001, ASEAN dự kiến sẽ tổ chức một cuộc hội thảo tại
Campuchia để “Xây dựng một chương trình toàn diện và chặt chẽ cho kế
hoạch hợp tác phát triển sông Mê Công, đặc biệt là để hội nhập các nuớc
CLMC vào xu thế phát triển kinh tế chung của ASEAN. Các nhà lãnh đạo
Hiệp hội này cũng ủng hộ việc triệu tập một hội nghị ở Brunây
Daruxalam về “Hỗ trợ Liên kết Khu vực thông quan các Tiểu vùng, khu
vực/ Nhóm tăng trưởng như là BIMP-EAGA, IMS-GT, IMT-GT và tiểu
vùng Mê Công mở rộng”.
Hợp tác phát triển tiểu vùng Mê Công mới chỉ bắt đầu và đang thu hút
được sự chú ý của nhiều nước và tổ chức tài chính quốc tế, đặc biệt là
Nhật Bản. Vào năm 1993, Nhật Bản đã đưa ra sáng kiến tổ chức diễn đàn
phát triển toàn diện Đông Dương. Hội nghị lần thứ nhất của diễn đàn, tổ
348
chức ở Tokyo 2/1995, đã thu hút sự tham gia của 25 nước và tám tổ chức
quốc tế. Hội nghị đã xác định mục tiêu phát triển toàn điện Đông Dương
bao gồm:
- Phát triển các nước Đông Dương dựa trên triển vọng của khu vực.
- Hợp tác quốc trế trên cơ sở trao đổi thông tin giữa các quốc gia.
- Thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường.
Trong hợp tác phát triển toàn diện Đông Dương, việc phát triển kết cấu hạ
tầng và phát triển nguồn nhân lực thích ứng với kinh tế thị trường được
xem là các vấn đề cấp bách, cần được ưu tiên. Theo hướng đó, chính phủ
Nhật Bản, thông qua Ngân hàng phát triển châu Á, đang dành cho các
nước Đông Dương nhiều khoản vay ưu đãi để phát triển kinh tế nói chung
và tham gia vào hợp tác tiểu vùng nói riêng.
Việc tham gia của các nước đối tác vào các chương trình phát triển của
ASEAN trong đó có hợp tác Tiểu vùng Mê Công đang tạo điều kiện
thuận lợi cho ASEAN triển khai các dự án phát triển của mình. Tuy
nhiên, để đạt được mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước
thành viên cũ và mới, ASEAN và các bên có liên quan cần chú ý phân
phối một cách đồng đều các dự án phát triển giữa các nước tham gia.
Trong những chừng mực có thể, nên dành ưu tiên hơn cho các nước thành
viên mới. Việc các nước ASSAN 4 sớm rút ngắn được khoảng cách phát
triển của họ với các nước ASEAN 6 không chỉ có lợi cho bản thân họ mà
còn có lợi cho cả các nước phát triển cao hơn trong Hiệp hội. Bởi vì, khi
kinh tế phát triển, Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianmar sẽ góp phần
không nhỏ vào việc mở rộng thị trường khu vực cho hàng hóa xuất khẩu
của ASEAN 6.
349
Tuy nhiên, để xây dựng một ASEAN phát triển đồng đều thì chỉ những
nỗ lực chung của toàn Hiệp hội và sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế còn
chưa đủ. Liệu ASEAN có thể hiện thực hóa đước mục tiêu cao đẹp đó
hay không tùy thuộc chủ yếu vào nỗ lực của mỗi nước thành viên, đặc
biệt là các nước thành viên mới, trong đó có Việt Nam.
Là một nước thành viên mới, có trình độ phát triển vào loại thấp trong
Hiệp hội, Việt nam có lợi ích to lớn trong một ASEAN phát triển bền
vừng và đồng đều. Trong quá trình xây dựng một ASEAN như vậy, nước
ta đã có những đóng góp nhất định. Sáng kiến của Việt Nam về hợp tác
phát triển các vùng nghèo liên quốc gia dọc hành lang Đông Tây thuộc
vực Mê Công nằm trên lãnh thổ Việt Nam, Lào, Campuchia và Đông Bắc
Thái Lan đã được Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ VI (tháng 12/1998)
chấp nhận và đưa vào Chương trình hành động Hà Nội. Mục đích của
sáng kiến đó là xóa đói giảm nghèo thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các nước và các vùng trong Hiệp hội. Nội dung hợp tác bao gồm 5 lĩnh
vực: giao thông, vận tải, bưu chính, viễn thông; đầu tư khai thác và sử
dụng tài nguyên; thương mại và dịch vụ; du: lịch, hợp tác lao động và
giáo lưu văn hóa; môi trường và xã hội. Triển khai quyết định trên của
Hội nghị cấp cạo ASEAN lần thứ VI, nước ta đã xây dựng Dự án phát
triển hành lang Đông Tây tại khu vực Mê Công). Hội nghị bộ trưởng
kinh tế ASEAN tổ chức tại Singapore tháng 9/1999 đã tán thành đề nghị
lập Nhóm công tác về Chương trình tròng khuôn khổ Uỷ ban hợp tác kinh
tế và công nghiệp ASEAN - MITI (Nhật Bản). Với tư cách là nước đề
xướng sang kiến, Việt Nam được cử làm Chủ tịch nhóm và chủ trì cuộc
họp đầu tiên của nhóm trong thời gian tới.
350
Sáng kiến WEC của nước ta đã được các nước liên quan như Thái Lan,
Lào ủng hộ và các nhà tài trợ quốc tế: Ngân hàng phát triển châu Á, Ủy
ban kinh tế xã hội châu Á - Thái Bình Dương ESCAP); chương trình phát
triển của Liên hợp quốc UNDP) và Chính phủ Nhật Bản quan tâm. Khi
Dự án phát triển Hành láng Đông Tây do Việt Nam đề xuất được triển
khai, những lợi thế về kính tế của miền trung nước ta (các cảng nước sâu,
các tuyến đường bộ nối Tây Nguyên với các nước láng giềng phía Tây,
nhất là Lào) - sẽ được khai thác và đưa lại lợi ích phát triển cho nhân dân
các dân tộc đang sinh sống ở khu vực còn nhiều khó khăn này.
Tại các nước thành viên mới khác, nhiều chương trình nhiều dự án phát
triển kinh tế - xã hội cũng đang được triển khai nhằm góp phần xây dựng
một ASEAN phát triển đồng đều trong thế kỷ XXI.
2.1.7 - Phục hồi nguồn tài nguyên thiện nhiên, bảo vệ môi trường sinh
thái
Một sự phát triển bền vững sẽ không thế có, nếu các vấn đề môi trường
sinh thái trầm trọng hiện nay trong khu vực chúng ta không được sớm
khắc phục. Các nước ASEAN đều nhận thấy điều đó và họ đã có nhiều cố
gắng để phục hồi nguồn tài nguyên thiên nhiên và giải quyết tình trạng ô
nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái ở mỗi nước hiện nay. Ở Thái
Lan, ngay trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ VII
(1992-1996), chính phủ đã chủ trương “phát triển chất lượng môi trường
song song với phát triển kinh tế xã hội". Thực hiện chủ trương đó, chính
phủ đã đề ra hàng loạt biện pháp như: hoàn thiện tổ chức, và trò và khuôn
khổ pháp lý cho các cộng tác bảo vệ môi trường để nâng cao hiệu quả
việc quản lý môi trường; huy động vốn đầu tư để giảm và kiểm soát ô
351
nhiễm dưới nhiều hình thức; cải thiện hệ thống quản lý tài nguyên thiên
nhiên; khuyến khích nhân dân phối hợp với chính phủ trong việc bảo tồn
tài nguyên thiên nhiên. Việc thực hiện những biện pháp đó đã bước đầu
đưa lại kết quả đáng khích lệ. Trong những năm gần đây tình trạng ô
nhiễm môi trường ở Bangkok và các thành phố lớn đã giảm xuống.
Ở Malaysia, việc khắc phục những vấn đề môi trường được tiến hành một
cách bài bản hơn và do đó có hiệu quả hơn. Trong những năm sắp tớí
những cố gắng sẽ được tiếp tục để giải quyết tình trạng xuống cấp của
môi trường và nâng cao việc sử dụng bền vững tài nguyên mà không làm
ảnh hưởng tới năng suất và tăng trưởng. Theo hướng này, Chính phủ
Malaysia đặc biệt coi trọng việc tăng cao ý thức môi trường cho công dân
của mình: Vụ Môi trường Malaysia đã được giao soạn thảo Kế hoạch về
ý thức môi trường. Kế hoạch đó đề cập tới mọi phương diện của môi
trường nhằm tạo ra một xã hội thân hữu tới môi trường. Ngoài ra, Bộ giáo
dục còn đưa việc giảng dạy về môi trương vào các trường sư phạm nhằm
giúp cho các giáo viên tương lai có khả năng giảng dạy môi trường cho
học sinh, sinh viên.
Theo quyết định của chính phủ, tháng 9/1997, Trung tâm nghiên cứu sức
khoẻ môi trường đã được thành lập. Trung tâm có nhiệm vụ khuyến khích
những cố gắng hướng tới một môi trường khỏe khoắn bằng cách xác
định, đánh giả và quản lý các ván đề về sức khỏe môi trường và tiến hành
các nghiên cứu sâu. về các vấn đề trên. Ngoài ra, nhận thức được sự cần
thiết phải tăng cường cơ sở khoa học cho việc ra các quyết định hướng tới
một sự phát triển bền vững về môi trường, Cục Thống kê Malaysia đã xây
dựng một khung về phát triển các số liệu thống kê và một bản trích yếu
thống kê về môi trường.
352
Malaysia là một trong 12 nước được thế giới thừa nhận là cực kỳ đa dạng
về sinh học. Để bảo vệ và duy trì sự giàu có về đa dạng sinh học của
mình, tháng 4/1998, Chính phủ Malaysia đã ban bố Chính sách đa dạng
sinh học quốc gia. Malaysia đã bắt đầu thực hiện Chính sách đa dạng sinh
học, đặc biệt là ở khu vực Tabin và Hạ Kinabatangan. Chiến lược này
được xem như một bước tiến tới quản lý một cách bền vững nguồn tài
nguyên thiên nhiên của bang Saba nói riêng và của Malaysia nói chung.
Bên cạnh những biện pháp quản lý vĩ mô về môi trường, Malaysia còn
tiến hành nhiều biện pháp nhằm quản lý tài nguyên nước, tài nguyên đất
và các loại tài nguyên khác. Những biện pháp đó, nếu được thực hiện tốt,
sẽ giúp Malaysia hiện thực hoá được mục tiêu phát triển bền vững của họ.
Những vấn đề môi trường của Indonesia cũng tương tự như vấn đề môi
trường ở các nước ASEAN khác. Tuy nhiên, do thiếu đất canh tác, nông
dân Indonesia vẫn thường đốt rừng để mở rộng đất nông nghiệp. Tình
trạng đó đã gây nên nạn cháy rừng phổ biến ở quốc gia quần đảo này.
Một trong những trận cháy rừng nghiêm trọng đã xảy ra ở Indonesia vào
cuối 1997 đầu 1998. Thiệt hại do cháy rừng và khói cháy rừng đối với
Indonesia và các nước bị ảnh hưởng ước tính lên tới 20 tỷ USD.
Để ngăn chặn nạn cháy rừng, vào năm 1997, Chính phủ Indonesia đã ra
lệnh cấm hoàn toàn việc dùng lửa đã dọn đất trồng trọt. Những người vi
phạm có thể bị phạt tù với mức tối đa là 15 năm và một khoản tiền phạt
lên tới 250 triệu Rupiah. Các công ty vi phạm luật sẽ bị tịch thu tài sản và
chấm dứt hoạt động.
353
Tuy nhiên, việc thi hành luật trên không thu được mấy kết quả do sự bất
lực của các quan chức địa phương. Nạn phá rừng sẽ không chấm dứt nổi,
chừng nào đời sống của nhân dân các vùng có rừng không được bảo đảm.
Tại các nước ASEAN khác, nhiều biện pháp đang được thực thi nhằm trả
lại cho khu vực chúng ta một môi trường xanh, sạch như được hình dung
trong Tầm nhìn 2020.
Với tư cách là một tổ chức hợp tác khu vực; ASEAN đã rất coi trọng việc
thúc đẩy hợp tác về môi trường giữa các nước thành viên. Cố gắng đầu
tiên theo hướng này là tuyên bố Manila về môi trường khu vực ASEAN
(ngày 30/4/1981). Trong bản tuyên bố đó, các nhà lãnh đạo ASEAN
khẳng định mục tiêu hợp tác là bảo vệ môi trường khu vực ASEAN, duy
trì tính bền vừng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao chất
lượng sống của con người trong khu vực. Bản tuyên bố cũng đề ra các
biện pháp chung về môi trường, quyết định đưa các vấn đề môi trường
vào nỗ lực phát triển và vào nội dụng giảng dạy ở các trường học trong
khu vực ASEAN.
Sau Tuyên bố Manila, nhiều tuyên bố về các vấn đề môi trường nói
chung và các vấn đề môi trường cụ thể nó riêng đã được thông qua như
Tuyên bố Bangkok về môi trường (ngày 29/1l/1984); Tuyên bố ASEAN
về các công viên di sản và khu bảo tồn (ngày 29/11/1984) Thỏa thuận
Kualalumpur về môi trường và phát triển ngày 19/6/1990)...
Hợp tác ASEAN về môi trường đã có bước tiến đáng kể với việc thông
354
qua Nghị quyết Singapore về môi trường và phát triển (ngày 18/2/1992).
Trong bản nghị quyết đó các nước ASEAN cam kết:
- Thực hiện các biện pháp chính sách, xây dựng các thiết chế nhằm
gắn môi trường với phát triển.
- Phối hợp chặt chẽ các vấn đề liên quan tới môi trường và phát triển.
- Hợp tác xây dựng các tiêu chuẩn cơ bản về chất lượng môi trường,
phấn đấu đi đến thống nhất những tiêu chuẩn đó, xây dựng các mục
tiêu lâu dài về chất lượng không khí, chất lượng nước sông.
- Thống nhất các chiều hướng chính sách và mở rộng hợp tác kỹ
thuật trong các vấn đề môi trường, phối hợp các biện pháp nhằm
ngăn chặn khai thác bừa. bãi rừng nhiệt đới.
Trong Nghị quyết Singapore, các nước ASEAN đã vạch ra một số
chương trình hợp tác cụ thể về môi trường giữa các nước thành viên.
Những chương trình đó bao gồm: khói mù đo cháy rừng gây ra; quản lý
chất lượng nước và không khí; các khu rừng bảo tồn nằm trong lãnh thổ
mỗi nước; mạng lưới khư vực nhằm bảo tồn đa dạng sinh học; bảo vệ môi
trường biển...
Hợp tác ASEAN về môi trường đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều tổ
chức quốc tế và các nước bạn bè trên thế giới. Chương trình môi trường
của Liên hiệp quốc (UNEP) đã tài trợ cho các chương trình môi trường 1,
2, 3 của ASEAN: Việc thực hiện những chương trình đó đã đưa lại những
kết quả bước đầu, tuy còn khiêm tốn.
Trong những năm sắp tới, hợp tác ASEAN về môi trường vẫn được tiếp
tục thông qua những kế hoạch cụ thể. Trong Chương trình Hành động Hà
355
Nội, ASEAN dự định sẽ:
- Xây dựng một kế hoạch hành động khu vực nhằm bảo vệ môi
trương biển vào năm 2004.
- Thực hiện khuôn khổ nhằm đạt tới mục tiêu dài hạn về môi trường
đối với chất lượng nước sông và khí quyển cho các nước ASEAN.
- Tăng cường nỗ lực khu vực nhằm giải quyết vấn đề thay đổi khí
hậu.
- Tăng cường giáo dục và thông tin nhằm nâng cao nhận thức và sự
tham gia của công chúng vào những hoạt động bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững.
Việc triển khai các kế hoạch cụ thể tiên của toàn Hiệp hội sẽ hỗ trợ tích
cực cho các cố gắng phục hồi và duy trì môi trường tự nhiên và hệ sinh
thái của các nước thành viên trong những năm sắp tới.
Tuy nhiên, việc khắc phục những vấn đề môi trường ở Đông Nam Á
không đơn giản. Bởi vì, chừng nào mô hình tăng trưởng dựa trên sự tiêu
tốn tài nguyên thiên nhiên và sức lao động hiện nay còn tiếp tục, chừng
nào tình trạng nghèo khổ của đại đa số nhân dân các nước ASEAN chưa
được giải quyết, chừng đó việc tàn phá môi trường vẫn sẽ tiếp tục. Kho
tài nguyên thiên nhiên của khu vực chúng ta sẽ cạn kiệt dần.
Muốn giải quyết triệt để các vấn đề môi trường sinh thái, các nước
ASEAN cần phải thay đổi mô hình tăng trưởng cũ và chuyển sang một
mô hình tăng trường mới, trong đó tài nguyên thiên nhiên, sức lao động
không phải là đầu vào chủ yếu như hiện nay. Mô hình tăng trưởng tương
356
lai phải là mô hình tăng trưởng của kinh tế tri thức. Chỉ khi nào các nền
kinh tế mới ấy được xây dựng ở các nước thành viên ASEAN, viễn cảnh
về một ASEAN xanh, sạch, mới được hiện thực hóa hoàn toàn.
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
Sách đã được Hội Đồng Khoa Học Khoa Đông Nam Á học
thẩm định
Tập thể tác giả
357
TS. : NGUYỄN THU MỸ (Chủ biên)
TS. : PHẠM ĐỨC THÀNH
TS. : HOA HỮU LÂN
TS.Khoa Học. : TRẦN KHÁNH
Biên tập kỹ thuật : Th.S CAO THỊ VIỆT HƯƠNG
Chế bản – trình bày : CAO THỊ PHÚC
Kỹ thuật in :
-*Tài liệu lưu hành nội bộ *-
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 971.pdf