KẾT LUẬN
- Nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng có
tương quan chặt chẽ với sự tăng trưởng lá và năng
suất dâu tây. Dung dịch dinh dưỡng có nồng độ
độ N nằm trong phạm vi 154 - 182 mg/L cho sinh
trưởng thân lá và năng suất cao nhất.
- Chất lượng quả bị ảnh hưởng nhiều bởi nồng
độ N trong dung dịch dinh dưỡng. Nồng độ N nằm
trong pham vi 98- 182 mg/L cho chất lượng quả
tốt nhất.
- Tỷ lệ nhiễm bệnh thối mốc xám do nấm Botrytis
cinerea và thán thư do nấm Colletotrichum acutatum
trên quả tỷ lệ nghịch với nồng độ N trong dung
dịch dinh dưỡng. Nồng độ N nằm trong pham vi
42 - 126 mg/L có tỷ lệ quả nhiễm hai nấm bệnh trên
thấp nhất.
Nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng tối ưu
trong sản xuất dâu tây là 154 mg/L.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Effects of organic fertilizer and biochar on soil water holding capacity and yield of hybrid-Maize cultivated in alluvial soils in Vinh Long and An Giang provinces, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
45
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
Evaluation in the Tropics and Subtropics. Longman,
Sussex. 474 pp.
Lei, O., and Zhang R., 2013. Effects of biochars derived
from different feedstocks and pyrolysis temperatures
on soil physical and hydraulic properties. Journal of
Soils and Sediments, 13 (9), pp. 1561-1572.
Marcus, H., Garth O., Sally B., Brent C. and Dugald
C., 2014. Effect of biochar application on soil water
availability and hydraulic conductivity. Conference:
Soil Science Australia National Soil Science,
Melbourne, Australia.
Minasny, B. and Mcbratney, A. B., 2018. Limited effect
of organic matter on soil available water capacity.
European Journal of Soil Science, Vol. 69, p. 39-47.
Pravin R. Chaudhari, Dodha V. Ahire, Vidya D.
Ahire, Manab Chkravarty and Saroj Maity. 2013.
Soil Bulk Density as related to Soil Texture, Organic
Matter Content and available total Nutrients of
Coimbatore Soil. International Journal of Scientific
and Research Publications, Volume 3, Issue 2, ISSN
2250 - 3153.
Raemaekers, R. H., 2001. Crop production in Tropical
Africa. Ministry of Foreign Affairs, Directorate
General for International Cooperation, Brussels
(Belgium), 1540 pp.
Reynolds, W. D.; Yang X. M., Drury C. F., Zhang T. Q.,
and Tan C. S., 2003. Effects of selected conditioners
and tillage on the physical quality of a clay loam soil.
Can. J. Soil Sci., 83, 318-393.
Effects of organic fertilizer and biochar on soil water holding capacity and yield
of hybrid-maize cultivated in alluvial soils in Vinh Long and An Giang provinces
Tat Anh Thu, Tran Ba Linh, Nguyen Van Qui
Abstract
Field experiments were carried out in alluvial soils under hybrid-maize growing conditions in Tam Binh and An Phu
districts of Vinh Long and An Giang provinces, prespectively, to evaluate the effects of organic fertilizer and biochar
on the water holding capacity of the studied soils and growth and yield of hybrid-maize. The experiment was laid out
in a randomized complete block design (RCBD) with 4 replicates. The studied results showed that physical properties
of the soils, such as water holding capacity, water content at field capacity, porosity were improved significantly under
the treatments of both single application of organic fertilizer and biochar and combined application over the control
treatment. Addition of organic fertilizer and biochar to the soils also increased significantly yields of maize over the
control treatment. The highest maize yields were found under the treatment of combined application of 5 tons of
organic fertilizer and 10 tons of biochar per ha in both Tam Binh - Vinh Long (12.29 tons/ha) and An Phu - An Giang
(8.63 tons/ha). The studied results indicated that improvement of water holding capacity resulted from application of
organic fertilizer and biochar were more pronounced in Tam Binh than in Chau Phu site.
Keywords: Biochar, maize, organic fertilizer
Ngày nhận bài: 28/11/2018
Ngày phản biện: 13/12/2018
Người phản biện: TS. Đỗ Trung Bình
Ngày duyệt đăng: 11/1/2019
1 Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng - Đại học Cần Thơ
ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ NITƠ TRONG DUNG DỊCH DINH DƯỠNG
ĐẾN SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG DÂU TÂY
TRỒNG TRONG NHÀ MÀNG TẠI ĐÀ LẠT
Cao Thị Làn1, Nguyễn Văn Kết1, Ngô Quang Vinh2
TÓM TẮT
Thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ N trong dịch dinh dưỡng đến sinh trưởng, năng suất và chất
lượng quả dâu tây được tiến hành trong nhà màn tại Đà Lạt. Cây giống dâu tây được trồng trên chậu nhựa có chứa
giá thể phối trộn giữa vỏ trấu và mụn xơ dừa theo tỷ lệ 1 : 3. Thí nghiệm được thiết kế theo kiểu khối ngẫu nhiên,
với 7 nghiệm thức, 3 lần lặp lại. Kết quả thí nghiệm cho thấy nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng có tương quan
chặt với sự tăng trưởng lá của và năng suất dâu tây. Dung dịch dinh dưỡng có nồng độ độ N nằm trong pham vi
154 - 182 mg/L cho sinh trưởng thân lá và năng suất cao nhất. Chất lượng quả bị ảnh hưởng nhiều bởi nồng độ N
trong dung dịch dinh dưỡng. Nồng độ N nằm trong pham vi 98- 182 mg/L cho chất lượng quả tốt nhất. Nồng độ
46
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
N = 98 mg/L cho chất lượng quả đạt cao nhất và tương đương với nồng độ N = 182 mg/L. Tỷ lệ quả nhiễm bệnh
thối mốc xám do nấm Botrytis cinerea và thán thư do nấm Colletotrichum acutatum trên quả tỷ lệ nghịch với nồng
độ N trong dung dịch dinh dưỡng. Nồng độ N nằm trong pham vi 42 - 126 mg/L có tỷ lệ quả nhiễm hai nấm bệnh
trên thấp nhất.
Từ khóa: Dâu tây, nồng độ nitơ, dung dịch, giá thể
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sản xuất thủy canh dâu tây đã tăng đáng kể
trong những năm gần đây trên toàn thế giới, vì nó
cho phép sử dụng nước và phân bón hiệu quả hơn,
cũng như kiểm soát khí hậu tốt hơn và đặc biệt là
yếu tố sâu bệnh. Hơn nữa, sản xuất thủy canh dâu
tây làm tăng năng suất và chất lượng, dẫn đến tăng
khả năng cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh tế. Trong
số các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống sản xuất thủy
canh dâu tây, dung dịch dinh dưỡng được xem là
một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định
năng suất và chất lượng dâu tây. Trong số các nguyên
tố dinh dưỡng Nitơ là một chất dinh dưỡng quan
trọng trong tăng trưởng và năng suất cây trồng, bởi
vì nó ảnh hưởng đến quang hợp và sự phân bố các
chất khô tại các bộ phận của cây Trong giai đoạn cây
dâu tây sinh trưởng mạnh, nếu thiếu đạm lá thường
có kích thước nhỏ và có thể chuyển từ màu xanh
sang màu xanh nhạt hoặc vàng; các lá già có cuống
màu đỏ tía và phiến lá có màu đỏ rực; Kích cỡ quả
giảm và tai quả trở nên đỏ tía (Ullio, 2010), (Ulrich
et al., 1992). Việc tăng nồng độ N trong dịch dinh
dưỡng sẽ làm tăng đáng kể số lượng thân bò, giảm
đáng kể các chất rắn hòa tan trong quả (Cantliffe,
Castellanos, & Paranjpe, 2007). Trong cây dâu tây,
sự thiếu nitơ sẽ giảm sự vận chuyển các hợp chất
các bon về quả, giảm số lượng quả và năng suất quả,
tăng tỷ lệ quả nhỏ (Deng & Woodward, 1998). Do
đó, việc nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ nitơ đến
sinh trưởng của dâu tây là cần thiết, nhằm xác định
được nồng độ N tối ưu cho cây dâu tây sinh trưởng
và phát triển trên giá thể tại Đà Lạt.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Cây dâu tây giống Newzealand được trồng trong
chậu nhựa mềm, màu đen, kích thước 19 ˟ 17,5 ˟
16,5 cm. Giá thể sử dụng trồng dâu tây được phối
trộn giữa vỏ trấu và xơ dừa theo tỷ lệ 1 : 3 có
pH = 5,8 - 6,5 và EC = 0,1 - 0,5 dS/m.
Sử dụng công thức dinh dưỡng của Lieten
(1999) làm nền trong đó dinh dưỡng N được thay
dổi ở 7 mức khác nhau nằm trong phạm vi từ 42 -
210 mg N/L. Các thành phần dinh dưỡng có trong
dung dịch dinh dưỡng như sau (mg/L): 48 P; 136,5 K;
180 Ca; 28,8 Mg và 38,8 S; 1,12 Fe; 0,048 Cu; 0,65 Zn;
1,1 Mn và 0,79 B. EC = 1,4 và pH 6,0 - 6,5.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu
nhiên hoàn chỉnh với 3 lần lặp lại. Mỗi ô thí nghiệm
gồm 7 chậu, tổng thí nghiệm 147 chậu.
Các nghiệm thức thí nghiệm gồm: N1 = 42 mg
N/L (3 mol/L); N2 = 70 mg N/L (5 mol/L);
N3 = 98 mg N/L (7 mol/L); N4 = 126 mg N/L
(9 mol/L); N5 = 154 mg N/L (11 mol/L); N6 = 182 mg
N/L (13 mol/L); N7 = 210 mg N/L (15 mol/L).
2.2.2. Các chỉ tiêu theo dõi
a) Chỉ tiêu sinh trưởng
Theo dõi ở giai đoạn 10, 20, 30, 40 và 50 ngày sau
trồng (NST).
+ Số lá/cây: Tính từ lá non có cuống lá và phiến
lá đã mở.
+ Diện tích lá: Đo chiều dài, chiều rộng phiến lá
giữa lá lớn nhất của cây
Diện tích lá = Chiều dài ˟ Chiều rộng ˟ 3 ˟
Số lá/cây ˟ 0.7
b) Mức độ nhiễm bệnh hại
Theo dõi khi thu hoạch quả.
+ Tỷ lệ quả bị nhiễm bệnh mốc xám do nấm
Botrytis cinerea gây ra.
+ Tỷ lệ quả bị nhiễm bệnh thán thư do nấm
Colletotrichum acutatum gây ra.
Tỷ lệ (%) = Số quả bị bệnh/tổng số quả thu hoạch.
c) Năng suất
Mỗi lần thu hoạch phân loại dâu thành 2 loại,
đếm số quả và cân khối lượng của từng loại: Loại 1
(thương phẩm): có trọng lượng quả > 7 g, không
dị dạng, sâu, bệnh; Loại 2: quả nhỏ, quả bị dị dạng,
sâu, bệnh.
Tính trọng lượng trung bình quả, số quả/cây,
năng suất quả, tỷ lệ quả thương phẩm đến sau trồng
8 tháng.
d) Chất lượng quả
+ Nồng độ đường được xác định bằng chỉ số
khúc xạ.
+ Độ axit được xác định bằng cách chuẩn độ
bằng natri hydroxit (NaOH).
+ Hàm lượng vi tamin C đươc xác định bằng
phương pháp chuẩn độ dung dịch I ốt.
47
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thí nghiệm được phân tích phương sai
bằng phần mềm Mstat C và dùng tiêu chuẩn Duncan
để phân hạng giá trị trung bình ở mức P = 0,05.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành lặp lại 3 vụ liên tiếp
từ tháng 7 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015 trong
nhà kính tại trường Đại học Đà Lạt.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tăng trưởng lá
Nitơ là một trong những nguyên tố dinh dưỡng
ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng thân lá của cây
dâu tây. Bảng 1 là số liệu thống kê của 3 vụ. Kết quả
bảng 1 cho thấy tăng trưởng lá của dâu tây tỷ lệ
thuận với nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng ở
phạm vi 42 - 182 mg/L N, vượt quá ngưỡng này tăng
nồng độ N không làm tăng trưởng thậm trí còn làm
ức chế tăng trưởng.
Số lá/cây cao nhất ở nồng độ 182 mg/L N và thấp
nhất ở nồng độ 42 và 70mg/L N ở tất cả các thời kỳ
quan sát. Ở nồng độ 210 mg/L N ở giai đoạn trước
30 ngày sau trồng cho số lá/cây cao tương đương với
ở nồng độ 182 mg/L nhưng đến giai đoạn 40 ngày
sau trồng số lá/cây của nghiệm thức này lại thấp hơn
điều này có thể do nồng độ N cao (210 mg/L N) đã
ảnh hưởng xấu đến sự ra lá của cây. Kết quả này cũng
tương tự kết quả nghiên cứu của Janisch, Andriolo,
Toso, Santos và Souza (2012), việc tăng hàm lượng N
trong dung dịch dinh dưỡng trong phạm vi 71,68 -
211,68 mg/L đã làm giảm tốc độ tăng trưởng của đế
hoa, rễ và chỉ số diện tích lá của cây dâu tây. Haynes
và Goh (1987) nghiên cứu trồng dâu tây trên đất
cũng kết luận tỷ lệ đạm cao làm giảm đáng kể cả tốc
độ tăng trưởng và năng suất.
Nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng không
những ảnh hưởng đến số lượng lá mà còn ảnh
hưởng đến diện tích lá của cây dâu tây. Diện tích lá
đạt cao nhất ở nồng độ 182 mg/L N (Bảng 2) và thấp
nhất ở nồng độ 42 mg/L N. Trong phạm vi nồng độ
này diện tích lá tỷ lệ thuận với nồng độ N trong dung
dịch dinh dưỡng. Quan sát thực tế cho thấy trong
các nghiệm thức sử dụng dung dịch dưỡng có 42 - 70
mg/L N, cây có biểu hiện thiếu đạm khá rõ, lá có kích
thước nhỏ và có màu xanh nhạt, đặc biệt sau trồng
5 - 6 tháng cây có biểu hiện thiếu N rất rệt. Các lá già
có cuống lá màu đỏ tía và phiến lá có màu đỏ rực,
tương tự như triệu chứng thiếu N mà Ullio (2010),
Ulrich và cộng tác viên (1992) đã mô tả. Năng suất
sinh khối, kích thước cây con và hàm lượng N trong
cây bị hạn chế bởi mức N thấp nhất được áp dụng
trong vườn ươm (Rodgers et al., 1985). Khi quan sát
số lượng thân bò Cantliffe và cộng tác viên (2007)
cũng đã chỉ ra khi tăng nồng độ N trong phạm vi 40
-160 mg/L N sẽ làm tăng đáng kể số lượng thân bò.
Việc tăng hàm lượng N trong dung dịch dinh dưỡng
trong phạm vi 71,68 - 211,68 mg/L đã làm giảm tốc
độ tăng trưởng của đế hoa, rễ và chỉ số diện tích lá
của cây dâu tây nhưng không ảnh hưởng đến sự phát
sinh và tăng trưởng của thân bò.
Bảng 1. Ảnh hưởng của nồng độ N
trong dung dịch dinh dưỡng đến số lá
của cây dâu tây trồng trên giá thể tại Đà Lạt
Nồng
độ N
(mg/L)
Số lá /cây tại các thời điểm
sau trồng (lá)
10 ngày
NST
20 ngày
NST
30 ngày
NST
40 ngày
NST
50 ngày
NST
N1 = 42 5,3 c 5,9 c 7,1 e 7,9 c 8,8 d
N2= 70 5,2 c 5,8 c 6,9 e 8,2 c 9,2 d
N3= 98 5,1 c 5,9 c 7,5 de 9,1 b 10,6 c
N4= 126 5,2 c 6,2 bc 7,8 cd 9,8 b 11,3 bc
N5= 154 5,4 bc 6,5 ab 8,2 bc 9,8 b 11,5 bc
N6= 182 5,8 a 6,9 a 9,2 a 11,6 a 14,1 a
N7= 210 5,6 ab 6,5 ab 8,6 ab 9,9 b 12,1 b
CV (%) 2,91 4,67 4,5 4,25 5,04
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một cột có
chữ cái đi cùng giống nhau thì không khác nhau ở mức ý
nghĩa α= 0,05.
Sử dụng dung dịch dinh dưỡng có nồng độ N cao
(210 mg/L) không những không cho sinh trưởng lá
cao hơn mà chỉ ở mức tương đương hoặc thấp hơn
so với nồng độ 182 mg/L N. Bón nhiều phân đạm có
thể dẫn đến sinh trưởng thân lá quá mạnh và ít quả
(Ulrich, Mostafa, Allen, and Davis, 1992). Bón dư
phân đạm hoặc thường xuyên bón phân đạm trong
điều kiện trời âm u, ít nắng, nhiệt độ ấm áp có thể
gây ra bệnh quả bạch tạng (Mark, 2012).
Tương tự như chỉ tiêu số lượng lá/cây, diện
tích lá cũng có tương quan rất chặt với nồng độ N
trong dung dịch dinh dưỡng. Tại các thời điểm các
phương trình hồi quy đều được thiết lập với hệ số
tương quan r2 đều lớn hơn 0,95 trừ phương trình hồi
quy tại thời điểm 10 ngày sau trồng có hệ số tương
quan thấp hơn, r2 = 0.83 (Hình 1).
48
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
Hình 1. Tương quan giữa nồng độ N trong dung dịch dưỡng và diện tích lá/cây
của dâu tây trồng trên giá thể trong nhà màn tại Đà Lạt
3.2. Năng suất quả
Năng suất quả dâu tây bị ảnh hưởng đáng kể bởi
nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng và phù hợp
với các số liệu tăng trưởng lá của cây dâu ở bảng 2 và
bảng 3. Số quả/cây tăng theo nồng độ N trong dung
dịch dinh dưỡng, số quả/cây đạt cao nhất khi sử dụng
dung dịch dinh dưỡng có 182 mg/L N và thấp nhất là
nghiệm thức có 42 mg/L N. Số quả/cây của nghiệm
thức này thấp hơn 2,4 lần so với nghiệm thức có
182 mg/L N. Trọng lượng trung bình quả thấp nhất
là nghiệm thức 42 mg/L N cho khối lượng quả
thấp nhất chỉ đạt 8,5 g và kế đó là nghiệm thức có
70 mg/L N cho khối lượng quả trung bình 10,3 g.
Các nồng độ N còn lại cho khối lượng quả tương
đương nhau. Năng suất quả/cây tăng theo nồng độ N
trong dung dịch dinh dưỡng tăng tuy nhiên khi tăng
nồng độ N lớn hơn 182 mg/L thì năng suất không
tăng mà có xu hướng giảm. Papadopoulos (1987) đã
kiểm tra nồng độ của N từ 50 đến 150 mg/L trong
dung dịch dinh dưỡng và chỉ ra năng suất thu được
cao nhất ở nồng độ 100 mg/L N, ở mức 150 mg/L N,
năng suất đã giảm đáng kể. Kết quả nghiên cứu của
Andriolo và cộng tác viên (2011) cho thấy trong dải
nồng độ N từ 91 đến 175 mg/L, năng suất và kích
thước quả đạt cao nhất ở nồng độ 124,6 mg/L.
Darnell and Stutte (2001) đã sử dụng nồng độ N
trong phạm vi 52 - 210 mg/L N, trong kỹ thuật màng
dinh dưỡng, đã chỉ ra có thể giảm nồng độ N trong
dung dịch dinh dưỡng, mà không làm giảm năng
suất của dâu tây. Kết quả ở hình 2 cho thấy năng
suất quả của dâu tây có tương quan với nồng độ N
(mg/L) trong dung dịch dinh dưỡng, với phương
trình hồi quy bậc hai là Y = -0.0211x2 + 7.9628x –
73.177 và R2 = 0.9797. Đường biểu diễn cho phương
trình trên được chia thành hai đoạn khác biệt nhau:
Phạm vi nồng độ N <154 mg/L, đường biểu diễn có
độ dốc lớn, chứng tỏ sự thay đổi nồng độ N trong
phạm vi này có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất;
phạm vi nồng độ N từ 154 - 210 mg/L, đường biểu
diễn gần như song song với trục hoành, chứng tỏ sự
thay đổi nồng độ N trong phạm vi này ảnh hưởng
không nhiều đến năng suất dâu tây.
Bảng 2. Ảnh hưởng của nồng độ N
trong dung dịch dinh dưỡng đến năng suất
dâu tây trồng trên giá thể tại Đà Lạt
Nồng độ
N
(mg/L)
Số quả
(quả)
P quả
(g)
P quả/
cây (g)
Tỷ lệ quả
thương
phẩm (%)
N1 = 42 21,0 e 8,5 c 178 f 52,80 c
N2 = 70 37,6 d 10,3 b 386 e 74,69 b
N3 = 98 41,6 cd 13,2 a 546 d 83,53 a
N4 = 126 43,6 bcd 13,4 a 584 cd 83,58 a
N5 = 154 46,4 abc 13,5 a 624 bc 86,53 a
N6 = 182 51,2 a 13,4 a 684 a 84,10 a
N7 = 210 49,2 ab 13,7 a 670 ab 82,18 a
CV (%) 7,77 5,09 5,67 4,26
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một cột có
chữ cái đi cùng giống nhau thì không khác nhau ở mức ý
nghĩa α = 0,05.
Dung dịch dinh dưỡng có nồng độ N thấp, 38
và 68 mg/L, cho khối lượng quả trung bình thấp vì
vậy tỷ lệ quả thương phẩm cũng thấp nhất chỉ đạt
50,82% và 74,69% tương ứng, các nồng độ N còn lại
cho tỷ lệ quả thương phẩm không khác nhau. Kết
quả nghiên cứu của Cantliffe và cộng tác viên (2007)
cũng chỉ ra năng suất quả thương phẩm không bị
ảnh hưởng bởi nồng độ N trong dung dịch dinh
dưỡng (40 - 160 mg/L).
49
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
Hình 2. Tương quan giữa nồng độ N trong dung dịch dưỡng
và năng suất dâu tây trồng trên giá thể trong nhà màn tại Đà Lạt
3.3. Chất lượng quả
Kết quả ở bảng 3 cho thấy nồng độ N trong dung
dịch dinh dưỡng thấp (42 và 70 mg/L) cho hàm
lượng đường trong quả thấp nhất (6,00 và 6,38°Brix),
các nồng độ N còn lại cho hàm lượng các chất hòa
tan cao nhưng không có sự khác biệt giữa các nồng
độ N. Hàm lượng vitamin C trong quả đạt cao nhất
ở nồng độ N = 98 mg/L (75,5 mg/100 g trọng lượng
tươi), khi nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng
cao hơn mức này cho hàm lượng vitamin C trong
quả giảm. Mengel & Kirkby (1978) có kết quả tương
tự và lý giải điều này là do sự gia tăng khả năng
hấp thụ nước của cây cũng như trong quả. Kết quả
nghiên của D’Anna và cộng tác viên (2003) cũng
khẳng định liều lượng N thấp (120 và 170 kg/ha)
cho quả cứng nhất (735 g), với hàm lượng đường
(7,3°Brix) và hàm lượng vitamin C đạt cao nhất
(53 mg/100g trọng lượng tươi), quả có màu đỏ cam
rất tươi sáng. Rodas và cộng tác viên (2013) cũng kết
luận hàm lượng các chất trong quả và màu sắc quả bị
ảnh hưởng bởi các liều lượng phân đạm.
Hương vị trong rau quả là sự kết hợp của cảm
nhận của lưỡi (vị), chủ yếu được xác định bởi tỷ lệ
đường/ axit và cảm nhận của mũi (mùi thơm), do
chất hữu cơ dễ bay hơi (Dirinck et al. , 1977). Theo
kết quả nghiên cứu của MacNaeidhe (2001), tỷ lệ
đường/axit nằm trong phạm vi từ 8 đến 11cho hương
vị quả dâu tây tốt nhất. Tuy nhiên, hương vị có thể bị
ảnh hưởng bởi tổng nồng độ đường và axit có trong
quả, hương vị của quả kém khi nồng độ đường và
axit trong quả thấp mặc dù tỷ lệ có thể nằm trong
phạm vi trên. Như vậy, nồng độ N = 210 mg/L cho
tỷ lệ đường/axit cao nhất, vượt ra khỏi phạm vi 8 - 11
vì vậy cho hương vị kém. Nghiệm thức N = 42 mg/L
và N = 70 mg/L có tỷ lệ đường/axit nằm trong phạm
vi 8 -11, nhưng nồng độ đường và axít trong quả thấp
hơn hẳn các nghiệm thức còn lại nên cho hương vị
kém hơn.
Bảng 3. Ảnh hưởng của nồng độ N
trong dung dịch dinh dưỡng đến chất lượng dâu tây
trồng trên giá thể tại Đà Lạt
Nồng độ N
(mg/L)
Hàm lượng
đường
(oBrix)
VTM C
(mg/100g)
Tỷ lệ
đường/axit
N1 = 42 6,00 b 65,8 c 9,12
N2= 70 6,38 b 70,3 b 9,08
N3= 98 7,13 a 75,5 a 9,44
N4= 126 7,50 a 68,9 b 10,89
N5= 154 7,50 a 68,4 b 10,96
N6= 182 7,38 a 68,9 b 10,71
N7= 210 7,25 a 51,3 d 14,13
CV (%) 2,52 1,53
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một cột có
chữ cái đi cùng giống nhau thì không khác nhau ở mức ý
nghĩa α= 0,05.
3.4. Nấm bệnh hại
Nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng không
những ảnh hưởng đến sinh trưởng, năng suất và
chất lượng của quả mà còn ảnh hưởng đến khả
năng kháng bệnh của dâu tây. Kết quả hình 3 và 4
cho thấy nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng
cao đã làm tăng tỷ lệ quả bị thối mốc xám do nấm
Botrytis cinerea và thán thư do nấm Colletotrichum
acutatum. Nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng
tương quan chặt với tỷ lệ quả bị thối mốc xám do
nấm Botrytis cinerea theo phương trình y = 0.0003x2
– 0.0353x + 3.8698 với R² = 0.9385 và thán thư do
50
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
nấm Colletotrichum acutatum theo phương trình
y = 0.0003x2 – 0.0465x + 4.2751 với R² = 0.8823.
Trong pham vi nồng độ N từ 42 - 126 mg/L, hai
đường biểu diễn gần như song song với trục hoành
và phạm vi nồng độ N từ 126 - 210 mg/L hai đường
biểu diễn có độ dốc lớn. Điều này chứng tỏ việc tăng
nồng độ N trong phạm vi 126 - 210 mg/L sẽ làm gia
tăng nhanh tỷ lệ nhiễm hai nấm bệnh này trên quả.
Walter và cộng tác viên (2008) đã chỉ ra cây dâu tây
rất mẫn cảm với bệnh tật như thối mốc xám quả
và bệnh thán thư, bệnh có thể phát triển mạnh khi
lượng đạm dư thừa. Trong nghiên cứu này các tác
giả cũng chỉ ra sự nhạy cảm với nấm bệnh hại của
cây bị ảnh hưởng bởi cả nồng độ N và các nguồn N.
Hình 3. Tương quan giữa nồng độ N trong dung dịch dưỡng và bệnh thán thư
trên quả dâu tây trồng trên giá thể trong nhà màn tại Đà Lạt
Hình 4. Tương quan giữa nồng độ N trong dung dịch dưỡng và bệnh thối mốc xám
trên quả dâu tây trồng trên giá thể trong nhà màn tại Đà Lạt
IV. KẾT LUẬN
- Nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng có
tương quan chặt chẽ với sự tăng trưởng lá và năng
suất dâu tây. Dung dịch dinh dưỡng có nồng độ
độ N nằm trong phạm vi 154 - 182 mg/L cho sinh
trưởng thân lá và năng suất cao nhất.
- Chất lượng quả bị ảnh hưởng nhiều bởi nồng
độ N trong dung dịch dinh dưỡng. Nồng độ N nằm
trong pham vi 98- 182 mg/L cho chất lượng quả
tốt nhất.
- Tỷ lệ nhiễm bệnh thối mốc xám do nấm Botrytis
cinerea và thán thư do nấm Colletotrichum acutatum
trên quả tỷ lệ nghịch với nồng độ N trong dung
dịch dinh dưỡng. Nồng độ N nằm trong pham vi
42 - 126 mg/L có tỷ lệ quả nhiễm hai nấm bệnh trên
thấp nhất.
Nồng độ N trong dung dịch dinh dưỡng tối ưu
trong sản xuất dâu tây là 154 mg/L.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Andriolo, J. L., Erpen, L., Cardoso, F. L., Cocco, C.,
Casagrande, G. S., & Jänisch, D. I., 2011. Nitrogen
levels in the cultivation of strawberries in soilless
culture. Horticultura Brasileira, 29 (4): 516-519.
51
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
Cantliffe, D. J., Castellanos, J. Z., & Paranjpe, A. V.,
2007. Yield and quality of greenhouse-grown
strawberries as affected by nitrogen level in coco coir
and pine bark media. Paper presented at the Proc.
Fla. State Hort. Soc.
D’Anna, F., Incalcaterra, G., Moncada, A., & Miceli, A.,
2003. Effects of different electrical conductivity
levels on strawberry grown in soilless culture.
Paper presented at the International Symposium
on Managing Greenhouse Crops in Saline
Environment 609.
Deng, X., & Woodward, F.,1998. The growth and yield
responses of Fragaria ananassa to elevated CO2 and
N supply. Annals of Botany, 81(1), 67-71.
Dirinck, P., Schreyen, L., & Schamp, N., 1977.
Aroma quality evaluation of tomatoes, apples,
and strawberries. Journal of agricultural and food
chemistry, 25(4), 759-763. doi:10.1021/jf60212a039.
Haynes, R., & Goh, K., 1987. Effects of nitrogen and
potassium applications on strawberry growth, yield
and quality. Communications in Soil Science & Plant
Analysis, 18 (4), 457-471.
Janisch, D. I., Andriolo, J. L., Toso, V., Santos, K. G.
F. d., & Souza, J. M. d., 2012. Nitrogen for growth
of stock plants and production of strawberry runner
tips. Bragantia, 71 (3): 394-399.
Lieten, F.,1999. Guideline for nutrient solutions, peat
substrate and leaf values of “Elsanta” Strawberries.
Communication Cost Action 836 Integrated research
in berries. Paper presented at the 2th meeting Wg4.
Nutrition and soilless culture. Versailles.
MacNaeidhe, F., 2001. The Effect of Nutrition on the
Flavour of Strawberries Grown under Protection: Soft
Fruit and Beekeeping Research Centre.
Mark, B., 2012. Albino Strawberry Fruit. Strawberries
and Caneberries.
Mengel, K., & Kirkby, E. A., 1978. Principles of plant
nutrition.
Papadopoulos, I., 1987. Nitrogen fertigation of
greenhouse-grown strawberries. Fertilizer Research,
13 (3): 269-276.
Rodas, C. L., Pereira da Silva, I., Toledo-Coelho, V.,
Guimarães-Ferreira, D., de Souza, R. J., & Guedes
de Carvalho, J., 2013. Chemical properties and rates
of external color of strawberry fruits grown using
nitrogen and potassium fertigation. IDESIA (Chile),
31 (1): 53-58.
Rodgers, C., Izsak, E., Kafkafi, U., & Izhar, S., 1985.
Nitrogen rates in strawberry (Fragaria ananasa)
nursery on growth and yield in the field. Journal of
plant nutrition, 8 (2): 147-162.
Ullio, L., 2010. Strawberry fertiliser guide. State of New
South Wales through Department of Industry and
Investment (Industry & Investment NSW), 941: 1-9.
Ulrich, A., Mostafa, M., Allen, W. W., & Davis, P. A.,
1992. Strawberry deficiency symptoms: a visual and
plant analysis guide to fertilization. Retrieved from
University of California, Division of Agriculture and
Natural.
Walter, M., Braithwaite, B., Smith, B., & Langford, G.,
2008. Nutrient nitrogen management for disease
control in strawberry. New Zealand Plant Protection,
61: 70-79.
Yin, X., Lantinga, E. A., Schapendonk, A. H.,
& Zhong, X., 2003. Some quantitative relationships
between leaf area index and canopy nitrogen content
and distribution. Annals of Botany, 91(7), 893-903.
Effects of nitrogen level in nutrition solution on growth, yield and quality
of strawberries planting in net house at Da Lat
Cao Thi Lan, Nguyen Van Ket, Ngo Quang Vinh
Abstract
The experiment studied the effect of N level in nutrient solution on growth, yield and quality of strawberry fruit
was conducted in plastic house in Da Lat. Strawberry seedlings are grown on potted pots containing mixtures of
rice husk and cocopeat in proportion 1 : 3. The experiment was designed in completely randomized block with
7 treatments, 3 repetitions. Experimental results showed that the concentration of N in the nutrient solution was
strongly correlated with leaf growth and strawberry yield. The leaf stalk growth and yield were highest in nutrient
solution with N concentration of 154 - 182 mg/L. Fruit quality was greatly affected by the concentration of N in the
nutrient solution. The N concentration of 98 - 182 mg/L could give the best fruit quality. The N concentration of
98 mg/L produced the highest fruit quality and was equivalent to the concentration of N = 182 mg/L. The rate of
infected fruits of gray mold rot caused by Botrytis cinerea and anthracnose due to Colletotrichum acutatum in fruit
was inversely proportional to the N concentration in nutrient solution. The N concentration of 98 mg/L had the
lowest rate of two infected fungi on fruits.
Keyword: Strawberry, nitrogen level, solution, substrate
Ngày nhận bài: 9/12/2018
Ngày phản biện: 16/12/2018
Người phản biện: TS. Lê Thị Thanh Thủy
Ngày duyệt đăng: 11/1/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
effects_of_organic_fertilizer_and_biochar_on_soil_water_hold.pdf