Gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam 2008: Bằng chứng cho hoạch định chính sách y tế
Năm 2008, gánh nặng của các bệnh không
truyền nhiễm chiếm hơn 2/3 tổng gánh nặng
bệnh tật của Việt Nam. Điều này một lần nữa
cho thấy cần tăng cờng các chính sách cũng
nh các can thiệp nâng cao sức khỏe nhằm
phòng ngừa và điều trị các bệnh không truyền
nhiễm ở Việt Nam.
ở cả hai giới, chấn thơng không chủ định,
các bệnh về tim mạch, ung th và các bệnh tâm
thần kinh là 4 nhóm nguyên nhân hàng đầu của
gánh nặng bệnh tật. Nguyên nhân hàng đầu của
gánh nặng bệnh tật ở lứa tuổi dới 15 là chấn
thơng không chủ định. Gánh nặng bệnh tật ở
tuổi 15-44 chủ yếu do chấn thơng không chủ
định và các bệnh tâm thần kinh. Nếu xét theo
các bệnh/chấn thơng cụ thể thì đột quỵ là
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến gánh nặng bệnh
tật ở cả nam giới năm 2008. Trong khi đó,
nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật ở
nữ là trầm cảm. Kết quả này cùng với việc các
bệnh tâm thần kinh nằm trong 4 phân nhóm
bệnh/chấn thơng hàng đầu gây ra gánh nặng
bệnh tật ở cả 2 giới bớc đầu gợi ý việc cần quan
tâm và đầu t hơn nữa cho vấn đề sức khỏe tâm
thần và tiếp tục tăng cờng chơng trình phòng
ngừa tai nạn thơng tích ở Việt Nam.
Đây là lần đầu tiên nghiên cứu về gánh nặng
bệnh tật quốc gia đợc thực hiện ở Việt Nam.
Tuy có một số hạn chế về chất lợng số liệu thứ
cấp về bệnh tật và chấn thơng của Việt Nam,
kết quả của nghiên cứu đã phần nào phản ánh
đợc bức tranh toàn cảnh về các nguyên nhân
chính gây ra gánh nặng về tử vong và tàn tật ở
Việt Nam, góp phần cung cấp các bằng chứng
khoa học cho việc xác định u tiên và định
hớng cho hoạch định chính sách y tế. Các kết
quả của nghiên cứu đã bớc đầu đợc Bộ Y tế
tham khảo và sử dụng trong quá trình xây dựng
chiến lợc (2011-2020) và kế hoạch 5 năm
(2011-2015) của ngành Y tế. Các kết quả của
nghiên cứu cũng đã đợc sử dụng cho một số
nghiên cứu tiếp theo nhằm phân tích chi phí-
hiệu quả của các can thiệp y tế phục vụ cho việc
lập kế hoạch và xây dựng chính sách, ví dụ nh
nghiên cứu đánh giá tính chi phí- hiệu quả của
các can thiệp phòng chống thuốc lá tại Việt
Nam [6]. Bên cạnh đó, các kết quả của nghiên
cứu còn đợc nhóm nghiên cứu của trờng Đại
học Y tếCông cộng sử dụng để tiếp tục đánh giá
gánh nặng bệnh tật theo các yếu tố nguy cơ
(Comparative Risk Assessment - CRA) nhằm
đa thêm những bằng chứng cho việc xác định
u tiên trong các can thiệp dự phòng.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 23 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam 2008: Bằng chứng cho hoạch định chính sách y tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11
Gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam 2008:
Bằng chứng cho hoạch định chính sách y tế
1
CN. Bùi Ngọc Linh, PGS. TS. Nguyễn Thanh Hương ,
1 1
ThS. Nguyễn Thị Trang Nhung , CN. Trần Khánh Long
1
Trường Đại học Y tế Công cộng
Đặt vấn đề và mục tiêu:
Trong bối cảnh nhu cầu về sử dụng dịch vụ y
tế ngày càng tăng do sự tăng lên về dân số, nhà
nước phải cân nhắc kỹ trong việc đưa ra các
chính sách y tế phù hợp nhằm đáp ứng tối đa nhu
cầu chăm sóc sức khỏe của người dân trong bối
cảnh nguồn lực hạn chế. Thiếu các bằng chứng
khoa học định hướng cho việc ra quyết định về
lựa chọn ưu tiên và phân bổ nguồn lực là rào cản
chính đối với việc xây dựng chính sách y tế ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các
nước đang phát triển. Lượng hóa các thông tin
về sức khỏe, cụ thể hơn là gánh nặng bệnh tật (tử
vong và tàn tật) của cộng đồng là bằng chứng
khoa học rất cần thiết cho quá trình lựa chọn can
thiệp và xây dựng chính sách. Để đáp ứng nhu
cầu này, các nhà nghiên cứu của trường Đại học
Harvard và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xây
Chính sách - Số 9/2012 Y tế
Tạp chí
Tóm tắt: Các bằng chứng khoa học, cụ thể hơn là thông tin có tính so sánh về tử vong và tàn tật của các
vấn đề sức khỏe là rất cần thiết cho quá trình xác định ưu tiên và hoạch định chính sách y tế. Nghiên cứu
“Gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam 2008” sử dụng phương pháp của nghiên cứu đo lường gánh nặng bệnh tật
toàn cầu (GBD- Global Burden of Disease study), trong đó gánh nặng bệnh tật được đo lường bằng chỉ số
DALYs (Disability Adjusted Life Years) để tính toán gánh nặng bệnh tật do tử vong sớm và tàn tật theo từng
nguyên nhân bệnh và loại chấn thương trên quy mô toàn Việt Nam. Kết quả cho thấy tổng gánh nặng bệnh tật
của Việt Nam năm 2008 là 12,3 triệu DALYs, trong đó gánh nặng của các bệnh không truyền nhiễm chiếm
gần 3/4 (71%) tổng gánh nặng bệnh tật. Chấn thương không chủ định các bệnh về tim mạch, ung thư và các
bệnh tâm thần kinh là 4 nhóm nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật ở cả hai giới. Đột quỵ là nguyên
nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật ở nam giới Việt Nam năm 2008 (10%), trong khi nguyên nhân hàng
đầu của gánh nặng bệnh tât ở nữ là trầm cảm (12%). Đây là lần đầu tiên một nghiên cứu về gánh nặng bệnh
tật quốc gia được thực hiện ở Việt Nam. Nghiên cứu đã phản ánh được bức tranh toàn cảnh về gánh nặng
bệnh tật ở Việt Nam, bước đầu góp phần cung cấp các bằng chứng khoa học cho việc xác định ưu tiên và xây
dựng chính sách y tế.
Từ khóa: Gánh nặng bệnh tật, DALYs, Years of Life Lost, Years Lived with Disability, Việt Nam
dựng chỉ số DALYs - Disability Adjusted Life
Years (số năm sống điều chỉnh theo mức độ tàn
tật). Chỉ số này đã và đang được sử dụng rộng rãi
để đo lường gánh nặng bệnh tật ở nhiều quốc
gia. Một đơn vị DALY là một năm sống khỏe
mạnh mất đi vì tử vong sớm và tàn tật do một
bệnh hoặc tình trạng sức khỏe nào đó. Về
phương diện chính sách y tế, chỉ số DALYs có
tầm quan trọng chiến lược bởi nó cho phép đo
lường tình trạng sức khỏe của quần thể bằng một
chỉ số tổng hợp cả tác động của tử vong và tàn tật
lên sức khỏe, nhờ đó việc đánh giá, so sánh các
vấn đề sức khỏe hay chi phí-hiệu quả của các
can thiệp y tế khác nhau trở nên dễ dàng và khoa
học hơn.
12
Nghiên cứu chính sách
Dựa trên phương pháp của nghiên cứu đo
lường gánh nặng bệnh tật toàn cầu (GBD-
Global Burden of Disease study) [2]. Phương
pháp này cho phép lượng hóa tình trạng sức
khỏe thông qua chỉ số DALYs.
DALY của một tình trạng sức khỏe (bệnh
hay chấn thương) được tính bằng tổng số năm
sống mất đi do tử vong sớm (YLL - Years of Life
Lost due to premature mortality) trong quần thể
và số năm sống “khỏe mạnh” mất đi do tàn tật
(YLD - Years Lived with Disability) của các
trường hợp mới mắc tình trạng sức khỏe đó
trong năm đo lường:
DALY = YLL + YLD
DALYs được tính cho 3 nhóm bệnh lớn
(Nhóm I - bệnh truyền nhiễm, các vấn đề sức
khỏe bà mẹ và bệnh lý thời kỳ chu sinh; Nhóm II
- bệnh không truyền nhiễm và Nhóm III - chấn
thương) với 22 phân nhóm bệnh/chấn thương
gồm tổng số 111 bệnh/chấn thương theo danh
sách bệnh và chấn thương của GBD.
Mức chiết khấu 3% cho mỗi năm được áp
dụng đối với số năm sống mất đi trong tương lai
để ước tính giá trị hiện tại của nó. Nghiên cứu sử
dụng kết hợp trọng số bệnh tật của GBD [3] và
trọng số bệnh tật của các nhà nghiên cứu Hà Lan
[4].
YLL và YLD được tính cho từng giới, theo
nhóm tuổi và theo nguyên nhân. Số liệu về tử
vong theo nguyên nhân được thu thập thông qua
điều tra nguyên nhân tử vong, sử dụng phương
pháp phỏng vấn (verbal autopsy) [5] và thực
hiện cùng với điều tra biến động dân số 2007. Số
liệu mới mắc của bệnh/chấn thương được lấy từ
hệ thống ghi nhận bệnh tật, số liệu định kỳ của
các chương trình y tế, các nghiên cứu dịch tễ học
hoặc tính toán dựa trên các chỉ số dịch tễ khác
như tỷ lệ hiện mắc, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ khỏi
bệnh.
Dân số năm 2008 được ước lượng dựa trên số
liệu dân số của điều tra dân số năm 1999 và
2009.
Phương pháp nghiên cứu
Gánh nặng bệnh tật (sử dụng chỉ số
DALYs) của 3 nhóm bệnh lớn (bệnh truyền
nhiễm, bệnh không truyền nhiễm và chấn
thương):
Tổng gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam năm
2008 là 12,3 triệu DALYs. Gánh nặng bệnh tật
của các bệnh không truyền nhiễm chiếm gần
3/4 tổng gánh nặng của Việt Nam. Gánh nặng
bệnh tật của chấn thương chiếm 16% tổng gánh
nặng bệnh tật (xem Biểu đồ 1)
Kết quả
Tại Việt Nam, việc đánh giá gánh nặng bệnh
tật sử dụng chỉ số DALYs mới chỉ được thực
hiện trên quy mô đơn lẻ trong một số nghiên cứu
như nghiên cứu “Sử dụng chỉ số DALY trong đo
lường và đánh giá gánh nặng một số bệnh tật tại
cơ sở thực địa Chí Linh, Hải Dương, 2004” của
trường Đại học Y tế Công cộng [1], các thông tin
chưa đủ tính đại diện để cung cấp một bức tranh
toàn cảnh về gánh nặng bệnh tật mang tính quốc
gia. Vì vậy, nghiên cứu “Gánh nặng bệnh tật ở
Việt Nam 2008” được thực hiện với mục đích
cung cấp đánh giá tổng thể về gánh nặng bệnh
tật do tử vong sớm và tàn tật theo từng nguyên
nhân bệnh và loại chấn thương. Nghiên cứu này
là một trong ba cấu phần chính của dự á n “Cung
cấp các bằng chứng khoa học về bệnh tật và tử
vong cho quá trình hoạch định chính sách y tế ở
Việt Nam” (dự án VINE) trong khuôn khổ xây
dựng và phát triển quan hệ hợp tác giữa Đại học
Queensland - Australia và Bộ Y tế Việt Nam. Dự
án được thực hiện với sự cộng tác của nhiều đơn
vị, viện nghiên cứu và các trường Đại học Y
Dược trên cả nước, trong đó trường Đại học Y tế
Công cộng chịu trách nhiệm thực hiện cấu phần
“Đánh giá gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam năm
2008”.
13
Biểu đồ 1. DALYs theo 3 nhóm bệnh lớn, Việt Nam 2008
Nhóm I
16% 13%
71%
Nhóm II
Nhóm III
Tổng số DALYs ở nam là 6,8 triệu và ở nữ là
5,4 triệu. Các bệnh không truyền nhiễm là
nguyên nhân chính của tổng gánh nặng bệnh tật
ở cả nam (77%) và nữ (66%). Tỷ lệ DALYs của
các bệnh truyền nhiễm, các vấn đề sức khỏe bà
Biểu đồ 2. DALYs theo giới và 3 nhóm bệnh lớn, Việt Nam 2008
T
ỷ
l
ệ
p
h
ầ
n
t
ră
m
t
ro
n
g
t
ổ
n
g
D
A
L
Y
s 90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
Nhóm I Nhóm II Nhóm III
Nhóm bệnh lớn
Nam
Nữ
Gánh nặng bệnh tật (sử dụng chỉ số
DALYs) của 10 phân nhóm bệnh/chấn thương
hàng đầu theo giới và tuổi:
Các bệnh tâm thần kinh và bệnh tim mạch là
hai nhóm nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng
Chính sách - Số 9/2012 Y tế
Tạp chí
mẹ và bệnh lý thời kỳ chu sinh gần như tương
đương ở hai giới. Tỷ lệ DALYs của chấn thương
trong tổng gánh nặng bệnh tật ở nam cao gấp hai
lần so với tỷ lệ này ở nữ (xem Biều đồ 2)
bệnh tật ở Việt Nam năm 2008 với tỷ lệ DALYs
của mỗi nhóm là 17% trong tổng gánh nặng
bệnh tật. Chấn thương không chủ định và ung
thư xếp hàng thứ 3 và 4, gây ra 14% và 13% tổng
DALYs (xem Biểu đồ 3).
14
Nghiên cứu chính sách
Biểu đồ 3. DALYs của 10 phân nhóm bệnh/chấn thương hàng đầu, Việt Nam 2008
ở nam, chấn thương không chủ định là
nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật,
chiếm 18% tổng DALYs. DALYs của các bệnh
tim mạch chiếm 17% tổng gánh nặng bệnh tật,
Biểu đồ 4. DALYs của 10 phân nhóm bệnh/chấn thương hàng đầu ở nam giới, Việt Nam 2008
Nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh
tật ở nữ là các bệnh tâm thần kinh (22%), tiếp
theo là các bệnh tim mạch (18%), ung thư
Bệnh tâm thần kinh
Các bệnh tim mạch
Chấn thương không chủ định
Ung thư
Bệnh truyền nhiễm
Bệnh đường hô hấp
Tàn tật
Bệnh cơ xương khớp
Nhiễm trùng hô hấp
Đái tháo đường
Khác
Chấn thương không chủ định
Các bệnh tim mạch
Bệnh tâm thần kinh
Ung thư
Bệnh truyền nhiễm
Bệnh đường hô hấp
Bệnh đường tiêu hóa
Khuyết tật giác quan
Nhiễm trùng hô hấp
Bệnh cơ xương khớp
Khác
theo sau là các bệnh tâm thần kinh và ung thư
đều gây ra 14% tổng DALYs. Cộng lại, gánh
nặng bệnh tật của 4 nhóm bệnh này chiếm gần
2/3 tổng DALYs ở nam (xem Biểu đồ 4).
(12%) và chấn thương không chủ định (12%).
Gánh nặng của 4 nhóm bệnh này cũng chiếm
2/3 tổng DALYs ở nữ giới (xem Biểu đồ 5)
15
Biểu đồ 5. DALYs của 10 phân nhóm bệnh/chấn thương hàng đầu ở nữ giới, Việt Nam 2008
Chấn thương không chủ định và nhiễm
khuẩn hô hấp là nguyên nhân chính của gánh
nặng bệnh tật ở nam dưới 15 tuổi. Trong độ tuổi
15-44, chấn thương không chủ định và các bệnh
Biểu đồ 6. DALYs của 10 phân nhóm bệnh/chấn thương hàng đầu ở nam theo tuổi, Việt Nam 2008
Mô hình gánh nặng bệnh tật ở nữ dưới 45 tuổi
khác so với ở nam. Chấn thương không chủ định
là nguyên nhân chính của gánh nặng bệnh tật ở
trẻ nữ. Các bệnh tâm thần kinh và chấn thương
không chủ định là hai nguyên nhân chủ yếu của
Bệnh tâm thần kinh
Các bệnh tim mạch
Ung thư
Chấn thương không chủ định
Bệnh cơ xương khớp
Khuyết tật giác quan
Bệnh truyền nhiễm
Bệnh đường hô hấp
Đái tháo đường
Thiếu hụt dinh dưỡng
Khác
Khác
Bệnh cơ xương khớp
Nhiễm trùng hô hấp
Khuyết tật giác quan
Bệnh đường tiêu hóa
Bệnh đường hô hấp
Bệnh truyền nhiễm
Ung thư
Bệnh tâm thần kinh
Các bệnh tim mạch
Chấn thương không chủ định
Triệu
S
ố
n
ă
m
s
ố
n
g
t
à
n
t
ậ
t
h
iệ
u
c
h
ỉn
h
Chính sách - Số 9/2012 Y tế
Tạp chí
tâm thần kinh là nguyên nhân chính của gánh
nặng bệnh tật ở nam. Các bệnh tim mạch và ung
thư là hai nguyên nhân chính của gánh nặng ở
lứa tuổi trên 45 (xem Biểu đồ 6).
gánh nặng bệnh tật ở phụ nữ trưởng thành trẻ
tuổi. Giống như ở nam, gánh nặng bệnh tật của
nữ trên 45 tuổi chủ yếu là do các bệnh tim mạch
và ung thư (xem Biểu đồ 7).
16
Nghiên cứu chính sách
Biểu đồ 7. DALYs của 10 phân nhóm bệnh/chấn thương hàng đầu ở nữ theo tuổi, Việt Nam 2006
Gánh nặng bệnh tật (sử dụng chỉ số
DALYs) của 10 nguyên nhân (bệnh/chấn
thương cụ thể) hàng đầu theo giới:
10 nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng
bệnh tật ở cả hai giới gây ra gần 1/2 tổng gánh
nặng bệnh tật ở Việt Nam năm 2008. Đột quỵ là
nguyên nhân hàng đầu ở nam, gây ra 10% tổng
gánh nặng bệnh tật. ở nữ, trầm cảm là nguyên
Bảng 1. DALYs của 10 nguyên nhân hàng đầu theo giới
Nam
DALYs %Bệnh / chấn thươngSTT
Nữ
DALYs %Bệnh / chấn thương
1 Đột quỵ 714.931 10% Trầm cảm 638.658 12%
2 Tai nạn giao thông 559.637 8% Đột quỵ 562.501 10%
3 Rối loạn do lạm dụng rượu 315.841 5% Khiếm thị 223.711 4%
4 Ung thư gan 312.804 5% Đái tháo đường 219.669 4%
5 HIV/AIDS 285.748 4% Tai nan giao thông 212.704 4%
6 Trầm cảm 237.014 3% Thoái hóa khớp 209.452 4%
7 COPD 227.957 3% Rối loạn lo âu 146.254 3%
8 Ung thư phổi 214.804 3% Viêm phổi 146.202 3%
9 Ngã 185.372 3% COPD 143.410 3%
10 Viêm phổi 183.475 3% Mất trí nhớ 143.258 3%
Khác
Thiếu hụt dinh dưỡng
Đái tháo đường
Bệnh đường hô hấp
Bệnh truyền nhiễm
Khuyết tật giác quan
Bệnh cơ xương khớp
Chấn thương không chủ định
Ung thư
Các bệnh tim mạch
Bệnh tâm thần kinh
S
ố
n
ă
m
s
ố
n
g
t
à
n
t
ậ
t
h
iệ
u
c
h
ỉn
h
Triệu
nhân hàng đầu, gây ra 12% tổng gánh nặng bệnh
tật. Tai nạn giao thông, rối loạn do lạm dụng
rượu, ung thư gan và HIV/AIDS là các nguyên
nhân tiếp theo trong danh sách 10 nguyên nhân
hàng đầu của gánh nặng bệnh tật ở nam giới.
Đột quỵ, khiếm thị, đái tháo đường và tai nạn
giao thông là các nguyên nhân xếp sau trầm cảm
trong danh sách này ở nữ giới (xem Bảng 1)
17
Năm 2008, gánh nặng của các bệnh không
truyền nhiễm chiếm hơn 2/3 tổng gánh nặng
bệnh tật của Việt Nam. Điều này một lần nữa
cho thấy cần tăng cường các chính sách cũng
như các can thiệp nâng cao sức khỏe nhằm
phòng ngừa và điều trị các bệnh không truyền
nhiễm ở Việt Nam.
ở cả hai giới, chấn thương không chủ định,
các bệnh về tim mạch, ung thư và các bệnh tâm
thần kinh là 4 nhóm nguyên nhân hàng đầu của
gánh nặng bệnh tật. Nguyên nhân hàng đầu của
gánh nặng bệnh tật ở lứa tuổi dưới 15 là chấn
thương không chủ định. Gánh nặng bệnh tật ở
tuổi 15-44 chủ yếu do chấn thương không chủ
định và các bệnh tâm thần kinh. Nếu xét theo
các bệnh/chấn thương cụ thể thì đột quỵ là
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến gánh nặng bệnh
tật ở cả nam giới năm 2008. Trong khi đó,
nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật ở
nữ là trầm cảm. Kết quả này cùng với việc các
bệnh tâm thần kinh nằm trong 4 phân nhóm
bệnh/chấn thương hàng đầu gây ra gánh nặng
bệnh tật ở cả 2 giới bước đầu gợi ý việc cần quan
tâm và đầu tư hơn nữa cho vấn đề sức khỏe tâm
thần và tiếp tục tăng cường chương trình phòng
ngừa tai nạn thương tích ở Việt Nam.
Đây là lần đầu tiên nghiên cứu về gánh nặng
bệnh tật quốc gia được thực hiện ở Việt Nam.
Tuy có một số hạn chế về chất lượng số liệu thứ
cấp về bệnh tật và chấn thương của Việt Nam,
kết quả của nghiên cứu đã phần nào phản ánh
được bức tranh toàn cảnh về các nguyên nhân
chính gây ra gánh nặng về tử vong và tàn tật ở
Việt Nam, góp phần cung cấp các bằng chứng
khoa học cho việc xác định ưu tiên và định
hướng cho hoạch định chính sách y tế. Các kết
quả của nghiên cứu đã bước đầu được Bộ Y tế
tham khảo và sử dụng trong quá trình xây dựng
chiến lược (2011-2020) và kế hoạch 5 năm
(2011-2015) của ngành Y tế. Các kết quả của
nghiên cứu cũng đã được sử dụng cho một số
nghiên cứu tiếp theo nhằm phân tích chi phí-
hiệu quả của các can thiệp y tế phục vụ cho việc
lập kế hoạch và xây dựng chính sách, ví dụ như
nghiên cứu đánh giá tính chi phí- hiệu quả của
các can thiệp phòng chống thuốc lá tại Việt
Nam [6]. Bên cạnh đó, các kết quả của nghiên
cứu còn được nhóm nghiên cứu của trường Đại
học Y tế Công cộng sử dụng để tiếp tục đánh giá
gánh nặng bệnh tật theo các yếu tố nguy cơ
(Comparative Risk Assessment - CRA) nhằm
đưa thêm những bằng chứng cho việc xác định
ưu tiên trong các can thiệp dự phòng.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Vũ Anh, Vũ Xuân Phú, Đặng Vũ Trung, Lê Cự Linh, Nguyễn Thị Trang Nhung, Cường PV. Sử
dụng chỉ số DALY trong đo lường và đánh giá gánh nặng một số bệnh tật tại cơ sở thực địa Chí Linh,
Hải Dương, 2004: Trường Đại học Y tế Công Cộng 2006.
2. Murray CJL, Lopez AD. Global health Statistics: A Compendium of Incidence , Prevalence and
Mortality Estimates for Over 200 Conditions. Cambrigde: Havard Unuversity Press; 1996.
3. Murray CJL, Lopez; A.D. The Global Burden of Disease Murray; CJL, Lopez; AD, editors: World
Health Organiation; 1996.
Chính sách - Số 9/2012 Y tế
Tạp chí
Kết luận
Lời cảm ơn: Nhóm nghiên cứu trường Đại học Y tế Công cộng xin chân thành cảm ơn Bộ Y tế,
Trường Đại học Queensland - úc, tổ chức Atlantic Philanthropies - Mỹ, Viện Chiến lược và Chính
sách Y tế, trường Đại học Y tế Công cộng đã hỗ trợ chúng tôi về kỹ thuật và nguồn lực. Chúng tôi cũng
xin cảm ơn các trường Đại học Y Dược, các bệnh viện, các viện nghiên cứu và các cục, vụ của Bộ Y tế đã
tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp số liệu cho nhóm thực hiện nghiên cứu này.
18
Nghiên cứu chính sách
4. Stouthard ME, Essink-Bot M-L, Bonsel GJ, Barendregt JJ, Kramer PGN, Water HPAvd, et al.
Disability weights for diseases in The Netherlands. In: Department of Health, editor. Rotterdam:
Erasmus University Rotterdam.; 1997.
5. World Health Organization. Verbal autopsy standards. Ascertaining and Attributing Cause of
Death. Geneva2007.
6. Higashi Hideki TKD, Barendregt Jan, Nguyen Phuong K, Vuong Mai L, Nguyen Thuy T, Hoang
Phuong T, Wallace Angela L, Tran Tien V, Le Cuong Q, Doran Chrisopher M. Cost Effectiveness of
Tobacco Control Policies in Vietnam: The Case of Population-Level Interventions. Applied Health
Economics & Health Policy. 2011 May 1,2011;9(3):183-96.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ganh_nang_benh_tat_o_viet_nam_2008_bang_chung_cho_hoach_dinh.pdf