Diễn biến về hô hấp và tim mạch trong
lúc mổ
Theo bảng 8 trong kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy các chỉ số về huyết áp, nhịp
tim, nhịp thở ở các thời điểm trước lúc mổ, sau
khi làm kỹ thuật tê và trong quá trình mổ đều
không khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê
với p> 0,05. Đây cũng là ưu việt của phương
pháp gây tê NMC-TS phối hợp vì nó giảm
được liều thuốc tê vào khoang tuỷ sống và cả
khoang ngoài màng cứng(12,11).Tuy nhiên trong
nhóm nghiên cứu của chúng tôi hầu hết không
có dấu hiệu mất máu đến mức cần phải truyền
máu. Cũng trong kết quả nghiên cứu của
chúng tôi lượng dịch truyền trong mổ không
cao, trung bình 750,15 ml dung dịch tinh thể,
vì bệnh nhân của chúng tôi đa số lớn tuổi, có
bệnh lý kèm theo nhiều, hơn nữa chúng tôi sử
dụng liều thuốc Bupivacaine và fentanyl thấp
nên hầu như không ảnh hưởng đến huyết
động học,lượng dung dịch tinh thể chúng tôi
truyền cho bệnh nhân chỉ là đủ nhu cầu sinh lý
bình thường.Với nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi
áp dụng kỹ thuật gây tê ngoài màng cứng và
gây tê tuỷ sống phối hợp (CSEA) có hiệu quả
giảm đau và ổn định về các chức năng sống
của bệnh nhân trong quá trình phẫu
thuật,không những thế sau mổ chúng ta tiếp
tục kiểm soát đau của bệnh nhân mà không
cần dùng các loại thuốc giảm đau toàn thân
khác trong nhóm nghiên cứu của chúng
tôi(9,3,7). Bệnh nhân thấy thoải mái sau
mổ,chúng tôi lưu dây trong khoang mgoài
màng cứng trên 35 giờ.
Tri giác bệnh nhân trong lúc mổ
Hầu hết bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu
đều không có thay đổi về mặt tri giác trong suốt
quá trình phẫu thuật, duy chỉ có một trường hợp
thay đổi do hạ huyết áp và mất máu nhiều
chúng tôi đã xử trí kịp thời.
Diễn biến không mong muốn
Trong nhóm nghiên cứu có 2 trường hợp hạ
huyết áp chiếm 3,1% (bảng 10) trong đó một do
mất máu, chúng tôi phải truyền 3 đơn vị máu và
sử dụng 40mg Ephedrine, sau đó ổn định. Tỷ lệ
lạnh run trong mổ chúng tôi gặp 10 trường hợp
(31%) sau khi tiêm 20 mg Pethidine tĩnh mạch
bệnh nhân hết run và ổn định.Sau mổ ngày thứ 2
gặp một trường hợp đau đầu, chúng tôi bơm 3ml
máu tự thân vào khoang ngoài màng cứng kết hợp
truyền dịch sau khi xử trí bệnh nhân ổn định.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gây tê ngoài màng cứng và gây tê tuỷ sống phối hợp trong phẫu thuật chỉnh hình chi dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 1
GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG VÀ GÂY TÊ TUỶ SỐNG PHỐI HỢP
TRONG PHẪU THUẬT CHỈNH HÌNH CHI DƯỚI
Lê Văn Chung*,Nguyễn Văn Chừng**
TÓM TẮT
Từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2007 khoa Gây mê Hồi sức bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình Quốc tế
Sài Gòn (SÀI GÒN – ITO) đã sử dụng phương pháp gây tê ngoài màng cứng và tê tuỷ sống phối hợp cho
65 bệnh nhân phẫu thuật Chỉnh hình từ 39-90 tuổi (trung bình 68,4±11,2).Thời gian mổ trung bình 125,16
± 14,5 phút.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả vô cảm của phương pháp gây tê ngoài màng cứng và gây tê tuỷ sống phối
hợp trong phẫu thuật Chỉnh hình chi dưới.
Phương pháp: Tiến cứu thử nghiệm lâm sàng.
Kết quả: Thời gian xuất hiện phong bế cảm giác ở mức T12-L1 là 3,2 phút từ lúc hoàn thành kỹ thuật
gây tê. Đạt kết quả vô cảm tối ưu cho phẫu thuật. Nhịp tim, nhịp thở, huyết áp ít thay đổi trong suốt quá
trình phẫu thuật, ít biến chứng.
Kết luận: Qua nghiên cứu chúng tôi thấy kỹ thuật gây tê ngoài màng cứng và gây tê tuỷ sống phối hợp
là phương pháp có hiệu quả vô cảm tốt cho phẫu thuật Chỉnh hình chi dưới và ít tai biến.
ABSTRACT
COMBINED SPINAL-EPIDURAL ANESTHESIA (CSEA)
FOR LOWER LIMB ORTHOPAEDIC SURGERY.
Le Van Chung, Nguyen Van Chung* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 78 - 83
From June to September 2007, the anesthesia department of SAI GON – ITO Hospital used CSEA for
65 patients of 39-90 years old (average 68.4 ± 11.2) under going Orthopaedic operation. Duration of the
intervention:125 ± 14.5 minutes.
Purpose: To evaluate the effect of CSEA for lower limb orthopaedic surgery.
Methods: Prospective clinical trial study.
Result: Duration of sensory level and degree of motor block at T12-L1 about 3,2 minutes after anesthetic technique
procedure. Heart rate, respiratory rate and blood pressure change a few during maintenance of operation.
Conclusion: Combined spinal-epidural anesthesia technique were adequate, decreased rate of
complications and side-effects.
ĐẶT VẤN ĐỀ.
Có nhiều phương pháp vô cảm cho các phẫu
thuật chỉnh hình vùng chi dưới như Gây mê
toàn thân, gây tê tuỷ sống và gây tê ngoài màng
cứng. Trong mỗi phương pháp đều có những
bất lợi khác nhau(10,3), nhất là khi bệnh nhân có
nhiều bệnh lý nội khoa kèm theo như bệnh tim
mạch và hô hấp. Cũng như Gây mê toàn thân, tê
tuỷ sống hoặc tê ngoài màng cứng đơn thuần
cũng gặp khá nhiều rủi ro như tụt huyết áp, suy
hô hấp, ngộ độc thuốc tê và hoặc thuốc nhóm á
phiện và có thể thất bại về kỹ thuật(6,5,2,8,7).
Ngày nay với tiến bộ của ngành Chấn
thương Chỉnh hình đã và đang có nhiều phẫu
* Bệnh viện Sài Gòn – ITO
** Đại học Y Dược Tp. HCM
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 2
thuật lớn tại vùng chi dưới như thay khớp háng,
thay khớp gối,mặt khác bệnh nhân lớn tuổi có
kèm theo bệnh lý nội khoa ngày càng nhiều, vì
vậy các phương pháp vô cảm nêu trên còn có
nhiều mặt hạn chế và chưa đáp ứng tốt cho các
loại phẫu thuật lớn của chuyên ngành Chỉnh
hình. Song song với những tiến bộ đó của ngành
Chỉnh hình, ngành Gây mê Hồi sức cũng đã và
đang phát triển nhằm đáp ứng một cách tốt nhất
cho phẫu thuật và an toàn cho bệnh nhân. Chính
vì lý do đó phương pháp gây tê ngoài màng
cứng và gây tuỷ sống phối hợp (NMC-TS) đã ra
đời nhằm đảm bảo an toàn và hiệu quả cho các
phẫu thuật vùng chi dưới với những lợi điểm
như sau: Có khả năng kéo dài tác dụng của gây
tê tuỷ sống, giảm liều thuốc tê cho cả gây tê tủy
sống và gây tê ngoài màng cứng (NMC), có khả
năng khắc phục sự phong bế không đầy đủ của
gây tê tuỷ sống, đảm bảo vô cảm cho cuộc phẫu
thuật kéo dài, tiếp tuc giảm đau sau mổ(9,4).Vì các
lý do nêu trên chúng tôi tiến hành phương pháp
gây tê ngoài màng cứng và gây tê tuỷ sống phối
hợp cho các phẫu thuật Chỉnh hình vùng chi dưới
tại khoa Gây mê Hồi sức (GMHS) Bệnh viện Chấn
thương Chỉnh hình Quốc tế Sài Gòn-Ito.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đánh giá hiệu quả vô cảm của phương pháp
gây tê ngoài màng cứng và gây tê tuỷ sống phối
hợp trong phẫu thuật Chỉnh hình chi dưới.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn lựa
Các bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật vùng
chi dưới từ ASA I đến ASA IV.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Các bệnh nhân có bệnh nội khoa nặng kèm
theo chưa được điều trị ổn định.
- Khôngđược sự đồng ý của bệnh nhân.
- Các chống chỉ định của gây tê tuỷ sống và
gây tê ngoài màng cứng.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng.
Phương pháp tiến hành
Chuẩn bị
Chuẩn bị bệnh nhân
- Bệnh nhân được khám tiền mê đánh giá
tình trạng chung, đánh giá cột sống, bổ sung các
xét nghiệm chuyên biệt.
- Điều trị những bệnh lý đi kèm theo các
chuyên khoa.
- Chuẩn bị phương tiện và thuốc phục vụ
cho nghiên cứu.
Dụng cụ vô khuẩn
Bộ gây tê ngoài màng cứng có kim Tuohy
và dây luồn, kim tê tuỷ sống 27G và 25G của
hãng B/Braun.
Thuốc
- Bupivacaine 0,5% tăng trọng (4ml) dùng để
gây tê tuỷ sống và Bupivacaine 0,5% (20ml)
dùng để gây tê ngoài màng cứng của công ty
Astra Zeneca.
- Fentanyl 0,1mg/2ml của công ty Dược
phẩm Trung ương II.
- Thuốc,dịch truyền,máu và dụng cụ hồi sức.
Kỹ thuật tiến hành
Thiết lập đường truyền tĩnh mạch, lắp máy
theo dõi: ECG, SpO2, huyết áp.
Tiến hành kỹ thuật gây tê:
Bệnh nhân nằm nghiêng hoặc ngồi, sát trùng
da vùng lưng sẽ gây tê bằng cồn 700. Gây tê tại chỗ
bằng Lidocaine 1%, đâm kim Tuohy 18G, xác định
khoang ngoài màng cứng bằng phương pháp mất
kháng lực, sau đó luồn dây qua kim Tuohy vào
khoang ngoài màng cứng sau khi bơm liều thử
3ml dung dịch Lidocaine 1% có Adrenalin
1/200000, sau đó rút kim Tuohy.
Đâm kim tê tuỷ sống 27 G (hoặc 25G) ngay
dưới hoặc cùng khe đâm kim ngoài màng cứng,
khi thấy nước não tuỷ chảy ra trong, bơm vào
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 3
khoang tuỷ sống 6-8 mg Marcaine 0,5% ưu
trọng, rút kim tê tuỷ sống.
Băng cố định dây luồn vào lưng bệnh nhân,
cho bệnh nhân nằm ngửa, thở ôxy qua mũi
5l/phút, tiếp tục bơm vào khoang NMC qua dây
luồn 6-8 ml dung dịch Marcaine 0,125% +
Fentanyl 2,5mcg/ml.
Sau khi đánh giá hiệu quả vô cảm đặt tư thế
bệnh nhân và bắt đầu phẫu thuật.
Tuỳ theo thời gian phẫu thuật ta có thể bơm
thêm dung dịch trên sau 1,5 h với 1,5 ml cho mỗi
khoang đốt sống.
Đánh giá hiệu quả mức vô cảm bằng dùng
ống thuốc để lạnh lên mặt da vùng chi được gây
tê so với vùng da ở vai bệnh nhân.
Theo dõi nhịp thở, mạch, huyết áp, SpO2,
tri giác.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1: Phân bố giới tính
Giới tính nam nữ
Tần số 22 43
Tỷ lệ % 34 66
Bệnh nhân nữ chiếm ưu thế hơn
Bảng 2: Tuổi, chiều cao
Stt Các thông số Trị số trung bình + ĐLC
Tuổi (năm) 68,4±12,5
2 Chiều cao (cm) 156,8±6,3
Tuổi bệnh nhân gặp trong nghiên cứu từ 39-
90 tuổi.
Bảng 3: Bệnh lý kèm theo
Stt Loại bệnh SL Tỷ lệ%
1 Tiểu đường 10 15,5
2 Tăng huyết áp 2 44,6
3 Thiếu máu cơ tim 10 15,5
4 Viêm phổi mãn tính 2 3
Trong nhóm nghiên cứu chúng tôi gặp bệnh
kèm theo nhiều, cao nhất là bệnh tăng huyết áp.
Bàng 4: Vị trí đâm kim
Kim Tuohy Kim tê tuỷ sống Kết quả (%)
L3-4 L4-5 40 (61,5)
L3-4 L3-4 20 (30,8)
L2-3 L3-4 5 (07,7)
Đâm kim tuỷ sống cùng khe liên đốt sống
với kim Tuohy chiếm tỷ lệ cao nhất (61,5%).
Bảng 5: Liều thuốc tê tuỷ sống
Liều lượng (mg) Số bệnh nhân Tỷ lệ %
6 25 38,5
7 30 46,1
8 10 15,4
Với bệnh nhân có chiều cao <1m60 chỉ dùng
6-7 mg, nhóm có chiều cao ≥1m60 chúng tôi
dùng 8mg.
Bảng 6: Các loại phẫu thuật
Stt Loại bệnh Số bệnh nhân Tỷ lệ%
1 Thay khớp háng toàn phần 15 23
2 Thay khớp háng bán phần 31 47,7*
3 Thay khớp gối 8 12,3
4 Kết hợp gãy thân xương đùi 11 17
Loại phẫu thuật cao nhất trong nghiên cứu là
thay khớp háng bán phần.
Bảng 7: Đặc điểm trong và sau mổ
Stt Các thông số Trị số trung
bình±ĐLC
1 Thời gian thực hiện kỹ thuật
tê (phút)
4,5± 0,9
2 Thời gian mất cảm giác đến
T12-L1 (phút)
3,2± 0,45
3 Thời gian lưu catheter (giờ) 36,8± 11,2
4 Lượng dịch truyền (ml) 750,15±16,6
5 Thời gian phẫu thuật (phút) 125,16±14,5
Bảng 8: Diễn biến trong lúc phẫu thuật
Thời điểm
Các thông số
Trước
mổ
Sau khi
gây tê
Trong lúc
mổ
P
HATĐ (mmHg) 142,4±
17,3
139,3±17,02 135±16,
HATT (mmHg) 84,6±11,3 84,4±11,4 75,5±11,3
Nhịp tim (ck/p) 87,9±10,6 78,8±11,8 73,7±11,9
Nhịp thở (ck/p) 20,25±8, 18,26±7,9 19,6±8,2
>0,05
HATĐ: huyết áp tối đa; HATT: huyết áp tối thiểu.
Bảng 9: Thay đổi tri giác
Tỉnh táo hoàn
toàn
Ngủ gọi gọi
tỉnh ngay
Ngủ li bì
Số bệnh nhân 64 1 0
Tỵ lệ % 98,4 1,6 0
Biến chứng trong và sau mổ
Bảng 10: Tỷ lệ hạ huyết áp (HA) trong mổ
Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Không hạ HA 63 96,9
Có hạ HA 2 3,1
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 4
HA: huyết áp
Bảng 11: Tỷ lệ lạnh run trong mổ
Có lạnh run Không lạnh run
Số bệnh nhân 10 45
Tỷ lệ% 31 69
Bảng 12: Tỷ lệ đau đầu sau mổ
Có đau đầu Không đau đầu
Số bệnh nhân 1 64
Tỷ lệ % 1,6 98,4
BÀN LUẬN
Từ tháng 6 đến tháng 9/2007 tại bệnh viện
Chấn thương Chỉnh hình Quốc tế Sài Gòn (SAI
GON-ITO) chúng tôi đã nghiên cứu được 65 bệnh
nhân phẫu thuật Chỉnh hình vùng chi dưới.
Bệnh nhân chúng tôi nghiên cứu có độ tuổi
từ 39-90 tuổi, trung bình 68,4±12,5 chúng tôi gặp
đa số bệnh nhân ở độ tuổi từ 65-85, với chiều cao
trung bình 156,8±6,3 cm. Ở độ tuổi này bênh
nhân có nhiều bệnh lý kèm theo như tăng huyết
áp, tiểu đường, bệnh thiếu máu cơ tim(6,2,12). Số
bệnh nhân nữ cao hơn nam chiếm tỷ lệ 66%
(nữ/nam= 43/22).
Phân loại theo bệnh
Trong nghiên cứu của chúng tôi gặp bệnh lý
về khớp háng khá phổ biến, 43 bệnh nhân trên
tổng số 65 mẫu nghiên cứu, trong đó thay khớp
háng toàn phần 12 trường hợp chiếm tỷ lệ 23%,
thay khớp háng bán phần 31 trường hợp chiếm
tỷ lệ 47,7 %. Ngoài ra chúng tôi gặp 8 trường
hợp thay khớp gối toàn phần chiếm tỷ lệ 12,3 %.
Bệnh lý kèm theo
Theo bảng 3 trong kết quả nghiên cứu cho
thấy đa số bệnh nhân chúng tôi gặp đều có bệnh
lý nội khoa kèm theo như tiểu đường
chiếm15,5%, bệnh tăng huyết áp chiếm 44,6%,
bệnh lý tim mạch chiếm 15%, bệnh về hô hấp
3%. Các bệnh lý đi kèm chúng tôi cho điều trị
theo chuyên khoa ổn định và xử tri tốt trong và
sau mổ. Chính vì thế mà ngành Gây mê Hồi sức
đã rất kịp thời phát triển nhằm đáp ứng với tiến
bộ của các chuyên ngành khác trong giới Y học,
góp phần vào sự thành công trong điều trị.Vì
vậy lựa chọn phương pháp vô cảm cho các loại
phẫu thuật Chỉnh hình vùng chi dưới trong
nghiên cứu này nhằm ổn định huyết động trong
và sau phẫu thuật,đảm bảo không đau, không
ảnh hưởng trên hô hấp và tuần hoàn của bệnh
nhân là phù hợp(8,7).
Liều lượng thuốc tê Bupivicaine và fentanyl
Liều lượng thuốc tê đưa vào khoang dưới
nhện (tuỷ sống) cao nhất là 8mg ở nhóm bệnh
nhân có chiều cao trên 1,60m và từ 6-7 mg cho
nhóm bệnh nhân có chiều cao dưới 1,60m cùng
với liều bơm vào khoang ngoài màng cứng từ 6-
8ml dung dịch Bupivicaine 0,125% với Fentanyl
2,5 mcg/ml (dung dịch BF). Như vậy liều thuốc
chúng tôi sử dụng trong nhóm nghiên cứu thấp
mà vẫn đảm bảo vô cảm tốt, kết quả này cũng
tương tự kết quả của Nguyễn Thành Vinh,
Nguyễn Văn Chừng.
Hiệu quả vô cảm trong phẫu thuật
Trong nghiên cứu chúng tôi có tỷ lệ mất cảm
giác đau đến T12-L1 (bảng 7), đây là mức vô cảm
tốt cho phẫu thuật từ ngang vùng bụng dưới trở
xuống chân, hiệu quả đạt mức vô cảm tối ưu cho
phẫu thuật Chỉnh hình chi dưới trong nhóm
nghiên cứu của chúng tôi, với thời gian phẫu
thuật có thể kéo dài hơn(1,11). Kết quả này cao hơn
kết quả của Huỳnh Văn Chương, Lê Văn Chung
và CS (2005), cũng tương đương với kết quả của
Lê Minh Tâm (2007). Theo chúng tôi phương
pháp gây tê ngoài màng cứng và gây tê tuỷ sống
kết hợp có hiệu quả vô cảm đảm bảo cho phẫu
thuật và có tác dụng giảm đau sau mổ khá cao.
Về kỹ thuật gây tê chúng tôi thực hiện trong
vòng 4-7 phút (trung bình 4,5 phút), không có
trường hợp nào thất bại trong nhóm nghiên cứu,
với thời gian xuất hiện mất cảm giác đau ngang
vùng chi phối từ T12-L1 sau khi hoàn tất kỹ thuật
tê trung bình là 4,2 phút, kết quả này cũng tương
đương với đa số các tác giả(3,7,11).
Diễn biến trong quá trình phẫu thuật
Với thời gian phẫu thuật trung bình 125,16 ±
14,5 phút chúng tôi không cần cho thêm liều
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 5
thuốc vào khoang ngoài màng cứng với đa số
trường hợp. Duy có 2 trường hợp phẫu thuật
kéo dài trên 4 giờ, chúng tôi bơm thêm vào
khoang ngoài màng cứng 5ml dung dịch đã pha
sẵn và có hiệu quả tốt. Chúng tôi duy trì liều
2ml-4ml/h đề tiếp tục giảm đau sau mổ.
Diễn biến về hô hấp và tim mạch trong
lúc mổ
Theo bảng 8 trong kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy các chỉ số về huyết áp, nhịp
tim, nhịp thở ở các thời điểm trước lúc mổ, sau
khi làm kỹ thuật tê và trong quá trình mổ đều
không khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê
với p> 0,05. Đây cũng là ưu việt của phương
pháp gây tê NMC-TS phối hợp vì nó giảm
được liều thuốc tê vào khoang tuỷ sống và cả
khoang ngoài màng cứng(12,11).Tuy nhiên trong
nhóm nghiên cứu của chúng tôi hầu hết không
có dấu hiệu mất máu đến mức cần phải truyền
máu. Cũng trong kết quả nghiên cứu của
chúng tôi lượng dịch truyền trong mổ không
cao, trung bình 750,15 ml dung dịch tinh thể,
vì bệnh nhân của chúng tôi đa số lớn tuổi, có
bệnh lý kèm theo nhiều, hơn nữa chúng tôi sử
dụng liều thuốc Bupivacaine và fentanyl thấp
nên hầu như không ảnh hưởng đến huyết
động học,lượng dung dịch tinh thể chúng tôi
truyền cho bệnh nhân chỉ là đủ nhu cầu sinh lý
bình thường.Với nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi
áp dụng kỹ thuật gây tê ngoài màng cứng và
gây tê tuỷ sống phối hợp (CSEA) có hiệu quả
giảm đau và ổn định về các chức năng sống
của bệnh nhân trong quá trình phẫu
thuật,không những thế sau mổ chúng ta tiếp
tục kiểm soát đau của bệnh nhân mà không
cần dùng các loại thuốc giảm đau toàn thân
khác trong nhóm nghiên cứu của chúng
tôi(9,3,7). Bệnh nhân thấy thoải mái sau
mổ,chúng tôi lưu dây trong khoang mgoài
màng cứng trên 35 giờ.
Tri giác bệnh nhân trong lúc mổ
Hầu hết bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu
đều không có thay đổi về mặt tri giác trong suốt
quá trình phẫu thuật, duy chỉ có một trường hợp
thay đổi do hạ huyết áp và mất máu nhiều
chúng tôi đã xử trí kịp thời.
Diễn biến không mong muốn
Trong nhóm nghiên cứu có 2 trường hợp hạ
huyết áp chiếm 3,1% (bảng 10) trong đó một do
mất máu, chúng tôi phải truyền 3 đơn vị máu và
sử dụng 40mg Ephedrine, sau đó ổn định. Tỷ lệ
lạnh run trong mổ chúng tôi gặp 10 trường hợp
(31%) sau khi tiêm 20 mg Pethidine tĩnh mạch
bệnh nhân hết run và ổn định.Sau mổ ngày thứ 2
gặp một trường hợp đau đầu, chúng tôi bơm 3ml
máu tự thân vào khoang ngoài màng cứng kết hợp
truyền dịch sau khi xử trí bệnh nhân ổn định.
KẾT LUẬN
Qua thời gian nghiên cứu kỹ thuật gây tê
ngoài màng cứng và gây tê tuỷ sống phối hợp cho
phẫu thuật Chỉnh hình tại bệnh viện SÀI GÒN -
ITO chúng tôi có một số nhận xét như sau:
- Gây tê ngoài màng cứng và gây tê tuỷ sống
phối hợp là phương pháp có hiệu quả vô cảm tốt
cho phẫu thuật Chỉnh hình chi dưới, có thể đảm
bảo vô cảm cho cuộc phẫu thuật kéo dài hơn.
Với phương pháp này bệnh nhân ổn định về tim
mạch và hô hấp trong mổ, ít tai biến.
- Là phương pháp vô cảm vừa có thể phát
huy được những ưu điểm của gây tê tuỷ sống và
gây tê ngoài màng cứng, đồng thời cũng giúp
khắc phục được nhược điểm của mỗi phương
pháp riêng biệt.
- Cũng với phương pháp vô cảm nêu trên có
thể áp dụng cho bệnh nhân lớn tuổi trong phẫu
thuật vùng chi dưới và duy trì giảm đau sau mổ
có hiệu quả và an toàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Collins C.Orthopaedic surgery.In.Allman KG.Oxford
handbook of anaesthesia 2002:469-486.
2. Công Quyết Thắng (2002) :Thuốc tê.Bài giảng Gây mê Hồ
sức tập I.NXB Y học, tr:531-549.
3. Huỳnh Văn Chương, Lê Văn Chung, Nguyễn Trung
Cường, Nguyễn Trung Thành, Huỳnh Văn Bình (2005).
Gây tê tuỷ sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng trong
phẫu thuật và giảm đau sau mổ. Y học Tp.HCM, Hội nghị
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 6
khoa học kỹ thuật Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, tập san
số 3,tr:129-135
4. Klainman W. Spinal, Epidural and caudal blocks. In:
Morgan GE. Clinical anesthesiology.3rd. McGraw-Hill;
2002: 253-282.
5. Lê Minh Tâm,Vũ Thị Nhung (2007). Gây tê tuỷ sống-ngoài
màng cứng phối hợp liều thấp trong phẫu thuật điều trị sa
sinh dục trên bệnh nhân cao tuổi. Y Học Tp.Hồ Chí Minh,
chuyên đề Nội khoa,tập 11,tr: 37-43.
6. Nguyễn Kim Long, Nguyễn Văn Chừng (2005). Gây tê tuỷ
sống với Bupivacaine tăng trọng để mổ vùng hậu môn
trực tràng.Y học Tp.HCM, chuyên đề Gây mê Hồi sức, tập
9, tr: 123-127.
7. Nguyễn Thành Vinh, Nguyễn Văn Chừng (2005). Gây tê
tuỷ sống và gây tê ngoài màng cứng phối hợp để giảm
đau trong và sau mổ. Y Học Tp.Hồ Chí Minh, chuyên đề
Gây mê Hồi sức, tr:51-57.
8. Nguyễn Thụ (2002). Thuốc tê tại chỗ. Thuốc sử dụng trong
Gây mê. NXB Y học, tr:269-301.
9. Nguyễn Văn Chinh, Tô Văn Thình, Nguyễn Văn Chừng:
(2005). Giảm đau trong chuyển dạ bằng tê ngoài màng
cứng phối hợp thuốc tê và thuốc giảm đau trung ương. Y
học Tp.HCM, chuyên đề Gây mê Hồi sức, tập 9, tr:22-28.
10. Nguyễn Văn Chừng, Nguyễn Hồng Sơn, Trần Thị Phượng
(2005). Gây tê khoang cùng phối hợp gây mê cho phẫu
thuật Chỉnh hình Nhi. Y học Tp.HCM, chuyên đề Gây mệ
Hồi sức, tập 9, tr 96-100.
11. Raymond Wee-Lip Goy, Mmed, and Alex Tiong-Heng Sia,
Mmed. Sensorimotor Anesthesia and hypotension Apter
Subarachnoid Block: Combined Spinal-Epidural versus single
shot spinal technique. Anesth. Analg. 2004; 98: 491-496.
12. Riegler FX. Spinal anesthesia. Priciples and practice of
anesthsiology, 2nd eds, vol 2.1998: 1363-1391.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 7
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gay_te_ngoai_mang_cung_va_gay_te_tuy_song_phoi_hop_trong_pha.pdf