(iv) Cần hướng đến bảo vệ uy tín
của hệ thống thuế. Do đó nên thận trọng
lập kế hoạch cho một sự việc với chiều
hướng có sự gia tăng trong tranh cãi về
thuế với các quốc gia phát triển cũng vì
khác biệt (hay diễn giải) Mẫu của từng
quốc gia.
(v) Do kết quả trực tiếp của Mẫu
quốc gia mang lại (các thông tin quan
trọng - mang tính so sánh và chiều sâu -
của người nộp thuế được trình bày trên
các Mẫu này mà cơ quan thuế có được),
cơ quan thuế sẽ gia tăng các cuộc thanh
kiểm tra đối với người nộp thuế. Với
động thái này, đòi hỏi cơ quan thuế
cũng xây dựng thêm các quy trình thanh
kiểm tra theo kinh nghiệm (cần thiết)
của họ. Do đó khả năng xuất hiện nhiều
phiên bản của Mẫu ở mỗi quốc gia
(giống như khuôn Mẫu nội bộ của mỗi
cơ quan thuế địa phương), trường hợp
này ngành thuế cần lên kế hoạch cấp
bách chuẩn bị cho nguồn nhân lực bổ
sung (thanh tra viên) hầu nhằm đáp ứng
nhu cầu này.
(vi) Đối với hoạt động giá chuyển
nhượng của các tập đoàn trong nước:
Riêng việc miễn, giảm thuế ở các khu
công nghiệp (hoặc các địa bàn khác)
dành cho các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh (khác nhau) có sự khác
nhau. Từ đó cũng khuyến khích sự
chuyển giá giữa các thành viên trong
tập đoàn. Nên chăng tại Việt Nam cần
xem xét Báo cáo tài chính hợp nhất tập
đoàn và xem thêm giải pháp cho phép
tập đoàn như một tư cách pháp nhân
nộp thuế khi thỏa mãn một số điều kiện
phù hợp luật thuế hiện hành. Điều này
làm giảm việc mở công ty con hoặc
doanh nghiệp thành viên để chuyển giá
và làm tăng phí xã hội.
(vii) Cuối cùng, cần cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh lành mạnh hơn
nữa thông qua việc tăng cường công tác
thanh tra thuế các doanh nghiệp có dấu
hiệu vi phạm trong lĩnh vực giá chuyển
nhượng, trốn thuế, hướng đến hệ thống
thuế công bằng và minh bạch.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 332 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá chuyển nhượng - nhận diện những nguy cơ thách thức và phản ứng của các bên liên quan trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482
42
GIÁ CHUYỂN NHƯỢNG - NHẬN DIỆN NHỮNG NGUY CƠ
THÁCH THỨC VÀ PHẢN ỨNG CỦA CÁC BÊN LIÊN QUAN
TRONG KỶ NGUYÊN HỘI NHẬP TOÀN CẦU
Quách Nguyễn Ân Điển1
TÓM TẮT
Thuế là nguồn thu ngân sách rất cơ bản và quan trọng của một quốc gia. Ngày
nay, các nước trên thế giới luôn quan tâm đến việc nuôi dưỡng nguồn thu từ thuế,
đồng thời cũng ra sức chống lại việc thất thu thuế. Đối với các nước giàu có và phát
triển, điển hình là nhóm các nước G20, họ đã có những hoạt động hợp tác liên kết
chặt chẽ trong việc ngăn chặn việc “trốn thuế/tránh thuế” của đối tượng nộp thuế.
Hiện tại, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (tên viết tắt tiếng Anh là OECD) - là
một tổ chức quốc tế được hình thành từ nhóm các nước G20 - đã xây dựng Kế hoạch
hành động chống xói mòn lợi nhuận và chuyển lợi nhuận (Action Plan on Base
Erosion and Profit Shifting - viết tắt là BEPS). Cũng theo đề án BEPS, hoạt động giá
chuyển nhượng (transfer pricing) là một trong những nội dung đáng quan ngại bởi vì
mức độ phức tạp và phạm vi toàn cầu của nó. Bài viết này tập trung khái quát và làm
rõ những nguy cơ thách thức đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm hạn chế rủi
ro về thuế nói riêng và tài chính nói chung.
Từ khóa: Giá chuyển nhượng, BEPS, OECD, tối ưu hóa về thuế, tránh đánh thuế
1. Sơ lược những con số thất thu
tiền thuế từ hoạt động giá chuyển
nhượng (Transfer Pricing) của các
tập đoàn đa quốc gia trên thế giới và
tại Việt Nam
Trên trang điện tử của tờ Le Monde
có trích dẫn: “Theo các ước tính của
nhà kinh tế Gabriel Zucman, tác giả của
cuốn La richesse cachée des nations (Của
cải che giấu của các quốc gia) (NXB
Seuil, 2017), thì có 0,01% những người
giàu nhất thế giới thành công trong việc
né tránh 30% tiền thuế mà đáng lý họ
phải trả” [1]. Tại trang điện tử
baomoi.com vào đầu năm 2019, theo
Nghị viện châu Âu, thiệt hại do lậu thuế
đối với 28 nước thành viên ước tính
1.000 tỷ Euro hằng năm. Riêng thủ
thuật “tối ưu hóa về thuế” gây thiệt hại
từ 50 đến 70 tỷ, theo Ủy ban châu Âu,
trên quy mô toàn cầu, một số tính toán
ước đoán thiệt hại có thể lên tới 20, 30
nghìn tỷ Euro (tức hơn cả GDP của
nước Mỹ) [2].
Còn theo trang điện tử của Tạp chí
Nhà đầu tư, phát biểu tại hội thảo
“Chia sẻ báo cáo công bằng thuế nhìn
từ hoạt động của các tập đoàn, ngân
hàng đa quốc gia” do Oxfam tổ chức,
bà Babeth Ngoc Han Lefur, Giám đốc
Quốc gia, tổ chức Oxfam tại Việt Nam
cho biết: “100 tỷ USD là con số mà các
nước đang phát triển (bao gồm Việt
Nam) đang bị thất thu hằng năm do
hoạt động tránh thuế của các tập đoàn
đa quốc gia” [3].
Nhìn từ Việt Nam, tình hình cũng
không ngoại lệ, theo trang điện tử
cafef.vn thì vụ việc lỗ triền miên của
tập đoàn đa quốc gia Coca-Cola đã gây
sự chú ý của dư luận trong nước (đã có
lúc dư luận kêu gọi người tiêu dùng tẩy
1Hội Kế toán tỉnh Đồng Nai
Email: qandien@yahoo.com
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482
43
chay Coca-Cola vì hành vị trốn
thuế/tránh thuế). Dẫn lời thông tin từ
bài báo, số liệu Cục thuế TP. Hồ Chí
Minh cho biết Coca-Cola bắt đầu hoạt
động ở Việt Nam năm 1992, công ty
này liên tục báo lỗ cho đến cuối năm
2012. Cũng theo phân tích, đánh giá của
Cục thuế TP. Hồ Chí Minh thì việc thua
lỗ của Coca-Cola Việt Nam không phải
do tăng trưởng doanh số yếu, trên thực
tế, sản lượng của công ty vẫn tăng
trưởng trên 25% mỗi năm. Đến thời
điểm tháng 12/2012, tổng số lỗ lũy kế
của Coca-Cola Việt Nam lên đến 3.768
tỷ đồng, vượt quá số vốn đầu tư ban đầu
2.950 tỷ đồng, rõ ràng, Coca-Cola đã
làm mất hoàn toàn vốn của mình và lâm
vào cảnh phá sản, thế nhưng ngược lại,
năm 2014 Coca-Cola tiếp tục đầu tư
thêm 210 triệu USD để mở rộng kinh
doanh ở Việt Nam. Điều này đặt ra cho
các cơ quan thuế Việt Nam về nghi án
chuyển giá của công ty này (dễ thấy
rằng 210 triệu USD được tài trợ từ công
ty mẹ ở nước ngoài và cũng chính là
những khoản tiền lãi thực của Coca-
Cola (Việt Nam) chuyển về công ty mẹ
thông qua hoạt động chuyển giá mà họ
không phải đóng một đồng thuế nào tại
Việt Nam). Tuy nhiên, tại thời điểm đó,
bằng chứng để chứng minh Coca-Cola
Việt Nam chuyển giá là rất yếu [4].
Sơ lược những con số thất thu về
thuế như trên để cho thấy trên thế giới
vấn đề “bất công thuế khóa” nói chung
và hoạt động giá chuyển nhượng nói
riêng là điều đáng quan ngại và ẩn chứa
nhiều nguy cơ thách thức, sự việc này
cần được các quốc gia có trách nhiệm
quan tâm nhiều hơn nữa.
2. Khái niệm “thiên đường
thuế”, “tối ưu hóa về thuế”, “mẫu hồ
sơ”, “giá chuyển nhương”, “giao dịch
liên kết” và “giao dịch độc lập”
2.1. Thiên đường thuế
Thiên đường thuế (offshore
financial centre) là một thuật ngữ được
diễn giải trong loạt bài trong “Hồ sơ
Paradise” do tờ báo Le Monde (Pháp)
đăng tải (một số nhà kinh tế học trên thế
giới còn gọi là “Tài chính hải ngoại”).
Theo đó, thiên đường thuế: quốc gia
hay lãnh địa có một số thuế suất cực
thấp, thậm chí là không đánh thuế và
dung dưỡng một cách không minh bạch
nhất định cho những ai (cá nhân hay tổ
chức) sở hữu các tài khoản tại đây (ví
dụ quốc gia Panama nằm tại Trung Mỹ
là một thiên đường về thuế). Định nghĩa
thiên đường thuế thay đổi theo từng thời
kỳ và quan điểm của tổ chức xác định
các thiên đường thuế.
2.2. Tối ưu hóa thuế
Tối ưu hóa thuế (optimisation fiscal)
nghĩa là sử dụng những phương tiện
hợp pháp để làm giảm tiền thuế phải
đóng, thậm chí để thoát nghĩa vụ thuế.
Điều này đòi hỏi phải nắm vững luật
pháp và những kẻ hở của hệ thống này.
Tối ưu hóa thuế được các cá nhân cũng
như các doanh nghiệp, thường là các
công ty đa quốc gia, vận dụng.
Ở bình diện khác, “tối ưu hóa thuế”
thực ra là một tên gọi “mỹ miều” của
thuật ngữ “tránh đánh thuế (tax
avoidance)”, đó là việc giảm nghĩa vụ
pháp lý về thuế của một đối tượng nộp
thuế. “Tránh đánh thuế” không phải là
gian lận thuế, mặc dù đôi khi cũng có
một vài nhận thức như vậy. Việc “tránh
đánh thuế” tập trung vào những kẽ hở
pháp luật cho phép, thế nhưng cũng có
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482
44
rất nhiều người cho rằng “tránh đánh
thuế” là một việc làm không có đạo đức.
Về tương lai, luật pháp phải tìm cách
đóng những kẽ hở này lại, đó là một việc
làm tất yếu và mang tính lịch sử. Ví dụ
như trường hợp một công ty thay vì phải
huy động thêm vốn cổ đông để thực hiện
tăng trưởng kinh doanh họ có thể chọn
phương án vay vốn ngân hàng (hoặc sử
dụng phương thức Trái phiếu chuyển
đổi) để tạo ra lá chắn thuế. Lá chắn thuế
là khoản giảm thu nhập chịu thuế của
một cá nhân hay doanh nghiệp đạt được
thông qua công khai những khoản khấu
trừ được phép như: lãi vay, chi phí y tế,
đóng góp từ thiện và khấu hao.
2.3. Giá chuyển nhượng
Giá chuyển ngượng (transfer
pricing) - thường được giới chuyên môn
Việt nam gọi là chuyển giá - được hiểu
là việc thực hiện chính sách giá đối với
hàng hóa, dịch vụ và tài sản được
chuyển dịch giữa các thành viên trong
tập đoàn hoặc giữa các công ty con với
nhau hoặc công ty con với công ty mẹ
trong phạm vi quốc gia hoặc ngoài
phạm vi quốc gia không theo giá thị
trường, nhằm tối thiểu hóa số thuế (của
các công ty) phải nộp cho nhà nước [5].
Ví dụ, một công ty mẹ ở nước ngoài
bán một tài sản cố định cho một công ty
con ở Việt nam với trị giá tài sản đó là
X USD, như vậy trị giá X USD này
được cơ quan thuế xem xét như là một
“giá chuyển nhượng”, đây cũng được
gọi là một “giao dịch liên kết”.
2.4. Mẫu hồ sơ thuế
Mẫu hồ sơ thuế (Country by
Country Report - CbC Report), gọi tắt
là “Mẫu”, là “Báo cáo lợi nhuận liên
quốc gia của công ty mẹ tối cao” (viết
tắt là “Báo cáo lợi nhuận liên quốc
gia”), được đề xuất bởi OECD, là báo
cáo nhằm cung cấp thông tin chung về
việc phân bổ thu nhập toàn cầu của tập
đoàn đa quốc gia và thuế đã nộp tại các
quốc gia của tập đoàn [6, tr. 29]. Tại
Việt Nam, Mẫu được lập theo quy định
tại Mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị
định số 20/2017/NĐ-CP [7].
2.5. Giao dịch liên kết
Giao dịch liên kết (related
transactions) là giao dịch phát sinh giữa
các bên có quan hệ liên kết trong quá
trình sản xuất, kinh doanh, bao gồm:
mua, bán, trao đổi, thuê, cho thuê, mượn,
cho mượn, chuyển giao, chuyển nhượng
máy móc, thiết bị, hàng hóa, cung cấp
dịch vụ; vay, cho vay, dịch vụ tài chính,
đảm bảo tài chính và các công cụ tài
chính khác; mua, bán, trao đổi, thuê, cho
thuê, mượn, cho mượn, chuyển giao,
chuyển nhượng tài sản hữu hình, tài sản
vô hình và thỏa thuận sử dụng chung
nguồn lực như hợp lực, hợp tác khai thác
sử dụng nhân lực; chia sẻ chi phí giữa
các bên liên kết [7].
2.6. Giao dịch độc lập
Giao dịch độc lập là giao dịch giữa
các bên không có quan hệ liên kết [7].
3. Sơ lược về những quy định
pháp luật và quy mô quản lý, kiểm
soát hoạt động giá chuyển nhượng tại
Việt Nam hiện nay
3.1. Cơ sở pháp lý hiện hành
Về Bộ luật, chúng ta có Luật Giá
số: 11/2012/QH13 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày
20 tháng 6 năm 2012.
Trong lĩnh vực giá chuyển nhượng:
Ngày 20/02/2017, Chính phủ đã ban
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482
45
hành Nghị định 20/2017/NĐ-CP quy
định về quản lý thuế đối với doanh
nghiệp (DN) có giao dịch liên kết. Ngay
sau đó, ngày 28/04/2017, Bộ Tài chính
đã ban hành Thông tư số 41/2017/TT-
BTC hướng dẫn thực hiện một số điều
của Nghị định số 20/2017/NĐ-CP quy
định về quản lý thuế đối với DN có giao
dịch liên kết.
Tóm lại, hiện tại chúng ta chỉ có ba
văn bản quy phạm pháp luật cao nhất
được nêu trên đây dùng để điều chỉnh
các quan hệ xã hội (về giá).
3.2. Cách cơ quan thuế địa phương
quản lý hoạt động giá chuyển nhượng
Hiện tại, (theo Quyết định số
1286/QĐ-TCT ngày 11/7/2016) ngành
Thuế đã thành lập ban chỉ đạo và ba tổ
công tác tập trung nghiên cứu cơ chế
chính sách trong nước theo tiêu chuẩn và
thông lệ quốc tế, các quy định về giá
chuyển nhượng và hiệp định thuế, hợp
tác hành chính thuế theo hiệp định thế hệ
mới của OECD và Liên Hợp Quốc
Mặt khác, ngày 01/09/2015, với quyết
định số 1574/QĐ-TCT, Tổng cục Thuế
chính thức thành lập Phòng Thanh tra
giá chuyển nhượng tại bốn Cục thuế địa
phương có nhiều rủi ro liên quan đến giá
chuyển nhượng, gồm: Hà Nội, TP. Hồ
Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai.
Như vậy, về phạm vi địa phương
trong nước, chỉ với bốn địa bàn nói trên
trong cả nước, tuy đã có thành lập
Phòng Thanh tra giá chuyển nhượng,
nhưng căn bản nòng cốt nhân sự của
bốn phòng này là những cán bộ thanh
tra thuế được tuyển chọn từ các phòng
thanh tra thuế tại bốn Cục thuế trước
đây. Họ có điểm chung là những cán bộ
thuế có nhiều kinh nghiệm trong ngành,
tuy nhiên, với lĩnh vực mới chuyên
ngành hẹp là giá chuyển nhượng
(transfer pricing) thì họ chưa được đào
tạo qua trường lớp bài bản (ngắn hạn
hoặc dài hạn), mức độ va chạm thực tế
chưa nhiều, còn nhiều dè dặt. Đặc biệt,
cơ sở dữ liệu “giá thị trường” thu thập
được (phần lớn thông tin này là không
có sẵn) chưa được quản lý, tổ chức, sắp
xếp, phân loại, đánh giá một cách đồng
bộ và khoa học, chưa có ý nghĩa sử
dụng trong thực tiễn cao.
Do nước ta là một nước đang phát
triển, trước đây do chủ trương thu hút
đầu tư nước ngoài nên chưa có điều kiện
tham gia vào các liên minh hay các tổ
chức quốc tế (như OECD). Thậm chí
việc nghiên cứu và học tập cũng chưa
được chú trọng một cách bài bản và có
chiến lược. Hiện nay, Diễn đàn IF (diễn
đàn của OECD) cũng đã thiết lập một cơ
chế hợp tác chung thực hiện các giải
pháp của BEPS (Inclusive Framework -
viết tắt Diễn đàn IF). Tháng 7/2017, Việt
Nam đã chính thức trở thành thành viên
thứ 100 của Diễn đàn IF). Việt Nam
phấn đấu (theo lộ trình) cam kết thực
hiện tối thiểu 4 tiêu chuẩn (bảng 1).
Bảng 1: Bốn chuẩn mực điều kiện tham gia diễn đàn hợp tác chung BEPS đối
với các nước không phải là thành viên OECD
STT Chuẩn mực Ý nghĩa
1 Áp dụng các quy
định ngăn ngừa lợi
dụng Hiệp định thuế
(Hành động 6)
Giải pháp này được áp dụng thông qua việc thành lập
các công ty trung gian tại các nước /vùng lãnh thổ chỉ
với mục đích hưởng lợi về thuế theo quy định của
Hiệp định (các quy định về ưu đãi miễn giảm thuế)
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482
46
STT Chuẩn mực Ý nghĩa
2 Lập hồ sơ chứng
minh giá thị trường
và nghĩa vụ lập báo
cáo liên quốc gia
(Hành động số 13)
Hoạt động này để đảm bảo cơ quan thuế có đủ thông
tin cần thiết về lợi nhuận kinh doanh của các doanh
nghiệp đa quốc gia, nghĩa vụ thuế của tập đoàn và sử
dụng thông tin để phân tích giá thị trường của các sản
phẩm giao dịch liên kết và các rủi ro khác phát sinh từ
BEPS. Từ đó giúp cơ quan thuế tập trung nguồn lực
vào công tác thanh tra, kiểm tra giá chuyển nhượng
hiệu lực hiệu quả hơn
3 Thực hiện rà soát
chính sách ưu đãi,
miễn giảm thuế thu
hút vốn đầu tư
nhưng không phù
hợp với thông lệ
quốc tế (Hành động
số 5)
Theo OECD việc thực hiện các quy định, hướng dẫn
ưu đãi thiếu minh bạch cho từng đối tượng cụ thể sẽ
làm cho nước phát sinh thu nhập gặp khó khăn trong
việc áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ cơ sở
tính thuế. Đồng thời, đối với nước cư trú (của nhà đầu
tư), việc thực hiện quản lý thuế đối với đối tượng cư
trú sẽ thiếu hiệu quả nếu nước nguồn không cung cấp
các thông tin liên quan.
4 Cam kết tăng cường
giải quyết tranh
chấp về thuế theo
Hiệp định thuế
(Hành động 14)
Cam kết nhằm đảm bảo giải quyết tranh chấp hiệu quả
và kịp thời các vấn đề về thuế thông qua đàm phán
song phương giữa cơ quan thuế các nước
(Nguồn: [8])
4. Nhân diện những nguy cơ
thách thức
Bằng cách nghiên cứu các tài liệu
hướng dẫn cũng như nhận thức cách
tiếp cận và quan điểm của OECD; đồng
thời dựa vào những quy định pháp luật
hiện hành và quy mô quản lý, kiểm soát
hoạt động giá chuyển nhượng của
ngành thuế nước ta hiện nay; cùng với
những giới hạn cam kết về chuẩn mực
điều kiện áp dụng (Diễn đàn hợp tác
chung BEPS) cũng như khoảng cách về
không gian và thời gian (lộ trình) tại
Việt Nam, người viết xin nhận xét tóm
lược những nguy cơ thách thức (trong
tương lai gần) của hoạt động giá chuyển
nhượng như sau:
4.1. Đối với cơ quan thuế
(i) Về cơ bản, việc kiểm soát hoạt
động giá chuyển nhượng là kiểm toán
tuân thủ của cơ quan thuế thông qua các
cuộc thanh tra thuế dựa trên thông tin
về kê khai thuế do người nộp thuế (tổ
chức) cung cấp theo quy định của pháp
luật hiện hành. Do thông tin là một lĩnh
vực mang tính chất đặc thù. Hơn nữa,
ngày nay công nghệ 4.0 đã đi vào cuộc
sống, thông tin ngày nay mang những
đặc tính của thông tin số hóa, thực tế
đang là những nguy cơ thách thức cho
người sử dụng và khai thác nó. Thật
vậy, với thông tin số hóa, nguy cơ gian
lận xảy ra ở mức độ tinh vi khó lường
(bằng chứng dấu vết gian lận khó tìm
thấy), nguy cơ bị hacker (đánh cắp) dữ
liệu ngay cả cho cơ quan thuế; dữ liệu
của cơ quan thuế có thể bị lọt ra ngoài
(bởi người bên trong) một cách tinh vi
và khó kiểm soát Mặc khác, việc thu
thập các bằng chứng về những thông tin
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482
47
có thể định lượng được của một tổ chức
và đánh giá chúng nhằm thẩm định về
mức độ phù hợp giữa các thông tin đó
với các quy định của pháp luật về thuế
là một thách thức (gánh nặng) cho cơ
quan thuế nhất là trong thời điểm hiện
nay vì hiện nay, người nộp thuế cũng có
thể truy cập, tìm kiếm, mua bán dữ liệu
giá chuyển nhượng trên thị trường một
cách nhanh chóng (có khi có trước cơ
quan thuế). Ngoài ra, sự khác biệt giữa
luật thuế, kế toán giữa các quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới là một trở
ngại. Ví dụ: Công ty F thường trú tại
Việt Nam, có công ty mẹ tại Đức, tuy
nhiên do luật pháp của Đức quy định
nếu tổng doanh thu của công ty mẹ
(trong năm tài chính) không đến
ngưỡng nào đó thì không cần lập báo
cáo hợp nhất cho tập đoàn. Do vậy,
trong hồ sơ kê khai giao dịch liên kết,
mẫu số 03, số thứ tự 5 (Nghị định
20/2017/NĐ-CP), tài liệu cần cung cấp,
công ty F sẽ không cung cấp cho cơ
quan thuế báo cáo hợp nhất này. Như
vậy, cơ quan thuế Việt Nam không có
được thông tin “Kết quả kinh doanh và
nghĩa vụ thuế của tập đoàn” để so sánh
sự phân bổ thuế thu nhập doanh nghiệp
tại Việt Nam một cách đáng tin cậy.
(ii) “Còn thiên đường thuế thì còn
có hoạt động giá chuyển nhượng” là
một suy diễn hiển nhiên. Trên thế giới
hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều các
“thiên đường thuế” và nhiều quốc gia
vùng lãnh thổ vẫn chưa chịu tham gia
đầy đủ một các có trách nhiệm vào tổ
chức OECD. Lịch sử đã cho thấy, các
“thiên đường thuế” và các “chủ ngân
hàng” không phải lúc nào cũng sẵn sàng
với những cam kết về tính minh bạch
mà họ đưa ra. Bởi vì để khách hàng tôn
trọng chữ “tín” của mình, họ buộc phải
sử dụng những chiêu thức tránh né
(pháp luật thuế) mà không được cộng
đồng khuyến khích. Ngoài ra, ngay cả
khi một số nước cải thiện được cách
làm của họ dưới áp lực của cộng đồng
quốc tế thì khả năng lớn là nguy cơ các
nước khác ít bị kiểm soát hơn sẽ đảm
nhận tiếp vai trò của họ. Đây là một
nguy cơ hiện hữu bởi lẽ đối với các tập
đoàn đa quốc gia, họ thường đi trước
một bước so với pháp luật các nhà
nước. Nhờ có sự tư vấn của các công
ty luật chuyên về “tối ưu hóa thuế”, khi
“khe hở pháp luật” mà họ đang sử dụng
trong một nước bị lấp đi thì thường
họ đã tìm ra được một giải pháp thay
thế để tiếp tục đóng thuế ít hơn.
(iii) Sự bất đồng của các quốc gia,
thậm chí là các quốc gia trong khối kinh
tế - chính trị, bởi vấn đề lợi ích cốt lõi
(thu nhập quốc gia) bị ảnh hưởng. Cũng
theo trang điện tử baomoi.com, vừa
qua, cuối tháng 01/2019, theo cuộc họp
của nhóm các nghị sĩ đảng Xanh của
Nghị viện châu Âu: “Hiện có nhiều đề
xuất đang được thảo luận ở cấp độ châu
Âu để hướng tới việc đánh thuế doanh
nghiệp phù hợp hơn với các hoạt động
kinh tế. Tuy nhiên, các nước như
Ireland hay Luxembourg đang ngăn
chặn việc Liên minh châu Âu thông qua
một số quyết định mới trong lĩnh vực
này. Trong hồ sơ thuế, một đề xuất để
được thông qua phải nhận được sự đồng
thuận của 28 quốc gia thành viên” [2].
(iv) Theo David Ernick, hiệu trưởng
tại trường PwC (Mỹ) và là cựu cố vấn
thuế quốc tế tại Bộ Tài chính Hoa Kỳ,
khi thảo luận về “Country by Country
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482
48
Report” với các chuyên gia phân tích
thuế, ông cho rằng, với cách tiếp cận và
quan điểm của OECD có thể trong tương
lai sẽ có sự gia tăng tranh chấp (có thể
dẫn đến nhiều tranh chấp thuế xuyên
biên giới) giữa cơ quan thuế và người
nộp thuế; trọng tâm định giá chuyển
nhượng đã chuyển sang một thực thể đa
quốc gia phải cung cấp thông tin cấp cao
về chuỗi giá trị toàn cầu và phân bổ thu
nhập, hoạt động kinh tế và thuế đã nộp
giữa các quốc gia, mà những điều đó
hoàn toàn chưa chắc hoặc thường không
liên quan đến thỏa thuận giá chuyển
nhượng cụ thể [9]. Nhận định của David
Ernick không phải hoàn toàn không có
cơ sở, bởi thực tế, nhiều tập đoàn trên
thế giới, “hoạt động kinh tế” của họ
không hoàn toàn là “giao dịch liên kết”
mà họ còn có các giao dịch với bên thứ
ba độc lập (giao dịch độc lập). Việc bóc
tách loại trừ các thông tin không liên
quan đến hoạt động “giao dịch liên kết”
là một công việc khá rủi ro và nhiều
thách thức, đòi hỏi nhiều thông tin minh
bạch và chính xác. Cần lưu ý, việc leo
thang tranh chấp thuế có thể dẫn đến rủi
ro uy tín (lớn hơn) cho ngành thuế.
4.2. Đối với đối tượng nộp thuế
(các công ty, tập đoàn đa quốc gia)
(i) Sẽ là mối quan tâm đáng kể (đôi
khi là thách thức nghiêm trọng) với việc
kê khai Mẫu từng quốc gia. Đó là vấn
đề bảo mật thông tin, nhiều tập đoàn và
thành viên của họ tin rằng tồn tại ít nhất
một số khu vực pháp lý về thuế sẽ làm
cho thông tin được báo cáo công khai
hoặc thông tin đó sẽ bị rò rỉ cho công
chúng. Điều này gây cho họ những bất
lợi khó lường. Do đó, sự phản ứng của
họ là hiện hữu (rất hoài nghi) đối với cơ
quan thuế quản lý.
(ii) Với mẫu hồ sơ (theo quy định
của thuế Việt Nam thì là mẫu số 03 và
04 đính kèm Nghị định 20/2017/NĐ-CP)
bắt buộc đối tượng nộp thuế phải kê khai
(do OECD đề xuất phiên bản cuối cùng
(Action 13 country-by-country template)),
theo đó, Mẫu yêu cầu các công ty đa
quốc gia phải báo cáo hằng năm cho
từng khu vực pháp lý về thuế, trong đó
thông tin số tiền doanh thu, lợi nhuận
trước thuế thu nhập và thuế thu nhập đã
nộp và thuế thu nhập tích lũy. Nó cũng
yêu cầu các công ty này báo cáo tổng số
việc làm, vốn, lợi tức giữ lại và tài sản
hữu hình, vô hình của họ trong từng khu
vực thuế. Cuối cùng, các công ty đa
quốc gia phải xác định từng thực thể
trong tập đoàn của họ trong một khu vực
pháp lý thuế cụ thể và mô tả các hoạt
động kinh doanh của mỗi thành viên đó,
đây chắc chắn là một thách thức (gánh
nặng tuân thủ) quá lớn đối các nhà đầu
tư đa quốc gia.
(iii) Một mối quan tâm không kém
phần quan trọng khác được thể hiện bởi
cộng đồng thuế là liệu cơ quan thuế
từng nơi có thể sử dụng không đúng
Mẫu quốc gia để quy kết thu nhập cho
công ty (thực thể) hay không, ngay cả
khi công ty không duy trì sự hiện diện
chịu thuế trong phạm vi quyền hạn đó.
(iv) Thay vì loại bỏ thuế hai lần giữa
các khu vực tài phán, thuế kép (đánh
thuế gấp đôi) có thể được xảy ra, bởi vì
các khuyến nghị của Kế hoạch hành
động BEPS có thể sẽ được diễn giải
khác nhau giữa các khu vực pháp lý thuế
khác nhau. Do đó, các quốc gia có thể
thực hiện các biện pháp đơn phương bao
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482
49
gồm các quy tắc chống lạm dụng chung
về: các hạn chế khấu trừ lãi, các quy tắc
liên quan đến việc tránh né các cơ sở
thường trú, nguyên tắc thận trọng do tính
phức tạp của sự việc và các quy tắc cơ
chế kiểm soát chặc chẽ của tập đoàn.
(v) Trong tương lai, rất nhiều công
ty đa quốc gia nhận được kỳ vọng của cơ
quan thuế (có số thu ngân sách lớn), họ
sẽ thấy sự gia tăng đáng kể trong việc
thanh tra thuế địa phương do kết quả
trực tiếp của Mẫu quốc gia mang lại.
4.3. Đối với cả các bên liên quan
(i) Truyền thông trong thời đại kỷ
thuật số cũng là một nguy cơ thách
thức. Sự tham gia của báo chí, các
blogger, nhà hoạt động xã hội và các tổ
chức phi chính phủ hiện tại là vô tiền
khoáng hậu. Ngoài ra, còn có lỗ hổng
ẩn giấu trong việc quản lý thông tin bí
mật giữa các chính phủ, cũng như
chuyển giao thông tin và chia sẻ rủi ro
bảo mật xuyên biên giới. Với số lượng
chính phủ sẽ nhận được thông tin này
hằng năm, rò rỉ cho báo chí là không thể
tránh khỏi.
(ii) Tài sản vô hình (TSVH) khó
định lượng, mặc dầu OECD đã có điều
chỉnh phương pháp hướng dẫn xác định
giá trị TSVH cho phù hợp với điều kiện
thực tế của các quốc gia trên thế giới.
Tại Việt Nam, vấn đề định giá TSVH
vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém, dễ
xảy ra nhiều tranh chấp về thuế.
Nguyên nhân là cơ quan thẩm định giá
thiếu các dữ liệu về kinh tế vĩ mô và vi
mô làm đầu vào cho mọi kỹ thuật định
giá. Bên cạnh đó, chưa có thị trường
giao dịch và các thông tin của các
TSVH giao dịch trên thị trường, để làm
tham chiếu cho TSVH cần định giá; Hệ
thống tiêu chuẩn định giá vẫn còn bộc
lộ hạn chế.
5. Những giải pháp về quản lý
thuế giá chuyển nhượng hướng đến
kỷ nguyên hội nhập quốc tế
5.1.Về phía cơ quan thuế
Ngành Thuế nên chủ động thích
ứng kịp thời với những tác động của
quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng,
trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số
giải pháp quản lý thuế sau đây:
(i) Tăng cường hợp tác quốc tế
nhằm nhận được sự hỗ trợ, chia sẻ kinh
nghiệm cũng như chuyển giao thông tin
và chia sẻ rủi ro bảo mật xuyên biên
giới với các quốc gia trong Diễn đàn IF.
(ii) Quy hoạch và xây dựng cho
ngành thuế một cơ sở dữ liệu giá
chuyển nhượng thị trường theo quy mô
tầm quốc tế đáp ứng theo xu thế hội
nhập sâu rộng. Trong trường hợp dữ
liệu khó kiếm, khó được chia sẻ, nhà
nước cần phải tổ chức mua dữ liệu từ
các tổ chức chuyên nghiệp và có uy tín
trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó,
ngành thuế cũng cần có quy trình bảo
mật dữ liệu nội bộ một cách nghiêm
ngặt và hữu hiệu (hiện tại Việt Nam đã
có luật An ninh mạng).
(iii) Cơ quan thuế cần chủ động
khuyến khích và tạo sự hài hòa giữa các
bên (người nộp thuế và cơ quan thuế)
để người nộp thuế mạnh dạn chủ động
cung cấp dữ liệu bằng cách xem xét và
yêu cầu người nộp thuế chỉ cung cấp
những dữ liệu liên quan đến hoạt động
chuyển giá có nguy cơ rủi ro về thuế và
ngược lại. Ví dụ, có những thông tin
thuộc về bí mật kinh doanh (rất dễ ảnh
hưởng đến tương lai của người nộp
thuế), mà các thông tin này cơ quan
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482
50
thuế có thể hiểu biết hoàn toàn không
liên quan gì đến hồ sơ chuyển giá
nhưng buộc người nộp thuế cung cấp là
không thể hiện sự hài hòa. Cơ quan thuế
nên cần biết tạo và giữ niềm tin cho
người nộp thuế.
(iv) Cần hướng đến bảo vệ uy tín
của hệ thống thuế. Do đó nên thận trọng
lập kế hoạch cho một sự việc với chiều
hướng có sự gia tăng trong tranh cãi về
thuế với các quốc gia phát triển cũng vì
khác biệt (hay diễn giải) Mẫu của từng
quốc gia.
(v) Do kết quả trực tiếp của Mẫu
quốc gia mang lại (các thông tin quan
trọng - mang tính so sánh và chiều sâu -
của người nộp thuế được trình bày trên
các Mẫu này mà cơ quan thuế có được),
cơ quan thuế sẽ gia tăng các cuộc thanh
kiểm tra đối với người nộp thuế. Với
động thái này, đòi hỏi cơ quan thuế
cũng xây dựng thêm các quy trình thanh
kiểm tra theo kinh nghiệm (cần thiết)
của họ. Do đó khả năng xuất hiện nhiều
phiên bản của Mẫu ở mỗi quốc gia
(giống như khuôn Mẫu nội bộ của mỗi
cơ quan thuế địa phương), trường hợp
này ngành thuế cần lên kế hoạch cấp
bách chuẩn bị cho nguồn nhân lực bổ
sung (thanh tra viên) hầu nhằm đáp ứng
nhu cầu này.
(vi) Đối với hoạt động giá chuyển
nhượng của các tập đoàn trong nước:
Riêng việc miễn, giảm thuế ở các khu
công nghiệp (hoặc các địa bàn khác)
dành cho các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh (khác nhau) có sự khác
nhau. Từ đó cũng khuyến khích sự
chuyển giá giữa các thành viên trong
tập đoàn. Nên chăng tại Việt Nam cần
xem xét Báo cáo tài chính hợp nhất tập
đoàn và xem thêm giải pháp cho phép
tập đoàn như một tư cách pháp nhân
nộp thuế khi thỏa mãn một số điều kiện
phù hợp luật thuế hiện hành. Điều này
làm giảm việc mở công ty con hoặc
doanh nghiệp thành viên để chuyển giá
và làm tăng phí xã hội.
(vii) Cuối cùng, cần cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh lành mạnh hơn
nữa thông qua việc tăng cường công tác
thanh tra thuế các doanh nghiệp có dấu
hiệu vi phạm trong lĩnh vực giá chuyển
nhượng, trốn thuế, hướng đến hệ thống
thuế công bằng và minh bạch.
5.2. Về phía người nộp thuế
(i) Ngoài việc nên tuân thủ một cách
đúng mực đối với các quy định pháp luật
về thuế tại Việt Nam, các doanh nghiệp
FDI (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài) tại Việt Nam nên theo sát các văn
bản hướng dẫn, tọa đàm, các báo cáo
chuyên đề về hoạt động giá chuyển
nhượng do các cơ quan chức năng (hoặc
tổ chức hội nghề nghiệp trong nước và
quốc tế) tổ chức nhằm tranh thủ cập nhật
kiến thức cũng như kiến nghị xem xét
các vấn đề liên quan. Đặc biệt cần vận
động các nhân sự kế toán, tài chính,
thuế nghiên cứu học tập dự án BEPS
của OECD. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp nên tách ra, sử dụng riêng biệt
dịch vụ kiểm toán thường niên (theo
quy định bắt buộc) và dịch vụ tư vấn
thuế (kê khai giao dịch liên kết) nếu
doanh nghiệp có điều kiện hoặc có mức
độ rủi ro về thuế cao.
(ii) Một trong những biện pháp
giảm thiểu rủi ro về thuế của các doanh
nghiệp FDI trong diện hồ sơ giá chuyển
nhượng là nên chủ động đàm phán và
ký kết Thỏa thuận trước về phương
pháp xác định giá tính thuế - APA -
(Điều 3, Thông tư 201/2013/TT-BTC,
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482
51
ban hành ngày 20/12/2013của Bộ tài
chính) [10]. Theo đó, người nộp thuế có
thể thỏa thuận bằng văn bản với cơ
quan thuế tại Việt nam (Thỏa thuận đơn
phương) hoặc giữa người nộp thuế với
cơ quan thuế các nước, vùng lãnh thổ
mà Việt nam đã ký Hiệp định thuế cho
một thời hạn nhất định (Thỏa thuận
song phương/ đa phương).
(iii) Các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực tư vấn thuế (hay kiểm
toán) nên tăng cường chú trọng bồi
dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho nhân
viên hành nghề thông qua các chương
trình mang tính chất xã hội.
Tóm lại, lĩnh vực giá chuyển
nhượng là một trong những nội dung
nằm trong dự án BEPS của OECD, là
một lĩnh vực rộng và có tính chất quốc
tế, ngoài những nội dung tác giả trình
bày trên đây, vẫn còn rất nhiều khía
cạnh khác (trong đó có cả các giao dịch
liên kết của các tập đoàn doanh nghiệp
trong nước) chưa được bàn đến. Các
nghiên cứu trong tương lai có thể tiếp
tục nhận diện những nguy cơ thách thức
một cách đầy đủ và bao quát, để từ đó
đề xuất những giải pháp hữu hiệu cho
nền kinh tế nước nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Maxime Vaudano (2017), “Paradise Papers: au fond, quel est le problème
avec les paradis fiscaux ?”, https://www.lemonde.fr/paradise-
papers/article/2017/11/06/au-fond-quel-est-le-probleme-avec-les-paradis-
fiscaux_5210700_5209585.html, (truy cập ngày 12/02/2019)
2. Đỗ Cao (2019), “Bất công thuế khóa”, https://baomoi.com/bat-cong-thue-
khoa/c/29595284.epi, (truy cập ngày 12/02/2019)
3. Nguyễn Thoan (2017), “4 ngân hàng châu Âu 'dính' cáo buộc chuyển giá đang
hoạt động tại Việt Nam”, https://nhadautu.vn/4-ngan-hang-chau-au-dinh-cao-buoc-
chuyen-gia-dang-hoat-dong-tai-viet-nam-d726.html, (truy cập ngày 12/02/2019)
4. Ngân Giang (2018), “Những phi vụ chuyển giá “kinh điển” ở Việt Nam”,
20180721080638757.chn, (truy cập ngày 06/08/2019)
5. Dương Thị Vân Anh (2018), “Thực trạng chuyển giá và giải pháp chống
chuyển giá đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam”,
doanh-nghiep-co-von-dau-tu-nuoc-ngoai-fdi-tai-viet-nam/, (truy cập ngày
12/02/2019)
6. OECD (2015), “Transfer Pricing Documentation and Country-by-Country
Reporting”, Action 13 - 2015 Final Report
7. Chính phủ (2017), Nghị định số 20/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 quy định về
quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết
8. Phạm Thị Mai Huyên (2018), “Một số vấn đề về xói mòn cơ sở tính thuế và
chuyển dịch lợi nhuận tại Việt Nam”,
doi/mot-so-van-de-ve-xoi-mon-co-so-tinh-thue-va-chuyen-dich-loi-nhuan-tai-viet-
nam-300293.html, (truy cập ngày 12/02/2019)
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 16 - 2020 ISSN 2354-1482
52
9. Bill Brennan (2015), “BEPS Country-by-Country Reporting: The Practical
Impact for Corporate Tax Departments”, The Tax Adviser, June 1, 2015
10. Bộ Tài chính (2013), Thông tư số 201/2013/TT-BTC ngày 20/12/2013 hướng
dẫn việc áp dụng thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA)
trong quản lý thuế
TRANSFER PRICE - IDENTIFICATION OF RISKS, CHALLENGES
AND REACTIONS OF RELATED SIDES IN GLOBAL INTEGRATION ERA
ABSTRACT
Taxes are a very basic and important source of revenue for a country. Today,
countries around the world always take care of money from Taxes, and at the same
time, they strive against Tax loss. For rich and developed countries, such as the G20
group, they had close cooperative activities in preventing "Tax evasion / Tax
avoidance" of taxpayers. Currently, the Organization for Economic Cooperation and
Development (OECD), an international organization formed from a group of G20
countries, develops a project of Action Plan on Base Erosion and Profit Shifting
(BEPS). According to BEPS’s project, Transfer Pricing activity is one of anxious
contents because of its complexity and global scope. This article generally focuses on
and makes clear risks and challenges, and petitions for some solutions to limit tax
risks in particular and finance in general
Keywords: Transfer pricing, BEPS, OECD, pptimisation fiscal, tax evasion
(Received: 10/7/2019, Revised: 9/8/2019, Accepted for publication: 12/3/2020)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_chuyen_nhuong_nhan_dien_nhung_nguy_co_thach_thuc_va_phan.pdf