Chất lượng nguồn
nhân lực Việt Nam cũng là một thực tế đáng
lo ngại: Theo đánh giá của Ngân hàng Thế
giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động
có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật
bậc cao, chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam đánh giá theo thang điểm 10 chỉ đạt
3,79 điểm. Theo số liệu điều tra lao động -
việc làm của Tổng cục Thống kê năm 2014:
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên làm
việc trong nền kinh tế quốc dân đã qua đào
tạo nghề chỉ chiếm 18,2% trong tổng số lực
lượng lao động đang làm việc, trong đó lao
động có trình độ đại học trở lên chỉ chiếm
7,6% tổng số lao động được đào tạo. Trong
sản xuất và trao đổi thương mại, ngoài nền
kinh tế Singapore và Việt Nam có thể bổ
sung cho nhau (như: Singapore có thể cung
cấp dịch vụ chất lượng cao cho Việt Nam và
ngược lại Việt Nam có thể xuất khẩu nhiều
loại sản phẩm mà Singapore không sản
xuất). Nhưng đối với 8 nước ASEAN còn lại,
đa số sản phẩm hàng hóa sản xuất và trao
đổi thương mại là cùng chủng loại và đang
cạnh tranh gay gắt với Việt Nam. Có thể
nhận biết ngay những mặt hàng như: các
sản phẩm chăn nuôi, rau quả, mía đường,
thậm chí cả lúa gạo, đồ gỗ, sản phẩm nhựa,
sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo,
công nghiệp điện lạnh, điện tử, hàng may
mặc, giầy dép, ô tô, sau năm 2015 Việt
Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các
hàng hóa cùng loại nhưng giá cả phù hợp,
mẫu mã đẹp và chất lượng cao hơn trong
các nước ASEAN. Những khó khăn, thách
thức nêu trên đòi hỏi Việt Nam, nếu không
muốn thua ngay trên sân nhà thì phải tích
cực hoàn thiện thể chế và luật pháp cho
phù hợp với Cộng đồng ASEAN, đẩy nhanh
quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, tăng
trưởng bền vững, mở rộng liên doanh liên
kết trong nước và quốc tế, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực để vượt lên trong
cạnh tranh và hội nhập trong Cộng đồng
ASEAN.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gia nhập cộng đồng Asean cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỐNG KÊ QUỐC TẾ VÀ HỘI NHẬP
SỐ 01 – 2016 23
23
GIA NHẬP CỘNG ĐỒNG ASEAN
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Nguyễn Hòa Bình*
Ngày 22/11/2015, tại Hội nghị cấp
cao Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) lần thứ 27 diễn ra ở Thủ đô Kuala
Lumpur của Malaysia, lãnh đạo của 10 thành
viên ASEAN23 đã đặt bút ký 2 văn kiện lịch
sử: Tuyên bố về việc chính thức thành lập
Cộng đồng ASEAN vào ngày 31-12-2015 và
tuyên bố về Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN
2025. Đây là một bước ngoặt lịch sử đánh
dấu kết quả của gần nửa thế kỷ (1967 -
2015) phấn đấu bền bỉ của 10 quốc gia
ASEAN vì hòa bình, an ninh, tiến bộ xã hội và
thúc đẩy các lợi ích, lý tưởng và nguyện
vọng các mục tiêu và nguyên tắc được ghi
nhận trong Hiến chương ASEAN.
Quá trình hình thành Cộng đồng
ASEAN được tiến triển từ Hiệp hội ban đầu
với 5 nước thành viên là Indonesia, Malaysia,
Philippines, Singapore và Thái Lan, thành lập
vào ngày 8/8/1967 với Tuyên bố: “tích cực
hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau nhằm đạt được
các mục tiêu thúc đẩy sự tăng trưởng kinh
tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa”
* Nguyên Phó Vụ trưởng, Vụ Thống kê Nông, lâm
nghiệp và thủy sản
24
Bao gồm: Brunei Darussalam, Vương quốc
Campuchia, Cộng hòa Indonesia, Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Lào, Malaysia, Cộng hòa Liên bang Myanmar,
Cộng hòa Philippines, Cộng hòa Singapore, Vương quốc
Thái Lan và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(Tuyên bố Bangkok 1967). Trải qua bước
phát triển tiếp theo: Brunei gia nhập ASEAN
vào năm 1984, Việt Nam năm 1995, Lào và
Myanmar năm 1997 và Campuchia năm 1999
đã mở rộng ASEAN hội tụ đủ 10 nước thành
viên Đông Nam Á như hiện nay. Ý tưởng về
xây dựng “một nhóm hài hòa các dân tộc
Đông Nam Á, gắn bó trong một cộng đồng
các dân tộc đùm bọc lẫn nhau” được khởi
nguồn rõ nét từ việc thông qua văn kiện:
“Tầm nhìn ASEAN năm 2020” tại Hội nghị
cấp cao không chính thức tại Malaysia nhân
kỷ niệm 30 năm thành lập ASEAN vào tháng
12/1997. Quá trình hoàn thiện Cộng đồng
ASEAN từng bước trải qua các dấu ấn lịch sử
quan trọng sau đây: Hội nghị cấp cao ASEAN
6 (Hà Nội, tháng 12/1998) đã thông qua
Chương trình hành động Hà Nội (HPA) cho
giai đoạn 1999-2004 đề ra các biện pháp và
hoạt động cụ thể thúc đẩy hợp tác ASEAN;
Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II vào tháng
10/2003 (còn gọi là Tuyên bố Ba-li II) đề ra
mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào
năm 2020; Chương trình hành động Viên
Chăn (VAP) đề ra các Kế hoạch hành động
để xây dựng Cộng đồng ASEAN cho giai
đoạn 2004-2010; Hội nghị cấp cao ASEAN
lần thứ 12 diễn ra ở Philippines (01/2007),
ASEAN đã quyết tâm đẩy nhanh tiến trình
liên kết nội khối hình thành Cộng đồng
Thống kê Quốc tế và Hội nhập
Gia nhập cộng đồng ASEAN
24 SỐ 01– 2016
24
ASEAN vào năm 2015, thay vì vào năm 2020
như thỏa thuận trước đây; Hội nghị cấp cao
ASEAN lần thứ 13 (tháng 11/2007) đã ký
Hiến chương ASEAN (có hiệu lực ngày
15/12/2008) tạo hành lang pháp lý và khuôn
khổ thể chế cho gia tăng liên kết khu vực;
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 14 (tháng
2/2009) thông qua Lộ trình xây dựng Cộng
đồng ASEAN kèm theo Kế hoạch tổng thể
xây dựng 3 trụ cột Cộng đồng ASEAN (về
chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội)
và Kế hoạch công tác về Sáng kiến liên kết
ASEAN (IAI) giai đoạn 2 (2009-2015);
Vượt qua nhiều chia rẽ và khác biệt,
thậm chí là nghi kỵ đối đầu giữa các nước
trong khu vực, sự hình thành Cộng đồng
ASEAN vào ngày 31/12/2015 là bước chuyển
mới về chất của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á thành một tổ chức hợp tác liên Chính
phủ gắn kết chặt chẽ hơn về chính trị - an
ninh, liên kết cao về kinh tế, cùng chia sẻ
trách nhiệm xã hội, thực sự hướng tới người
dân, lấy người dân làm trung tâm, mang lại
lợi ích chung cho tất cả các nước thành viên.
Điều này thể hiện tầm nhìn chiến lược cũng
như ý chí, quyết tâm chính trị thức thời của
10 nước thành viên Đông Nam Á để kịp thời
ứng phó và thích ứng trước các cơ hội và
thách thức mới đang nổi lên trong khu vực
và trên thế giới. Nhưng đây không phải là
một tổ chức siêu quốc gia, một liên minh
quân sự hoặc liên kết toàn diện cao như Liên
minh châu Âu (EU) mà chủ yếu mang tính
liên kết sâu rộng giữa 10 nước thành viên và
mở rộng hợp tác với các nước bên ngoài trên
cơ sở pháp lý ràng buộc là Hiến chương
ASEAN.
Nội dung chính của Cộng đồng ASEAN
dựa trên ba trụ cột sau đây:
- Cộng đồng Chính trị - An ninh
(APSC): Nhằm tạo dựng môi trường hòa bình
và an ninh, đóng vai trò trung tâm trong việc
định hình cấu trúc an ninh khu vực, làm sâu
sắc quan hệ với các đối tác bên ngoài. Trên
cơ sở giải quyết các tranh chấp và khác biệt
bằng các biện pháp hòa bình, xây dựng lòng
tin chiến lược, tăng cường an ninh và hợp
tác hàng hải (như: Tuyên bố về ứng xử của
các bên ở Biển Đông - DOC và sớm đạt được
Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông - COC). Kế
hoạch hành động xây dựng APSC tại Hội
nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 10 vào tháng
11/2004 đã đề ra 6 lĩnh vực hợp tác chính
gồm: Hợp tác chính trị; Xây dựng và chia sẻ
chuẩn mực ứng xử; Ngăn ngừa xung đột;
Giải quyết xung đột; Kiến tạo hòa bình sau
xung đột; và Cơ chế thực hiện. Kèm theo đó
là danh mục 75 hoạt động cụ thể để xây
dựng APSC.
- Cộng đồng Kinh tế (AEC): Nhằm tạo
ra một cộng đồng liên kết kinh tế chặt chẽ
và năng động; thúc đẩy kinh tế phát triển
cao và bền vững, gia tăng thương mại, đầu
tư và tạo việc làm; nâng cao năng lực nội
khối đồng thời hội nhập ngày càng sâu rộng
vào nền kinh tế toàn cầu. ASEAN đã nhất trí
tạo thành một Cộng đồng kinh tế với các đặc
trưng: Một thị trường duy nhất và một cơ sở
sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu
chuyển tự do của các loại hàng hóa, dịch vụ,
đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; Một
khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao; Một
khu vực phát triển kinh tế đồng đều, nhất là
thực hiện có hiệu quả Sáng kiến liên kết
ASEAN (IAI); Một khu vực hội nhập đầy đủ
vào nền kinh tế toàn cầu.
- Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC):
Nhằm xây dựng một cộng đồng xã hội đùm
Thống kê Quốc tế và Hội nhập Gia nhập cộng đồng ASEAN
SỐ 01 – 2016 25
25
bọc và chia sẻ, năng động và hài hòa, thúc
đẩy phát triển xã hội và bảo vệ môi trường,
nâng cao chất lượng cuộc sống, thông qua
các cơ chế hiệu quả để đáp ứng nhu cầu
hiện tại và tương lai của người dân ASEAN.
Nội dung về ASCC đã xác định các lĩnh vực
hợp tác chính là : Tạo dựng cộng đồng xã
hội đùm bọc; Giải quyết những tác động xã
hội của hội nhập kinh tế; Phát triển môi
trường bền vững; Nâng cao nhận thức và
bản sắc ASEAN. Một số lĩnh vực ưu tiên
trong ASCC gồm: văn hóa, giáo dục - đào
tạo, khoa học - công nghệ, môi trường, y tế,
phúc lợi và bảo trợ xã hội, quyền và công
bằng xã hội, phát triển môi trường bền
vững,...
Từ khi thành lập đến nay, ASEAN đã
trở thành một mái nhà chung gắn kết 10
quốc gia với diện tích hơn 4,5 triệu km2, dân
số đứng thứ ba thế giới với 625 triệu người
và là nền kinh tế có quy mô lớn thứ 7 thế
giới với GDP đạt hơn 2600 tỷ USD. Từ một
Hiệp hội ban đầu với những nước nhỏ và
vừa, ASEAN đã đóng vai trò trung tâm trong
các cơ chế đảm bảo hòa bình, an ninh, ổn
định ở khu vực và thế giới. ASEAN hiện đang
là đối tác chiến lược với 7 nước lớn24 và quan
hệ đối tác toàn diện với Nga, EU và Canada;
có 83 nước và tổ chức đã cử đại sứ tại
ASEAN. Trong lĩnh vực kinh tế, từ khi gia
nhập ASEAN mỗi nước thành viên đều gặt
hái được nhiều thành công. Theo Báo cáo
Đầu tư của ASEAN (AIR): Trong bối cảnh
dòng vốn FDI toàn cầu bị suy giảm tới 16%,
nhưng vốn FDI vào ASEAN vẫn tiếp tục tăng
lên: năm 1996 vốn FDI đầu tư vào ASEAN
chỉ gần 30 tỷ USD, đến năm 2007 tăng lên là
84 tỷ USD (chiếm 11% tổng số vốn FDI toàn
25
Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New
Zealand và Ấn Độ
cầu) và đến năm 2014 đã lên tới 136,2 tỷ
USD, tăng 1,62 lần (trong đó vốn đầu tư
giữa các nước nội khối ASEAN đạt 24,4 tỷ
USD chiếm 17,9% tổng số vốn FDI). Kim
ngạch thương mại 2 chiều của ASEAN từ
1.600 tỷ USD (2007) lên 2.500 tỷ USD
(2013), tăng 1,56 lần; trong đó kim ngạch
thương mại 2 chiều giữa các nước ASEAN từ
458,1 tỉ USD (2008) lên 608,6 tỉ USD (2013),
tăng 33 %. Trong bối cảnh nền kinh tế thế
giới từ năm 2007 đến nay bị suy giảm và
phục hồi chậm, các nước ASEAN vẫn tăng
trưởng ổn định bình quân khoảng 5%/năm.
Cơ cấu kinh tế ASEAN trong những năm qua
đã chuyển dịch theo hướng tích cực: Khu
vực dịch vụ tăng liên tục đến năm 2014
chiếm 51%, khu vực công nghiệp, xây dựng
là 38% và khu vực nông, lâm nghiệp, thủy
sản chỉ chiếm 11%. Theo Thủ tướng
Malaysia Najib Razak: GDP của khối sẽ tăng
trưởng 7,1%, đạt 4.700 tỷ USD vào năm
2020, dự báo ASEAN sẽ trở thành nền kinh
tế lớn thứ 5 thế giới vào năm 2030 và lớn
thứ 4 vào năm 2050.
Lộ trình tổng thể xây dựng Cộng đồng
ASEAN, theo Tổng Thư ký ASEAN Lê Lương
Minh đến nay đã thực hiện được 97% các
biện pháp đề ra; trong đó: trụ cột Chính trị-
An ninh và trụ cột Văn hóa - Xã hội đã thực
hiện được 100% các biện pháp; trụ cột Kinh
tế đã thực hiện được 506/611 biện pháp (đạt
93%). Như vậy, ASEAN đến cuối năm nay về
cơ bản hoàn thành được hầu hết các biện
pháp đề ra trong quá trình thực hiện Lộ trình
xây dựng Cộng đồng và các biện pháp này
vẫn tiếp tục được hoàn hiện hơn nữa vào
sau năm 2015. Về lĩnh vực cắt giảm và xóa
bỏ hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế
quan, ASEAN tuyên bố đã xóa bỏ thuế đánh
vào 97,3% số các sản phẩm giao dịch trong
Thống kê Quốc tế và Hội nhập
Gia nhập cộng đồng ASEAN
26 SỐ 01– 2016
26
khu vực và đã dỡ bỏ được 45/69 rào cản phi
thuế quan; Sự hình thành Cộng đồng
ASEAN là một bước ngoặt lịch sử đưa ASEAN
bước sang một giai đoạn phát triển mới “liên
kết chặt chẽ, năng động và thực chất hơn” vì
hòa bình, ổn định, hợp tác, năng động và
thịnh vượng.
Năm 2015 là năm đánh dấu Việt Nam
kỷ niệm 20 năm gia nhập ASEAN (vào ngày
28/7/1995). Việc gia nhập ASEAN thể hiện
tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước
ta trong xu thế đa dạng hoá, đa phương hoá
của hội nhập khu vực và quốc tế. Tham gia
ASEAN là bước đột phá mở cánh cửa phá vỡ
thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch
chống phá Việt Nam và từng bước đưa nước
ta hội nhập sâu vào đời sống khu vực và
quốc tế. Trong 20 năm gia nhập ASEAN, Việt
Nam có rất nhiều đóng góp quan trọng trong
các lĩnh vực hợp tác của ASEAN và được lồng
ghép trong các chương trình, kế hoạch hành
động triển khai của các Bộ, ngành, địa
phương và doanh nghiệp. Sau khi gia nhập
ASEAN, Việt Nam đã tích cực vận động
ASEAN kết nạp thêm Lào, Myanmar,
Campuchia vào Hiệp hội; đồng thời tổ chức
thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ
6 tại Hà Nội (1998), Chương trình Hành động
Hà Nội đã góp phần định hướng phát triển
của Hiệp hội vượt qua cuộc khủng hoảng tài
chính khu vực. Việt Nam đã đảm nhiệm
thành công vai trò Chủ tịch Ủy ban thường
trực ASEAN (nhiệm kỳ 2000 - 2001) và Chủ
tịch ASEAN năm 2010. Trong vai trò Chủ tịch
ASEAN, Việt Nam đã chú trọng mở rộng
quan hệ đối ngoại trong và ngoài khối thông
qua các Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF),
Diễn đàn Biển ASEAN mở rộng (EAMF), Hội
nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng
(ADMM+), Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS),
vận động để đại diện ASEAN dự Hội nghị
Thượng đỉnh G-20 tại Hàn Quốc và Canada.
Việt Nam cùng các nước ASEAN đã chủ động
đề xuất sáng kiến, hợp tác ưu tiên của
ASEAN trong nhiều lĩnh vực: Y tế, văn hóa,
giáo dục đào tạo, an sinh xã hội, bảo vệ môi
trường, quản lý thiên tai, biến đổi khí hậu,
thúc đẩy ngoại giao nhân dân, Dấu ấn
đóng góp của Việt Nam 20 năm qua được
thể hiện xuyên suốt trong các Hội nghị cấp
cao, các Chương trình nghị sự, các Kế hoạch
và Lộ trình phát triển cũng như trong các
văn kiện mang tầm chiến lược của ASEAN.
Thành công nổi bật hơn cả của Việt
Nam khi gia nhập ASEAN là trong lĩnh vực
kinh tế. Việt Nam đã trở thành điểm sáng
trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
từ các nước ASEAN. Từ năm 1988 đến năm
1995, các nước ASEAN đã đầu tư vào Việt
Nam 1620 dự án với số vốn đăng ký là 19,3
tỷ USD; sau khi gia nhập ASEAN vốn FDI của
các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam trong
5 năm (1996 - 2000) đã tăng lên là 1724 dự
án với số vốn đăng ký là 26,3 tỷ USD (tăng
36,3% về vốn); đến tháng 6/2015 đã có
2632 dự án của các nước ASEAN với số vốn
đăng ký là 54,6 tỷ USD (tăng 2,8 lần về vốn
so với giai đoạn 1988-1995). Kim ngạch
thương mại 2 chiều (xuất nhập khẩu) giữa
Việt Nam với ASEAN tăng nhanh: Năm 1996
chỉ đạt hơn 4,1 tỷ USD thì đến năm 2014 đã
tăng lên 42,1 tỷ USD (tăng 10,3 lần). Trong
khi tốc độ tăng trưởng nền kinh tế thế giới
sụt giảm và phục hồi chậm sau khủng hoảng
kinh tế thế giới (chỉ đạt trên 3%) thì Việt
Nam vẫn thuộc nhóm nước có tốc độ tăng
trưởng GDP cao trên thế giới (đạt từ 5 - 6%)
và năm 2015 có thể đạt trên 6,5%. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam chuyển mạnh
Thống kê Quốc tế và Hội nhập Gia nhập cộng đồng ASEAN
SỐ 01 – 2016 27
27
theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa:
Khu vực công nghiệp, dịch vụ từ tỷ lệ 61,3%
(1990) đến năm 2014 đã chiếm 72,2% và
khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản từ
38,7% (1990) đến năm 2014 chỉ còn 17,7%.
Trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự
do ASEAN (CEPT/AFTA/ATIGA), Việt Nam
chấp nhận đưa 8579 dòng thuế xuất nhập
khẩu (chiếm 90%) với mức 5% về 0% từ
ngày 01/01/2015. Những dòng thuế còn lại
(gồm ôtô, xe máy, phụ tùng linh kiện ô tô -
xe máy, sữa và các sản phẩm chế biến từ
sữa, dầu thực vật, hoa quả nhiệt đới, tủ
lạnh, máy điều hòa, bánh kẹo, thức ăn gia
súc, sản phẩm nhựa, phôi thép, lốp ôtô, vô
tuyến, tàu thuyền) với 687 dòng thuế (chiếm
7%) sẽ xuống 0% vào năm 2018. Ngoại trừ
mặt hàng xăng dầu có lộ trình riêng.
Thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN
với một thị trường mở rộng lớn đã tạo cơ hội
cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng sản
xuất, đẩy mạnh tự do lưu chuyển hàng hóa,
dịch vụ trong khối, thu hút vốn đầu tư và
tiếp thu những thành tựu khoa học - công
nghệ hiện đại cũng như phương pháp quản
lý tiên tiến, rút ngắn khoảng cách phát triển
với các nước ASEAN 625. Việc mở cửa thị
trường và xóa bỏ thuế quan cho hàng hóa
Việt Nam xuất khẩu vào các nước ASEAN
cũng đồng nghĩa với Việt Nam phải mở cửa
thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của 9
nước trong khối. Điều này, tạo nên áp lực
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
khối, nhưng người tiêu dùng các nước
ASEAN, trong đó có Việt Nam được hưởng lợi
từ các hàng hóa, dịch vụ đa dạng, phong
phú, chất lượng cao và giá rẻ đến từ các
26
Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philippines, Brunei,
Indonesia
nước nội khối; đồng thời các doanh nghiệp
nhập khẩu trong khối cũng hạ bớt được chi
phí đầu vào, gia tăng năng lực cạnh tranh và
lợi nhuận. Theo dự báo của Tổ chức lao
động quốc tế (ILO), gia nhập AEC kinh tế
Việt Nam có cơ hội tăng trưởng thêm 14,5%
và số việc làm của Việt nam sẽ tăng lên
10,5% vào năm 2025. Trước mắt, các
chuyên gia trình độ cao, thợ lành nghề và có
8 ngành nghề trong các nước ASEAN được
tự do di chuyển thông qua các thỏa thuận
công nhận tay nghề tương đương (gồm: Kế
toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, kỹ sư, y tá,
vận chuyển và nhân viên ngành du lịch);...
Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích
cực nêu trên, gia nhập Cộng đồng ASEAN
Việt Nam cũng đứng trước nhiều khó khăn,
thách thức. Trong 10 nước ASEAN, Việt
Nam là 1 trong 4 nước có nền kinh tế thị
trường chưa hội nhập đầy đủ, trình độ phát
triển sản xuất, năng suất lao động thấp
nhất trong khối và GDP bình quân đầu
người cũng chỉ bằng một nửa so với mức
bình quân chung của ASEAN (khoảng hơn
4000 USD). Sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản, một lợi thế của Việt Nam trong hội
nhập quốc tế vẫn chủ yếu là sản xuất quy
mô nhỏ của hộ nông dân, ruộng đất manh
mún, phân tán, năng suất một số cây trồng,
vật nuôi còn thấp, chất lượng sản phẩm
không đồng đều, việc sử dụng tràn lan phân
hóa học, thuốc trừ sâu, chất cấm trong
chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản khiến cho
vệ sinh an toàn thực phẩm đang ở mức báo
động. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam
với hơn 500.000 doanh nghiệp đang giữ vai
trò chủ lực trong cạnh tranh quốc tế, hiện
có tới 97% thuộc loại nhỏ và vừa, kết quả
và hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng
Thống kê Quốc tế và Hội nhập
Gia nhập cộng đồng ASEAN
28 SỐ 01– 2016
28
lực cạnh tranh quốc tế hạn chế. Theo điều
tra của Phòng Công nghiệp và Thương mại
Việt Nam (VCCI) hiện có tới 65% doanh
nghiệp Việt Nam còn chưa hiểu biết và nắm
bắt được cơ hội khi Việt Nam gia nhập Cộng
đồng ASEAN. Trong khi đó, mấy năm gần
đây các nước ASEAN 6 đang có sự chuyển
động tích cực từ phía các doanh nghiệp
cùng với sự hỗ trợ của nhà nước để đón bắt
cơ hội thành lập AEC. Chất lượng nguồn
nhân lực Việt Nam cũng là một thực tế đáng
lo ngại: Theo đánh giá của Ngân hàng Thế
giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động
có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật
bậc cao, chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam đánh giá theo thang điểm 10 chỉ đạt
3,79 điểm. Theo số liệu điều tra lao động -
việc làm của Tổng cục Thống kê năm 2014:
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên làm
việc trong nền kinh tế quốc dân đã qua đào
tạo nghề chỉ chiếm 18,2% trong tổng số lực
lượng lao động đang làm việc, trong đó lao
động có trình độ đại học trở lên chỉ chiếm
7,6% tổng số lao động được đào tạo. Trong
sản xuất và trao đổi thương mại, ngoài nền
kinh tế Singapore và Việt Nam có thể bổ
sung cho nhau (như: Singapore có thể cung
cấp dịch vụ chất lượng cao cho Việt Nam và
ngược lại Việt Nam có thể xuất khẩu nhiều
loại sản phẩm mà Singapore không sản
xuất). Nhưng đối với 8 nước ASEAN còn lại,
đa số sản phẩm hàng hóa sản xuất và trao
đổi thương mại là cùng chủng loại và đang
cạnh tranh gay gắt với Việt Nam. Có thể
nhận biết ngay những mặt hàng như: các
sản phẩm chăn nuôi, rau quả, mía đường,
thậm chí cả lúa gạo, đồ gỗ, sản phẩm nhựa,
sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo,
công nghiệp điện lạnh, điện tử, hàng may
mặc, giầy dép, ô tô, sau năm 2015 Việt
Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các
hàng hóa cùng loại nhưng giá cả phù hợp,
mẫu mã đẹp và chất lượng cao hơn trong
các nước ASEAN. Những khó khăn, thách
thức nêu trên đòi hỏi Việt Nam, nếu không
muốn thua ngay trên sân nhà thì phải tích
cực hoàn thiện thể chế và luật pháp cho
phù hợp với Cộng đồng ASEAN, đẩy nhanh
quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, tăng
trưởng bền vững, mở rộng liên doanh liên
kết trong nước và quốc tế, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực để vượt lên trong
cạnh tranh và hội nhập trong Cộng đồng
ASEAN.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Ngoại giao, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN), Cổng thông tin điện tử
của Chính phủ ( Chinhphu.vn);
2. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê của Tổng cục Thống kê qua các năm, Nhà
xuất bản Thống kê, Hà Nội;
3. Ban Thư ký ASEAN, Một số nét về Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và cơ chế hợp
tác kinh tế trong hiệp hội (
4. Cộng đồng ASEAN sự khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới
(
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_nhap_cong_dong_asean_co_hoi_va_thach_thuc_doi_voi_viet_n.pdf