Kết quả sự kết hợp điểm cắt các chỉ số AFP
(Test (+) /≥ 99,9 ng/ml) và PIVKA-II (Test (+)/≥
32,9 mAU/L) khi cả 2 cùng thỏa điều kiện ở điểm
cắt đường cong ROC đơn lẻ làm tăng độ đặc hiệu
lên 100,00% và trong số 52 trường hợp trong NC
của chúng tôi không thỏa điều kiện test(+)/AFP
và test(+)/ PIVKA-II thì có 48 trường hợp không
tái phát với tỉ lệ 92,31% (GTTĐ (-) = 92,31%). Sự
kết hợp giữa test(+)/AFP và test(+)/ PIVKA-II cho
kết quả tối ưu nhất (100%), tương đồng với NC Lê
Văn Don khi PIVKA-II (COV=30 mAU/ml) kết
hợp với AFP (COV= 25 UI/ml) làm tăng độ nhạy
82,9 %, độ đặc hiệu 88,4%[5]. Mặt khác NC Volk
về sự tăng độ nhạy của điểm cắt AFP-L3(3%)
kết hợp với điểm cắt PIVKA-II(150mAU/ml)
trong chẩn đoán UTBMTBG giai đoạn sớm
(AUROC=0,948) là 84% tương ứng với độ đặc hiệu
là 94% (p=0,028)[23]. Theo nhóm NC Nhật Bản
các nồng độ phát hiện UBBMTBG là AFP >200 ng/
ml, PIVKA-II > 40 mUI/ml, AFP-L3 % > 15% [6].
NC của chúng tôi, đường cong ROC của PIVKAII (0,758; p=0,015) có giá trị hơn AFP (0,752;
p=0,017) cho dự đoán “tái phát” UTBMTBG vào
tháng thứ 3 sau RFA, tương đồng với NC Volk với
đường cong ROC của PIVKA-II (0,919) có giá trị
hơn hẳn AFP (0,848) hay AFP-L3 (0,742) trong
UTBMTBG khác biệt từ xơ gan với độ nhạy 86%
và độ đặc hiệu 93%[23]. Mặt khác NC Choi JY về
AUROC lần lượt là 0,879; 0,887; 0,801 và 0,939
tương ứng với AFP, AFP-L3, PIVKA-II và các yếu
tố kết hợp, việc kết hợp AUC của 3 yếu tố này cho
thấy giá trị cao hơn so với các AUCs của từng yếu
tố đơn lẻ (P<0,05), AFP-L3 có giá trị AUC cao hơn
PIVKA-II (p=0,043)[4].
Do hạn chế của NC chúng tôi, chỉ có 2 dấu ấn sinh
học: AFP và PIVKA-II (trong bộ 3 AFP, AFP-L3 và
PIVKA-II) có giá trị chẩn đoán UTBMTBG tái phát
(p*, p**) và dự đoán “tái phát” khi so sánh với giá
trị nền trước điều trị (t=0) tương ứng với chẩn đoán
bằng hình ảnh học. Đầu tiên, đa số BN trong NC là
UTBMTBG giai đoạn sớm (91,2%) đáp ứng toàn bộ
điều trị ngắn hạn sau RFA.Thứ 2 thời gian NC ngắn
(3 tháng) và tỉ lệ tái phát ít 15,7% (9/57 trường hợp)
vì vậy giá trị thống kê chưa nổi bật lắm.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị 3 chỉ sốAFP, AFP-L3, PIVKA-II trong dự đoán ung thư biểu mô tế bào gan tái phát sau đốt U (RFA), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 53/2019 71
GIÁ TRỊ 3 CHỈ SỐ AFP, AFP-L3, PIVKA-II TRONG DỰ ĐOÁN
UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN TÁI PHÁT SAU ĐỐT U (RFA)
Phan Huỳnh Vị1, Lê Ngọc Hùng1, Nguyễn Hoàng Bé1,
Trần Minh Sang1, Nguyễn Đình Song Huy1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá giá trị của các chỉ số AFP, AFP-L3, PIVKA-II và phối hợp các chỉ số trong dự đoán
ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG) tái phát tương ứng với RECIST ở thời điểm tháng thứ 3 sau điều
trị RFA.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ test chẩn đoán. Trong thời gian nghiên cứu (NC) từ
01/7/2017 đến 30/7/2018 với cỡ mẫu thuận tiện 57 bệnh nhân (BN) có chỉ định RFA lần đầu tiên tại khoa U
gan Bệnh viện Chợ Rẫy. Tất cả đều được theo dõi đủ 3 tháng (90 ngày).
Kết quả nghiên cứu: Điểm cắt của chỉ số AFP>99,9 ng/ml vào tháng thứ 3 có ý nghĩa thống kê
(p<0,001) dự đoán UTBMTBG tái phát (Độ nhạy: 55,56%; Độ đặc hiệu:95,83%; GTTĐ(+):50,00%; GTTĐ
(-): 91,49%). Điểm cắt của chỉ số PIVKA-II>32,9 mAU/L vào tháng thứ 3 có ý nghĩa thống kê (p=0,013) dự
đoán UTBMTBG tái phát (Độ nhạy: 88,89%; Độ đặc hiệu:56,25%; GTTĐ(+):27,59%; GTTĐ(-):96,43%). Sự
kết hợp điểm cắt các chỉ số AFP và PIVKA-II khi cả 2 cùng thỏa điều kiện ở điểm cắt đường cong ROC đơn
lẻ làm tăng độ đặc hiệu lên 100,00%,GTTĐ(-):92,31%.
Kết luận: Hai yếu tố AFP>99,9 ng/ml và PIVIKA-II>32,9 mAU/L có giá trị chẩn đoán UTBMTBG tương
ứng với hình ảnh học.Sự kết hợp điểm cắt các chỉ số AFP và PIVKA-II làm tăng độ đặc hiệu tối ưu.
Từ khóa: Ung thư biểu mô tế bào gan, tái phát, AFP, AFP-L3, PIVKA-II, đốt nhiệt cao tần
ABSTRACT
VALUE OF SERUM AFP, AFP-L3, PIVKA-II IN PREDICTING THE RECURRENCE OF
HEPATOCELLULAR CARCINOMA AFTER RADIOFREQUENCY ABLATION (RFA)
Phan Huynh Vi1, Le Ngoc Hung1, Nguyen Hoang Be1,
Tran Minh Sang1, Nguyen Dinh Song Huy1
Aim: To evaluate value of AFP, AFP-L3, PIVKA-II and the combination of markers in predicting the
recurrence of hepatocellular carcinoma (HCC) corresponding to RECIST at the third month after RFA.
Methods: Cohort study and diagnosic test. During the time from 01/7/2017 to 30/7/2018 with avalaible
sample of 57 HCC patients underwent RFA for the first time at Department of Liver Tumors in Cho Ray
Hospital. All patients were monitored continuously in 3 months (90 days).
Result: The cut off of AFP>99.9ng/ml in third month is statistically significant (p<0,001) in predicting the
1. Bệnh viện Chợ Rẫy - Ngày nhận bài (Received): 25/4/2019; Ngày phản biện (Revised): 3/6/2019;
- Ngày đăng bài (Accepted): 17/6/2019
- Người phản hồi (Corresponding author): Phan Huỳnh Vị
- Email: viphancr64@gmail.com; SĐT: 0903657799
Bệnh viện Trung ương Huế
72 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 53/2019
recurrence of HCC (Se:55.56%; Sp 95.83%; +LR:50%; -LR:91.49%). The cut off of PIVKA-II>32,9mAU/L
on the third month is statistically significant (p=0.013) in predicting the recurrence of HCC (Se:88.89%;
Sp: 56.25%;+LR: 27.59%;-LR: 96.43%. The combination of cutting points of AFP and PIVKA-II when both
markers meet the condition of each ROC which enables the increase of Specificity up to 100.00%, -LR:
92.31%.
Conclustion: Two markers AFP>99.9 ng/ml and PIVKA-II>32.9 mAU/L are valuable in diagnosis of
HCC in corresponding to diagnosic by images. The combination of cutting points of AFP and PIVKA-II
increases optimal Specification
Keyword: Hepatocellular carcinoma, recurrence, AFP, AFP-L3, PIVKA-II, Radio frequency ablation
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG) là bệnh
ác tính thường gặp, đứng hàng thứ 7 trong các loại ung
thư trên toàn thế giới và gây tử vong đứng hàng thứ
3 [22]. Hàng năm, trên thế giới có khoảng 782,451
trường hợp UTBMTBG mới được phát hiện và khoảng
745,533 người tử vong vì bệnh lý này [22]. Sự triệt bỏ
khối u bằng sóng cao tần (RFA) là lựa chọn đầu tiên
trong các phương pháp điều trị tại chỗ qua da [3] đã
được triển khai thường xuyên ở Việt Nam.
Nghiên cứu của Wang Nan-Ya (2013) về tỉ lệ tái
phát ngắn hạn (tương ứng thang điểm RECIST[5])
của BN dương tính với AFP sau RFA 1 tháng là
cao hơn rõ so với âm tính với AFP (p=0,031) [24].
Nghiên cứu của Tamura (2013) cho thấy nồng độ
AFP-L3 sau 1 tháng điều trị là một dự đoán độc
lập quan trọng trong tái phát UTBMTBG [20]. NC
thuần tập của Takahashi Shunsuke (2008) trên 179
BN UTBMTBG có xơ gan Child Pugh A được điều
trị RFA và theo dõi trong 40,5 tháng, tỉ lệ sống sót
thấp hơn hẳn ở những BN có giá trị PIVKA-II ≥ 100
mAU/ml so với PIVKA-II <100 mAU/ml (58% so
với 84% tại thời điểm 5 năm; p<0,001). NC này kết
luận giá trị PIVKA-II là một dự đoán chính xác nhất
sau điều trị RFA [19].
Các dấu ấn sinh học không xâm lấn AFP,
AFP-L3, PIVKA-II có thể dự đoán UTBMTBG tái
phát sau RFA tương ứng với hình ảnh học là rất cần
thiết và mang tính thực tiễn.
Theo hiểu biết của chúng tôi hiện nay ở Việt
Nam chưa có NC nào đánh giá đầy đủ giá trị của 3
dấu ấn sinh học này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
57 BN UTBMTBG được chẩn đoán và đốt u
gan (RFA) lần đầu tiên tại khoa U gan BVCR từ
01/7/2017 đến 30/7/2018 và được theo dõi định kỳ
đến khi kết thúc NC vào ngày 30/7/2018.
Tiêu chuẩn chọn bệnh: BN được chẩn đoán
UTBMTBG theo hướng dẫn chẩn đoán của Bộ Y tế
Việt Nam năm 2012. Tất cả BN đều được chỉ định
RFA lần đầu và chưa được điều trị bằng các phương
pháp khác. Các BN đi tái khám đúng lịch hẹn, được
theo dõi bằng chụp cắt lớp vi tính ổ bụng có thuốc
cản quang và xét nghiệm nồng độ AFP, AFP-L3,
PIVKA-II huyết thanh.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ test
chẩn đoán
Định nghĩa biến số: Tỉ số AFP tháng thứ 3th/
AFP nền (t=0) là sự thay đổi nồng độ AFP ở tháng
thứ 3 so với trước điều trị. Tỉ số PIVKA-II tháng thứ
3th/AFP nền (t=0) là sự thay đổi nồng độ PIVKA-II
ở tháng thứ 3 so với trước điều trị. Kết hợp AFP
và PIVKA-II xảy ra khi cả 2 cùng thỏa điều kiện ở
điểm cắt đường cong ROC đơn lẻ. Kết hợp AFP và
PIVKA-II xảy ra khi một trong hai thỏa điều kiện ở
điểm cắt đường cong ROC đơn lẻ.
Phân tích số liệu: bằng phần mềm SPSS 16.0.
Dùng đường cong ROC để đánh giá năng lực chẩn
đoán của một phép thử hoặc một xét nghiệm.
Sử dụng chỉ số Youden để xác định điểm cắt. Khác
biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05, khoảng tin cậy
95% không chứa 1. Cách đánh giá giá trị của test
chẩn đoán, phối hợp test là xác định độ nhạy, độ đặc
Giá trị 3 chỉ số AFP, AFP-L3, PIVKA-II...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 53/2019 73
hiệu, GTTĐ (+), GTTĐ (-) trong ba trường hợp: Kết
hợp AFP (+) và PIVKA-II (+); AFP (+) và PIVKA-
II (-); AFP (-) và PIVKA-II (+). Cách đánh giá tỉ số
AFP tháng thứ 3th/ AFP nền (t=0); tỉ số PIVKA-II
tháng thứ 3th/ PIVKA-II nền (t=0) dựa vào đường
cong ROC. Các mối liên hệ được xem là có ý nghĩa
thống kê khi giá trị p <0,05. Kết quả được trình bày
dưới dạng bảng hoặc biểu đồ.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả chung: Tất cả 57 BN UTBMTBG đều
đáp ứng hoàn toàn sau 1 tháng can thiệp RFA (100%,
57/57 BN có khối u biến mất hoàn toàn, RECIST
thuộc nhóm đáp ứng hoàn toàn). Sau 3 tháng can
thiệp RFA, có 9 trường hợp tái phát với khối u gan
mới (RECIST thuộc nhóm bệnh tiến triển), được gọi
u gan tái phát trong trình bày dưới đây.
Tuổi và giới
Tuổi trung bình là 64,68 ± 11,18, trẻ nhất là 41 tuổi,
già nhất là 82 tuổi, chủ yếu ở nhóm tuổi từ 51-70.
Tỉ lệ nam : nữ là 4,7 : 1.
Bảng 1: Các biến số chiếm tỉ lệ cao nhất
Biến số
Tổng số BN
(n=57)
%
Child Pugh A 55 96,5
BCLC A 52 91,2
HBsAg (+) 40 70,2
Nồng độ AFP (ng/ml) 10,1 - 100 25 43,9
Nồng độ AFP-L3 (%) ≤ 10 35 61,4
Nồng độ PIVKA-II (mAU/L) >100 32 56,1
BN có Child Pugh A (96,5%), ở giai đoạn rất sớm và giai đoạn sớm lần lượt là 8,8% và 91,2%. Ghi nhận
100% có tiền sử viêm gan, trong đó viêm gan B chiếm 70,2%. Nồng độ AFP = 10,1-100 ng/ml có tỉ lệ cao
nhất 43,9%; AFP-L3 ≤ 10% (61,4%); PIVKA-II > 100 mAU/L (56,1%).
Bảng 2: Tiêu chuẩn đánh giá UTBMTBG
tái phát sau RFA qua hình ảnh CT Scan động.
Tái phát Tiêu chuẩn/ CT Scan động
Tái phát tại chỗ
Xuất hiện khối u trong hay ngay cạnh vùng u đã
được phá hủy hoàn toàn trước đó
Tái phát u mới tại gan Xuất hiện khối u ngoài vùng u đã RFA
Xâm lấn tĩnh mạch Xuất hiện huyết khối tĩnh mạch
Tái phát ngoài gan Di căn ngoài gan
Tỉ lệ tái phát tại chỗ trong NC chúng tôi là 15,7%
Bệnh viện Trung ương Huế
74 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 53/2019
Biểu đồ 1: Sự biến thiên của
AFP theo thời gian (p<0,001)
Nồng độ AFP giảm một cách đáng kể từ
411,82ng/ml xuống 53,23ng/ml (p<0,001) ở thời
điểm tháng thứ 1 và còn giảm 72,62 ng/ml ở thời
điểm tháng thứ 3 sau RFA (p <0,001).
Biểu đồ 2:Sự biến thiên của
AFP-L3 theo thời gian (p=0,001)
Nồng độ AFP-L3 giảm từ 16,03% xuống 9,53%
(p=0,001) ở thời điểm tháng thứ 1 và càng giảm
xuống 7,87% ở thời điểm tháng thứ 3 sau RFA
(p=0,001)
Biểu đồ 3: Sự biến thiên của
PIVKA-II theo thời gian (p<0,001)
Nồng độ PIVKA-II giảm một cách đáng kể từ
392,47mAU/L xuống 67,06 mAU/L (p<0,001) ở
thời điểm tháng thứ 1 và còn giảm 83,81mAU/L ở
thời điểm tháng thứ 3 sau RFA (p<0,001).
Bảng 3: So sánh nồng độ các dấu ấn UTBMTBG vào tháng thứ 3 (sau can thiệp RFA)
Dấu ấn ung thư
Nhóm 1 “đáp ứng
hoàn toàn”N= 48
Nhóm 2 “bệnh
tiến triển”N = 9
p
AFP (ng/mL): TB ± ĐLC 27,17±70,04 315,1±420,9
0,0001*
0,017**
Tỉ số AFP tháng thứ 3 so với giá trị nền trước RFA
(d=0): TB ± ĐLC
0,51±0,45 1,75±1,87
0,0001*
0,024**
AFP-L3 (%): TB ± ĐLC 6,5± 13,8 14,9±20,6 0,129
Tỉ số AFP-L3 tháng thứ 3 so với giá trị nền trước
RFA (d=0): TB ± ĐLC
1.142,64±4.053,0 2,64±4,0 0,198
PIVKA-II (mAU/L): TB ± ĐLC
51,58±62,02
255,7±435,16
0,002*
0,015**
Tỉ số PIVKA-II tháng thứ 3 so với giá trị nền trước
RFA (d=0): TB ± ĐLC
0,4±0,44 0,93±1,25
0,025*
0,08**
Có 2 dấu ấn: AFP và PIVKA-II (p*, p**) có giá trị chẩn đoán UTBMTBG tái phát và có giá trị dự đoán
“tái phát” khi so sánh với giá trị nền trước điều trị (t=0).
Giá trị 3 chỉ số AFP, AFP-L3, PIVKA-II...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 53/2019 75
Bảng 4: Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm của tỉ số
“AFP tháng thứ 3th/AFP nền t=0” (Diện tích dưới ROC: 0,78; 95% diện tích: 0,53 – 0,95; p = 0,024*)
Tần suất
Có
Tái phát UTBMTBG*
Không Tổng số
Tỉ số “AFP tháng thứ 3th/AFP t=0” Test (+)/≥ 1,1 5 4 9
Test (-)/< 1,1 4 44 48
Tổng số 9 48 57
Phép kiểm chính xác Fisher, *p =0,001
Chọn điểm cắt “tỉ số AFP tháng thứ 3th/AFP nền (t=0)” là 1,1 (tương đương 110%, có nghĩa là khi nồng
độ của AFP tại thời điểm tháng thứ 3 lớn hơn AFP tại thời điểm t=0 khoảng 1.1 lần, thì có khả năng “tái phát”
UTBMTBG) vì có chỉ số Youden cao nhất 47,3% với độ nhạy 55,6% và độ đặc hiệu 91,67%. Điểm cắt tỉ số
“AFP tháng thứ 3th/AFP nền t=0” = 1,1 có giá trị thực tiễn (p=0,001) dự đoán tái phát UTBMTBG vào tháng
thứ 3 sau RFA.(Độ nhạy: 55,56%; Độ đặc hiệu: 91,67%; GTTĐ (+): 55,56%; GTTĐ (-): 91,67%). Trong số
48 trường hợp không thỏa điều kiện test AFP(+)/≥ 1,1 thì có 44 trường hợp không tái phát với tỉ lệ 91,67%.
Bảng 5: Áp dụng kiểm tra lại với số liệu 9 bệnh tái phát UTBMTBG (khảo sát sau can thiệp)
vào tháng thứ 3 sau RFA đối với test AFP(+) (Diện tích dưới ROC: 0,752; p=0,017*)
AFP (ng/ml)
Chẩn đoán UTBMTBG tái phát vào tháng thứ 3
Tổng số
Có Không
Test (+) /≥ 99,9 5 (71,4%) 2 7
Test (-) /< 99,9 4 (8%) 46 50
Tổng số 9 48 57
Phép kiểm chính xác Fisher: *p<0,001
OR = 28,75, KTC 95%: 4,16 –198,48
Chọn điểm cắt chỉ số AFP tại thời điểm tháng thứ 3 là 99,9(ng/ml) vì có chỉ số Youden cao nhất 51,39%
với độ nhạy 55,56% và độ đặc hiệu 95,83%. Điểm cắt chỉ số AFP vào tháng thứ 3 có giá trị thực tiễn
(p<0,001) chẩn đoán UTBMTBG tái phát vào tháng thứ 3 sau RFA. (Độ nhạy: 55,56%; Độ đặc hiệu:
95,83%; GTTĐ (+): 50,00%; GTTĐ (-): 91,49% ). Trong số 50 trường hợp không thỏa điều kiện test AFP
(+)/≥ 99,9 ng/ml thì có 46 trường hợp không tái phát với tỉ lệ 91,49%
Bảng 6: Áp dụng kiểm tra lại với số liệu 9 bệnh tái phát UTBMTBG (khảo sát sau can thiệp)
vào tháng thứ 3 sau RFA đối với test PIVKA-II(+) (Diện tích dưới ROC: 0,758 , p=0,015*)
PIVKA-II (mAU/L)
Chẩn đoán UTBMTBG vào tháng thứ 3
Tổng số
Có Không
Test (+)/≥ 32,9 8 (27,6%) 21 29
Test (-)/< 32,9 1 (3,6%) 27 28
Tổng số 9 48 57
Phép kiểm chính xác Fisher: *p=0,013
OR = 10,28, KTC 95%: 1,19 – 88,80
Chọn điểm cắt chỉ số PIVKA-II tại thời điểm tháng thứ 3 là 32,90 (mAU/L) vì có chỉ số Youden cao
nhất 45,14% với độ nhạy 88,89% và độ đặc hiệu 56,25%. Điểm cắt chỉ số PIVKA-II vào tháng thứ 3 có
giá trị thực tiễn (p=0,013) chẩn đoán UTBMTBG tái phát vào tháng thứ 3 sau RFA. (Độ nhạy: 88,89%; Độ
Bệnh viện Trung ương Huế
76 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 53/2019
đặc hiệu: 56,25%; GTTĐ(+): 27,59%; GTTĐ(-): 96,43% ). Trong số 28 trường hợp không thỏa điều kiện
test(+)/≥ 32,9 mAU/L thì có 27 trường hợp không tái phát với tỉ lệ 96,43%.
Bảng 7: So sánh giá trị đường cong ROC của các chỉ số AFP và PIVKA-II cho dự đoán “tái phát”
UTBMTBG vào tháng thứ 3 sau RFA
Chỉ số Diện tích dưới đường cong Khoảng tin cậy 95% diện tích p
AFP 75,2% 61,9% - 89,7% 0,017
PIVKA-II 75,8% 53,8% - 96,9% 0,015
PIVKA-II có giá trị AUROC (0,758) cao hơn AFP (0,752)
Bảng 8: Kết quả của sự kết hợp các chỉ số AFP và PIVKA-II khi cả 2 cùng thỏa điều kiện ở điểm cắt đường
cong ROC đơn lẻ (test (+)/AFP và test (+)/PIVKA-II) cho dự đoán UTBMTBG “tái phát” vào tháng thứ 3
Chỉ số Độ nhạy Độ đặc hiệu GTTĐ (+) GTTĐ (-)
test (+)/AFP ≥ 99,9 55,56% 95,83% 50,00% 91,49%
test (+)/PIVKA-II ≥ 32,9 88,89% 56,25% 27,59% 96,43%
Kết hợp AFP ≥ 99,9
+ PIVKA-II ≥ 32,9
55,56% 100,0% 100,0% 92,31%
Bảng 9: Áp dụng kiểm tra lại với số liệu 9 bệnh tái phát UTBMTBG (khảo sát sau can thiệp)
vào tháng thứ 3 sau RFA đối với test AFP(+) và test PIVKA-II(+).
Kết hợp
Chẩn đoán UTBMTBG tái phát vào tháng thứ 3
Tổng số
Có Không
AFP (+) và PIVKA-II (+) 5 0 5
Không thỏa điều kiện trên 4 48 52
Tổng số 9 48 57
Sự kết hợp điểm cắt các chỉ số AFP và PIVKA-II khi cả 2 cùng thỏa điều kiện ở điểm cắt đường cong
ROC đơn lẻ làm tăng độ đặc hiệu lên 100,00%. Trong số 52 trường hợp không thỏa điều kiện AFP (+) và
PIVKA-II (+) thì có 48 trường hợp không tái phát với tỉ lệ 92,31%.
IV. BÀN LUẬN
BNNC tập trung nhiều nhất ở độ tuổi 51-70
(52,6%), trẻ nhất là 41 tuổi, già nhất là 82 tuổi.Tỉ
lệ nam/nữ là 4,7/1.Tuổi trung bình chung của nhóm
nghiên cứu là 64,687 ± 11,18 (>60), trong đó tuổi
trung bình ở nam là 63,06 ± 11,40 và ở nữ là 72,30 ±
5,96. Các số liệu trên tương đối phù hợp với một số
NC khác, y văn trên thế giới đều cho thấy đa số bệnh
này gặp ở nam giới với tỉ lệ nam/nữ từ 2-4 lần, tùy
theo tần suất bệnh của mỗi khu vực [1,11,8,10,16] .
Tỉ lệ nhiễm siêu vi viêm gan B là 70,2%, chiếm đa
số, tương đồng với NC của Nguyễn Huyền Châu
(63%)[14] cũng như tác giả Châu Á là Lee Jung
(83%)[11], WangNan-Ya (69,81%) [24]. Theo một
số tác giả tỉ lệ hàng năm của các BN xơ gan có nguy
cơ phát triển UTBMTBG do nhiễm vi rút viêm gan
C là 1-8%/ năm và vi rút viêm gan B là 1-15%/năm
[17]. Việt Nam nằm trong vùng dịch tễ cao của viêm
gan vi rút B nên tỉ lệ BN UTBMTBG cao là phù
hợp. Tỉ lệ tái phát tại chỗ trong NC chúng tôi là
Giá trị 3 chỉ số AFP, AFP-L3, PIVKA-II...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 53/2019 77
15,7% tương đồng với NC Ayav Ahmet là 18,6%[2].
Đa số UTBMTBG xảy ra ở BN có bệnh lý gan
mạn như viêm gan B mạn, viêm gan C mạn, viêm
gan do rượu, viêm gan do nhiễm mỡ, xơ gan, nên
đánh giá tổn thương gan là quan trọng. Chức năng
gan ảnh hưởng rất lớn đến quyết định điều trị. Vì
vậy, chúng tôi thực hiện đánh giá chức năng gan
dựa vào thang điểm Child Pugh và phân chia giai
đoạn theo BCLC. Trong NC chúng tôi có 96,5% BN
có Child Pugh A và được chỉ định RFA ở giai đoạn
rất sớm và giai đoạn sớm (theo BCLC), lần lượt
là 8,8% và 91,2% tương đồng với các NC Lương
Văn Thảo (90,8%; 6,9%; 93,1%)[9], Wang Nan-Ya
(9,43%; 58,49%)[24].
Nồng độ AFP (p<0,001), AFP-L3 (p=0,001), và
PIVKA-II (p<0,001) giảm mạnh sau RFA (biểu đồ 1;
2; 3) có thể phản ảnh tình trạng của khối u và chứng
minh sự hiệu quả của RFA trên BN UTBMTBG giai
đoạn sớm (92,1%).
Điểm cắt (cut off) “tỉ số AFP tháng thứ 3th/AFP
nền” là 1,1 (tương đương 110%; p=0,001), có nghĩa
là khi nồng độ AFP vào tháng thứ 3 lớn hơn AFP
thời điểm t=0 khoảng 1,1 lần, thì có khả năng “tái
phát” UTBMTBG sau RFA với độ nhạy là 55,6%,
độ đặc hiệu là 91,7% tương đồng với NC của Wang
Nan-Ya về tỉ lệ tái phát ngắn hạn của BN dương tính
với AFP sau RFA 1 tháng là cao hơn rõ so với âm
tính với AFP (P=0,031) hay nói cách khác là tỉ số
AFP tháng thứ 6th/AFP nền (t=0) có ý nghĩa thống
kê trong dự đoán tái phát UTBMTBG sau RFA[24].
Kết quả phân tích đường cong ROC nhận thấy điểm
cắt chỉ số AFP tại thời điểm tháng thứ 3 là 99,9 (ng/
ml) với độ nhạy là 55,56% và độ đặc hiệu là 95,83%,
GTTĐ (+): 50,00%, GTTĐ (-): 91,49%. Trong số
50 trường hợp trong NC của chúng tôi không thỏa
điều kiện test AFP (+)/≥ 99,9 ng/ml thì có 46 trường
hợp không tái phát với tỉ lệ 91,49%, tương đồng NC
Tateishi cũng chỉ ra nồng độ AFP >100 ng/ml cả
trước và sau khi phá u là dự đoán quan trọng trong
tái phát[21]. So sánh với nhóm NC Nhật Bản nồng
độ phát hiện UTBMTBG là AFP >200 ng/ml[6].
Điểm cắt chỉ số PIVKA-II cho chẩn đoán
UTBMTBG tái phát vào tháng thứ 3 là 32,90
(mAU/L) với độ nhạy là 88,89% và độ đặc hiệu là
56,25%, GTTĐ(+): 27,59%, GTTĐ(-): 96,43%.
Trong số 28 trường hợp trong NC của chúng tôi không
thỏa điều kiện test(+)/≥ 32,9 mAU/L thì có 27 trường
hợp không tái phát với tỉ lệ 96,43%, tương đồng NC
Lê Văn Don với ngưỡng PIVKA-II là 30 mAU/ml có
độ nhạy là 77,9 % và độ đặc hiệu là 90,8%, các chỉ
tiêu này đều cao hơn AFP[5]. NC Lee Sunyoung cho
thấy PIVKA-II sau phá hủy u là một dự đoán quan
trọng nhất tái phát, tiếp theo AFP[12]. So sánh với
nhóm NC Nhật Bản nồng độ phát hiện UTBMTBG
là PIVKA-II > 40 mAU/ml[6]. Mặt khác NC Lee
Sunyoung phân tích UTBMTBG liên quan đến HBV
được chữa trị bằng RFA cho thấy nồng độ PIVKA-II
sau RFA (p=0,011) là một yếu số dự đoán độc lập cho
sống sót hay sống sót không tái phát và là dấu ấn sinh
học hữu ích có thể bổ sung cho các phương thức hình
ảnh trong đánh giá phát hiện sớm và điều trị tái phát
UTBMTBG đúng thời điểm[12].
Kết quả sự kết hợp điểm cắt các chỉ số AFP
(Test (+) /≥ 99,9 ng/ml) và PIVKA-II (Test (+)/≥
32,9 mAU/L) khi cả 2 cùng thỏa điều kiện ở điểm
cắt đường cong ROC đơn lẻ làm tăng độ đặc hiệu
lên 100,00% và trong số 52 trường hợp trong NC
của chúng tôi không thỏa điều kiện test(+)/AFP
và test(+)/ PIVKA-II thì có 48 trường hợp không
tái phát với tỉ lệ 92,31% (GTTĐ (-) = 92,31%). Sự
kết hợp giữa test(+)/AFP và test(+)/ PIVKA-II cho
kết quả tối ưu nhất (100%), tương đồng với NC Lê
Văn Don khi PIVKA-II (COV=30 mAU/ml) kết
hợp với AFP (COV= 25 UI/ml) làm tăng độ nhạy
82,9 %, độ đặc hiệu 88,4%[5]. Mặt khác NC Volk
về sự tăng độ nhạy của điểm cắt AFP-L3(3%)
kết hợp với điểm cắt PIVKA-II(150mAU/ml)
trong chẩn đoán UTBMTBG giai đoạn sớm
(AUROC=0,948) là 84% tương ứng với độ đặc hiệu
là 94% (p=0,028)[23]. Theo nhóm NC Nhật Bản
các nồng độ phát hiện UBBMTBG là AFP >200 ng/
ml, PIVKA-II > 40 mUI/ml, AFP-L3 % > 15% [6].
Bệnh viện Trung ương Huế
78 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 53/2019
NC của chúng tôi, đường cong ROC của PIVKA-
II (0,758; p=0,015) có giá trị hơn AFP (0,752;
p=0,017) cho dự đoán “tái phát” UTBMTBG vào
tháng thứ 3 sau RFA, tương đồng với NC Volk với
đường cong ROC của PIVKA-II (0,919) có giá trị
hơn hẳn AFP (0,848) hay AFP-L3 (0,742) trong
UTBMTBG khác biệt từ xơ gan với độ nhạy 86%
và độ đặc hiệu 93%[23]. Mặt khác NC Choi JY về
AUROC lần lượt là 0,879; 0,887; 0,801 và 0,939
tương ứng với AFP, AFP-L3, PIVKA-II và các yếu
tố kết hợp, việc kết hợp AUC của 3 yếu tố này cho
thấy giá trị cao hơn so với các AUCs của từng yếu
tố đơn lẻ (P<0,05), AFP-L3 có giá trị AUC cao hơn
PIVKA-II (p=0,043)[4].
Do hạn chế của NC chúng tôi, chỉ có 2 dấu ấn sinh
học: AFP và PIVKA-II (trong bộ 3 AFP, AFP-L3 và
PIVKA-II) có giá trị chẩn đoán UTBMTBG tái phát
(p*, p**) và dự đoán “tái phát” khi so sánh với giá
trị nền trước điều trị (t=0) tương ứng với chẩn đoán
bằng hình ảnh học. Đầu tiên, đa số BN trong NC là
UTBMTBG giai đoạn sớm (91,2%) đáp ứng toàn bộ
điều trị ngắn hạn sau RFA.Thứ 2 thời gian NC ngắn
(3 tháng) và tỉ lệ tái phát ít 15,7% (9/57 trường hợp)
vì vậy giá trị thống kê chưa nổi bật lắm.
V. KẾT LUẬN
Qua khảo sát 57 bệnh nhân ung thư biểu mô
tế bào gan với 61 khối u gan có kích thước không
quá 5cm được điều trị bằng năng lượng sóng cao
tần (RFA) tại Khoa U Gan - Bệnh viện Chợ Rẫy
từ tháng 7/2017 đến tháng 7/2018, chúng tôi rút
ra được một số kết luận như sau: Hai yếu tố AFP
> 99,9 ng/ml và PIVIKA-II > 32.9 mAU/L có giá
trị chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan tái phát
ở tháng thứ 3 sau RFA tương ứng với chẩn đoán
bằng hình ảnh học. Sự kết hợp điểm cắt các chỉ số
AFP và PIVKA-II ở thới điểm tháng thứ 3 sau RFA
làm tăng độ đặc hiệu lên 100,00% và trong số 52
trường hợp nghiên cứu của chúng tôi không thỏa
điều kiện test(+)/AFP và test(+)/ PIVKA-II thì
có 48 trường hợp không tái phát với tỉ lệ 92,31%
(GTTĐ (-) = 92,31%).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Allen-Mersh T., et al (2009). Basic of oncology.
Springer. Berlin, xxiv, 375.
2. Ayav Ahmet, Germain Adeline, Marchal
Frederic et al (2010). “Radiofrequency ablation
of unresectable liver tumors: factors associated
with incomplete ablation or local recurrence”.
The American Journal of Surgery, 200, pp.435-8.
3. Bruix J., Sherman M. (2011). “Management
of hepatocellular carcinoma: an update”.
Hepatology, 53(3), pp. 1020-1.
4. Choi JY, et al. “Diagnostic value of AFP-L3
and PIVKA-II in hepatocellular carcinoma
according to total-AFP”.World J Gastroenterol
2013 January 21;19(3); pp. 339-340.
5. Eisenhauer EA, Therase P, Bogaerts J, et
al.(2009). New response evaluation criteria
in soild tumours: Revised RECIST guideline
(version 1.1). Eur J Cancer; 45:228.
6. Izumi Namiki (2010).“Diagnostic and
Treatment Algorithm of the Japanese Society
of Hepatology: A Consensus-Based Practice
Guideline”. Oncology 2010; 78(suppl 1):78–86.
7. Lê Văn Don, Nguyễn Đăng Tùng (2016).
“Nghiên cứu giá trị xét nghiệm PIVKA-II, panel
PIVKA-II kết hợp với AFP trong chẩn đoán ung
thư biểu mô tế bào gan”. Tạp chí Y dược Lâm
sàng 108, (11), tr.27.
8. Lê Lộc (2003). “Kết quả bước đầu điều trị
ung thư gan bằng phương pháp nhiệt cao tần
(Radiofrequency Ablation)”. Tạp chí Y học
thành phố Hồ Chí Minh, Phụ bản tập 7(4),
Chuyên đề Ung bướu, tr.228.
9. Lương Văn Thảo (2014). “Đánh giá hiệu quả
của phương pháp điều trị triệt bỏ khối u ung
thư biểu mô tế bào gan nguyên phát bằng năng
lượng sóng tần số radio”. Luận văn chuyên
Giá trị 3 chỉ số AFP, AFP-L3, PIVKA-II...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 53/2019 79
khoa 2, Học viện Quân Y, tr.69-74.
10. Lê Trọng Quí (2013). “Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng, hình ảnh chụp cắt lớp vi tính và nồng
độ AFPL3 ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào
gan”. Luận văn Bác sĩ Chuyên khoa cấp II, Học
viện Quân Y, tr.65 – 67.
11. Lee J., Lee J.M, Yoon J.H, et al (2012).
“Percutaneous radiofrequency ablation
with multiple electrodes for medium-sized
hepatocellular carcinomas”. Korean J Radiol,
13(1), pp.34-36.
12. Lee Sunyoung, et al (2016). “Post-ablation des-
gamma-carboxy prothrombin level predicts
prognosis in hepatitis B-related hepatocellular
carcinoma”. Liver Int. 2016; 36:pp.580-586.
DOI: 10.1111/liv.12991
13. Lencioni Riccardo, Llovet Josep M(2010).
“Modified RECIST (mRECIST) Assessment for
Hepatocellular Carcinoma“. Seminars in liver
disease, Volume 30, Number 1 2010, pp. 52-60.
14. Nguyễn Huyền Châu (2011). “Đánh giá hiệu
quả điều trị của phương pháp RFA ở bệnh nhân
ung thư biểu mô tế bào gan”. Luận văn Thạc sĩ y
học, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí
Minh, tr.64-71.
15. Nguyễn Thị Kim Hoa, Võ Đặng Anh Thư
(2010). “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận
lâm sàng của ung thư gan nguyên phát tại Bệnh
viện Trường Đại học Y Dược Huế”. Tạp chí Y
học thực hành, 705(2), tr.1
16. Vũ Văn Vũ và những người khác (2010). “Dịch
tễ học, lâm sàng và cận lâm sàng ung thư gan
nguyên phát – khảo sát 107 trường hợp điều
trị tại Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí
Minh 2009 – 2010”. Tạp chí Y học thành phố
Hồ Chí Minh, Phụ bản tập 17(4), Chuyên đề
Ung bướu, tr.333.
17. Sanyal A.J., Yoon S.K. and Lencioni R. (2010).
“The etiology of hepatocellular carcinoma and
consequences for treatment”. The Oncologist,
15(Suppl 4), pp.15 – 6.
18. Schutte K., Bornschein J., and Malfertheiner
P. (2009), “Hepatocellular carcinoma-
epidemiological trends and risk factors.”Dig
Dis, 27, (2), pp. 80.
19. Takahashi Shunshuke, Kudo Masatoshi, et
al, (2008). “PIVKA-II Is the Best Prognostic
Predictor in Patients with Hepatocellular
Carcinoma after Radiofrequency Ablation
Therapy “. Oncology; 75(suppl 1): 91.
20. Tamura Y, Suda T, Arii S, et al (2013). “Value of
highly sensitive fucosylated fraction of alpha-
fetoprotein for prediction of hepatocellular
carcinoma recurrence after curative treatment”.
Dig Dis Sci, 2406-12.
21. Tateishi R, Shiina S, Yoshida H, et al (2006).
Prediction of recurrence of hepatocellular
carcinoma after curative ablation using three
tumor markers. Hepatology, 44, 1518- 27
22. Torre L.A et al (2015). Global Cancer Statistics,
2012. CA Cancer J Clin, 65, 87–108.
23. Volk ML, et al (2007). “Risk factors for
hepatocellular carcinoma may impair the
performance of biomarkers: A comparison of
AFP, DCP, and AFP-L3”. Cancer Biomarkers,
3, pp. 84.
24. Wang Nan-Ya, Wang Cong et al. Prognostic
Value of Serum AFP, AFP-L3, and GP73 in
Monitoring Short-term Treatment Response and
Recurrence of Hepatocellular Carcinoma after
Radiofrequency Ablation. Asian Pacifc Journal
of Cancer Prevention, Vol 15, 2014, pp.1541- 3.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
gia_tri_3_chi_soafp_afp_l3_pivka_ii_trong_du_doan_ung_thu_bi.pdf