Giá trị của siêu âm Doppler mạch máu trong tiên đoán khả năng thành công mổ tạo dò động tĩnh mạch cổ tay để chạy thận định kỳ

Trong nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác biệt giữa lưu lượng động mạch quay ở nhóm thành công (94,59 ± 25,5 ml/phút) và nhóm thất bại (85,2 ± 29,6 ml/phút) (p = 0,1). Như vậy lưu lượng động mạch quay cao hơn ở nhóm thành công so với nhóm thất bại nhưng không có liên quan đến kết quả tạo lỗ dò. Trong các nghiên cứu trước đây cho rằng đo kích thước động mạch quay trước mổ là yếu tố quan trọng dự đoán kết quả thành công của lỗ dò(8), nhưng cho đến nay các nhà phẫu thuật chưa thống nhất điểm cắt đường kính động mạch quay bao nhiêu là tối ưu cho bệnh nhân mà điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác liên quan đến động mạch, ngoài ra còn phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Trong nghiên cứu của chúng tôi không thấy có liên quan giữa nhóm thành công (2,5 ± 0,33 mm) và nhóm thất bại (2,3 ± 0,38 mm) cũng giống như các tác giả Tordoir J (2,5 mm so với 2,3 mm)(18) và Lockhart ME (cùng 2,7 mm)(8). Nhưng khi so sánh giữa giới nam (2,56 ± 0,33 mm) và nữ (2,29 ± 0,32 mm) thì có ý nghĩa (p=0,0013), cũng tương tự như Lockhart ME ở giới nam (2,8 ± 0,04 mm) và nữ (2,5 ± 0,04 mm) (p=0,0 3). Cho đến nay để xác định ngưỡng tối ưu đường kính cho tĩnh mạch đầu là bao nhiêu giữa các tác giả trên thế giới còn khác nhau. Một số tác giả Châu Âu phẫu thuật mổ tạo dò mà không quan tâm đến đường kính tĩnh mạch là bao nhiêu, có những tác giả khác thì quan tâm đến sự giãn nở mạch máu trước và sau băng ép để tiên lượng kết quả. Trong nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt có ý nghĩa (p = 0,03) đường kính tĩnh mạch đầu giữa 2 nhóm thành công (2,41 ± 0,42 mm) và thất bại (2,13 ± 0,46 mm).

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 49 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của siêu âm Doppler mạch máu trong tiên đoán khả năng thành công mổ tạo dò động tĩnh mạch cổ tay để chạy thận định kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 264 GIÁ TRỊ CỦA SIÊU ÂM DOPPLER MẠCH MÁU TRONG TIÊN ĐOÁN KHẢ NĂNG THÀNH CÔNG MỔ TẠO DÒ ĐỘNG TĨNH MẠCH CỔ TAY ĐỂ CHẠY THẬN ĐỊNH KỲ Nguyễn Ngọc Vàng*, Nguyễn Văn Trí** TÓM TẮT Mở đầu: Lọc máu là một trong những phương pháp thay thế thận ở bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối, để thực hiện điều này cần có đường máu lâu dài. Vị trí mổ ở cổ tay hiện nay theo phương pháp Cimino và Brescia được ưa chuộng và siêu âm Doppler hiện nay phổ biến, không xâm lấn, rẻ tiền dùng để siêu âm mạch máu cổ tay trước mổ. Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa đường kính và lưu lượng mạch máu ở cổ tay (qua Doppler) với kết quả phẫu thuật tạo dò động tĩnh mạch để chạy thận định kỳ. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca. Kết qủa: Trong 70 bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi được mổ tạo dò động tĩnh mạch từ 6/2009 đến 2/2010, có 14 bệnh nhân bị tắc lỗ dò (20%) sau mổ đến 4 tuần, 56 bệnh nhân còn lại được siêu âm lỗ dò có đường kính trung bình 3,07 mm, lưu lượng 508,7 ml/phút. Đường kính trung bình động mạch quay đo được 2,46 mm, nhóm thành công có đường kính (2,5 ± 0,33 mm), nhóm thất bại (2,3 ± 0,38 mm) (p = 0,1), lưu lượng trung bình động mạch quay đo được 92,73 ml/phút, nhóm thành công (94,59 ± 25,5 ml/phút), nhóm thất bại (85,28 ± 29,6 ml/phút) (p = 0,28). Đường kính trung bình tĩnh mạch đầu đo được 2,35 mm, nhóm thành công có đường kính (2,4 ± 0,42 mm), nhóm thất bại (2,13 ± 0,46 mm) (p = 0,03). Diện tích dưới đường cong ROC là 0,69 với điểm cắt 2,3m có độ nhạy 64,29%, độ chuyên 65,71%. Kết luận: Siêu âm Doppler rất hữu ích trong việc đánh giá đường kính cũng như lưu lượng mạch máu trước và sau mổ tạo lỗ dò trước chạy thận. Từ khóa: Động mạch quay (ĐMQ), Tĩnh Mạch đầu (TMĐ). ABSTRACT THE ROLE OF VASCULAR DOPPLER ULTRASOUND IN PREDICTING THE OUTCOME OF SURGICAL CREATION OF WRIST ARTERIOVENOUS FISTULAES FOR CHRONIC HAEMODIALYSIS Nguyen Ngoc Vang, Nguyen Van Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 264 - 269 Background: Patients with end-stage renal failure require permanent vascular access for haemodialysis treatment. The arteriovenous fistulae (AVF) surgically created at the wrist according to Cimino and Brescia technique is still preferred. The Doppler ultrasound is a common, non-invasive and inexpensive tool used for the preoperative evaluation of wrist vessels. Objective: To determine to association between the diameters and the blood flow of wrist vessels and the outcomes of surgically created AVFs. Patients and method: Case series. * Khoa Thận, BV. Chợ Rẫy, ** Bộ môn Lão Khoa, Đại Học Y Dược TP HCM Tác giả liên lạc: Nguyễn Ngọc Vàng ĐT: 0913692572 email: ngocvang72@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 265 Results: Seventy patients with planed AVFs were recruited in our study from 6/2009 to 2/2004. Primary AVFs failure was noted in 14 patients (20%) within 4 weeks after the procedure. In remaining 56 patients, ultrasound measurements revealed a mean AVF diameter of 3.07 mm, and a mean blood flow of 508.7 ml/min. The mean radial artery diameter was 2.46 mm for the whole population, 2.5 ± 0.33 mm for patients with AVF success, and 2.3 ± 0.38 mm for patients with AVF failure (p=0.1). The mean blood flow of radial artery was 92.73 ml/min for the whole population, 94.59 ± 25 ml/min for patients with AVF success, and 85.28 ± 29.6 ml/min for patients with AVF failure (p=0.28). The mean cephalic vein diameter was 2.35 mm for the whole population, 2.41 ± 0.42 mm for patients with AVF success, and 2.13 ± 0.46 mm for patients with AVF failure (p=0.03). The chosen cut-off point for the cephalic vein diameter was 2.3 mm, giving an area under the curve of 0.69, a sensitivity of 64.29% and a specificity of 65.71%. Conclusion: Doppler ultrasound is a very useful tool for the evaluation of vessel diameters and blood flow before and after the surgical creation of AVF. Key words: radial artery, cephalic vein, arteriovenous fistulae (AVF). MỞ ĐẦU Hiện nay trên thế giới có trên 1,5 triệu người suy thận mạn giai đoạn cuối cần được điều trị thay thế thận và ước đoán sẽ tăng gấp đôi vào 2020(19). Số lượng ngày càng tăng do xuất độ bệnh tăng và bệnh nhân sống sót nhờ các phương pháp thay thế thận. Cho đến nay lọc máu đã trở thành kỹ thuật phổ biến trên thế giới để điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối mặc dù còn nhiều phương pháp thay thế thận khác như thẩm phân phúc mạc, ghép thận. Bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối cần lọc máu suốt đời nên cần có đường máu có thể dùng để chọc kim nhiều lần nhưng ít biến chứng. Có nhiều kỹ thuật đã được nghiên cứu nhưng phẫu thuật tạo dò động tĩnh mạch tự thân là kỹ thuật ưu tiên được lựa chọn nhờ có ưu thế hơn các kỹ thuật khác. Vị trí mổ tạo lỗ dò cổ tay ưu tiên trước sau đó mới đến các vị trí khác và mổ theo phương pháp Cimino và Brescia.Việc đánh giá tình trạng mạch máu trước mổ bằng thăm khám lâm sàng mang tính chủ quan và hạn chế, nhất là mạch máu nhỏ ở cổ tay và có bệnh kèm theo như đái tháo đường, béo phì, phù nề cẳng tay, mạch máu ở sâu, huyết khốiSiêu âm Doppler hiện nay được sử dụng phổ biến là phương pháp không xâm lấn, an toàn, rẻ tiền dùng để đánh giá hình thái và chức năng mạch máu(9,12). Điểm cắt lý tưởng cho đường kính động mạch quay và tĩnh mạch đầu đến kết quả thành công của lỗ dò của nhiều tác giả trên thế giới còn khác nhau(10,16,17,20) và ở Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm(13,5). Do đó chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm góp phần thuận lợi cho tạo lỗ dò mới. Mục tiêu nghiên cứu Xác định mối liên quan giữa đường kính và lưu lượng mạch máu ở cổ tay (qua Doppler) với kết quả phẫu thuật tạo dò động tĩnh mạch để chạy thận định kỳ. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chúng tôi chọn vào nghiên cứu những bệnh nhân có chỉ định lọc máu định kỳ lần đầu, có lâm sàng và cận lâm sàng ổn định cho phép phẩu thuật. Loại trừ những bệnh nhân đã được mổ tạo dò động - tĩnh mạch trước đây, hẹp tĩnh mạch dưới đòn, huyết khối, xơ vữa nặng, đường đi tĩnh mạch đầu không qua vị trí cổ tay. Cổ tay nơi mổ có sẹo, vết chích, nghiệm pháp Allen(6) thấy có sự thiếu máu bàn tay, có bệnh mạch máu ngoại biên và suy tim nặng. Thiết kế nghiên cứu Mô tả hàng loạt ca. Các số liệu được nhập bằng phần mềm SPSS 11.5 và xử lí stata 10.0, các phép kiểm có ý nghĩa thống kê khi p<0,05. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 266 Phương pháp tiến hành Dùng máy siêu âm Aloka 4000, xử lý công thức bằng phần mềm của máy. Tĩnh mạch đầu được băng ép ở cánh tay bằng máy đo huyết áp bơm hơi ở mức 60mmHg và đợi khoảng hai phút chờ cho tĩnh mạch dãn(15). Đường kính động mạch quay và tĩnh mạch đầu được đo từ lớp nội mạc đến lớp nội mạc, đo 2 lần ở vị trí khác nhau sau đó lấy trị số trung bình. Lưu lượng động mạch quay (ml / phút) = Đường kính(mm) x Vận tốc (cm/s). Vị trí được chọn để mổ tạo dò động tĩnh mạch ưu tiên tay không thuận vùng cổ tay nếu thất bại mới di chuyển lên vùng khuỷu tay cùng bên hoặc sang bên tay thuận, phương pháp gây tê tại chỗ và được nối tận tĩnh mạch đầu vào bên động mạch quay ở cổ tay theo phương pháp Cimino và Brescia. Giữ liên lạc với bệnh nhân đến 4 tuần sau mổ, hẹn bệnh nhân đến để siêu âm lỗ dò đo đường kính lỗ dò và lưu lượng máu qua lỗ dò trước khi đâm kim để lọc máu lần đầu. Thất bại là tắc ngay sau mổ thường do lỗi kỹ thuật hoặc mạch máu không đầy đủ hoặc từ lúc mổ xong đến 4 tuần không nghe âm thổi. Một ca gọi là thành công khi sau mổ 4 tuần bệnh nhân chạy thận được tại lỗ dò (thông thường lưu lượng ≥ 250ml). KẾT QUẢ Có 70 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối nhập khoa thận và có nhu cầu lọc máu định kỳ từ tháng 6/2009 đến tháng 2/2010. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu và kết quả tạo lỗ dò Bảng 1. Đặc điểm chung giữa các nhóm Thành công Thất bại Giá trị p Nam 38 (84,4%) 7 (15,6%) Giới Nữ 18 (72%) 7 (28%) p=0,21 < 65 49 (80,3%) 12 (19,7%) Tuổi ≥ 65 7 (77,8%) 2 (22,2%) p=0,85 Không béo phì 54 (96,4%) 13 (92,8%) Dinh dưỡng (BMI) Béo phì 2 (3,57%) 1 (7,2%) p=0,55 Thành công Thất bại Giá trị p Không 42 (75%) 8 (57,1%) ĐTĐ Có 14 (25%) 6 (42,9%) p=0,18 Hb(g/l) Trung bình 79,3 87,5 p=0,08 Bảng 1 cho thấy không có liên quan giữa nhóm tuổi, giới, dinh dưỡng, đái tháo đường và nồng độ Hemoglobin đến kết quả tạo lỗ dò. Trong 70 bệnh nhân chọn nghiên cứu có 16 bệnh nhân bị tắc sau mổ đến 4 tuần nên còn lại 56 bệnh nhân được siêu âm. Đường kính trung bình đo được 3,07 mm, thấp nhất 1,6 mm, cao nhất 5 mm. Lưu lượng trung bình của lỗ dò 508,73 ml/p, cao nhất là 1422 ml/p và thấp nhất là 250 ml/p. Đường kính trung bình động mạch quay đo được 2,46mm, thấp nhất 1,6mm, cao nhất 3,1mm.Tỉ lệ thành công của lỗ dò theo đường kính động mạch quay: Dùng phép kiểm t so sánh cho thấy nhóm thành công có đường kính trung bình là 2,5 mm và nhóm thất bại là 2,3 mm, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p = 0,102. Bảng 2: Tỉ lệ thành công của lỗ dò theo đường kính động mạch quay: Bệnh nhân Đk trung bình Độ lệch chuẩn KTC 95% p Thành công 56 2,5 mm 0,33 [2,4 - 2,59] 0,102 Thất bại 14 2,3 mm 0,38 [2,1 - 2,5] Tổng cộng 70 2,46 mm 0,35 [2,4 - 2,5] Tỉ lệ thành công đường kính động mạch quay theo giới Dùng phép kiểm t so sánh động mạch quay cho thành công nam có đường kính trung bình 2,56 mm và nữ là 2,29 mm, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,0013. Bảng 3: Tỉ lệ thành công đường kính động mạch quay theo giới Nhóm Bệnh nhân Trung bình Độ lệch chuẩn KTC 95% p Nam 45 2,56 mm 0,33 [2,46 - 2,66] 0,28 Nữ 25 2,29 mm 0,32 [2,15 - 2,42] Tổng cộng 70 2,46 mm 0,35 [2,38 - 2,54] Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 267 Lưu lượng trung bình động mạch quay đo được là 92,73 ml/phút, cao nhất 148 ml/p và thấp nhất 31 ml/p. Tỉ lệ thành công của lỗ dò theo lưu lượng: Dùng phép kiểm t so sánh, lưu lượng trung bình của nhóm thành công là 94,59 ml/p và nhóm thất bại là 85,28 ml/p, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p = 0,28. Bảng 4: Tỉ lệ thành công của lỗ dò theo lưu lượng: Bệnh nhân Lưu lượng trung bình Độ lệch chuẩn KTC 95% p Thành công 56 94,59 ml/p 25,5 [87,8 - 101,4] 0,28 Thất bại 14 85,28 ml/p 29,6 [68,2 - 102,3] Tổng cộng 70 92,7 ml/p 26,4 [86,4 – 99] Tỉ lệ thành công lưu lượng động mạch quay theo giới Dùng phép kiểm tra so sánh, lưu lượng thành công của nam là 97,8 ml/p cao hơn nữ là 83,6 ml/p và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,03. Bảng 5. Tỉ lệ thành công lưu lượng động mạch quay theo giới Bệnh nhân Lưu lượng trung bình Độ lệch chuẩn KTC 95% p Nam 45 97,6 ml/p 25,5 [90,1 - 105,4] 0,03 Nữ 25 83,6 ml/p 26,02 [72,9 - 94,4] Tổng cộng 70 92,7 ml/p 26,4 [86,4 – 99] Đường kính trung bình tĩnh mạch đầu đo được là 2,35 mm và thấp nhất 1,4 mm, cao nhất 3,5 mm. Tỉ lệ thành công của lỗ dò theo đường kính tĩnh mạch đầu: Dùng phép kiểm t để so sánh cho thấy nhóm thành công có đường kính trung bình 2,41 mm nhóm thất bại có đường kính 2,13 mm, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p = 0,03. Bảng 6: Tỉ lệ thành công của của lỗ dò theo đường kính tĩnh mạch đầu Nhóm Bệnh nhân Trung bình Độ lệch chuẩn KTC 95% p Thành công 56 2,41 mm 0,42 [3,29 - 2,52] 0,03 Thất bại 14 2,13 mm 0,46 [1,86 - 2,39] Tổng cộng 70 2,35 mm 0,44 [2,25 - 2,46] Tỉ lệ thành công đường kính tĩnh mạch đầu theo giới Dùng phép kiểm t để so sánh cho thấy giới nam thành công khi có đường kính tĩnh mạch đầu trung bình là 2,42 mm và nữ là 2,24 mm sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p = 0,09. Bảng 7: Tỉ lệ thành công đường kính tĩnh mạch đầu theo giới Nhóm Bệnh nhân Trung bình Độ lệch chuẩn KTC 95% Nam 45 2,42 mm 0,42 [2,29 - 2,55] Nữ 25 2,24 mm 0,45 [2,04 - 2,42] Tổng cộng 70 2,35 mm 0,44 [2,25 - 2,46] Xác định giá trị ngưỡng của tĩnh mạch đầu Do tỉ lệ thành công của tĩnh mạch đầu có ý nghĩa thống kê (p = 0,03), nên chúng tôi khảo sát giá trị ngưỡng đường kính của tĩnh mạch đầu bằng cách vẽ đường cong ROC với diện tích dưới đường cong ROC là 0,69. Tại điểm cắt 2,3 mm với độ nhạy 64,29% và độ chuyên 65,71%. BÀN LUẬN Trong 70 bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi được mổ tạo dò động tĩnh mạch để lọc máu định kỳ từ 6/2009 đến 2/2010, có 14 bệnh nhân bị tắc lỗ dò sau mổ chiếm tỉ lệ 20% và được mổ lại lần 2, so với các nghiên cứu trong nước như Nguyễn Anh Dũng (13) và Đặng Văn Duyên (5) thì chúng tôi cao hơn. Lưu lượng lỗ dò 56 bệnh nhân còn thông nối trung bình đo được 508,73 ml/phút trong đó thấp nhất 250 ml/phút và những bệnh nhân này đều chạy thận được lần đầu qua lỗ dò. Các yếu tố huyết động có ảnh hưởng đến sự thành công của lỗ dò như huyết áp, lưu lượng máu động mạch quay, cung lượng tim và lưu lượng máu của tĩnh mạch đầu cũng như tĩnh mạch dưới đòn nhưng trong phạm vi nghiên cứu của chúng tôi chỉ đo lưu lượng máu của động mạch quay trước phẫu thuật. Để tạo thành công lỗ dò một trong những yếu tố quang trọng là sự giãn nở của động mạch quay để tăng lưu lượng máu cũng như tái cấu trúc mạch máu sau tạo lỗ dò. Do đó nguyên nhân nào làm cho dày Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 268 và hẹp lòng mạch máu như xơ vữa, huyết khối, bệnh mạch máu ngoại biên do đái tháo đường, lớn tuổi, hút thuốc lá cũng có thể ảnh hưởng đến lưu lượng máu qua lỗ dò(11). Khi siêu âm động mạch quay là động mạch nhỏ nên khi đo lưu lượng thường không chính xác do dòng chảy là dòng chảy rối, ngoài ra các yếu tố khác như phương pháp phẫu thuật và sự giãn nở tĩnh mạch đầu. Trong nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác biệt giữa lưu lượng động mạch quay ở nhóm thành công (94,59 ± 25,5 ml/phút) và nhóm thất bại (85,2 ± 29,6 ml/phút) (p = 0,1). Như vậy lưu lượng động mạch quay cao hơn ở nhóm thành công so với nhóm thất bại nhưng không có liên quan đến kết quả tạo lỗ dò. Trong các nghiên cứu trước đây cho rằng đo kích thước động mạch quay trước mổ là yếu tố quan trọng dự đoán kết quả thành công của lỗ dò(8), nhưng cho đến nay các nhà phẫu thuật chưa thống nhất điểm cắt đường kính động mạch quay bao nhiêu là tối ưu cho bệnh nhân mà điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác liên quan đến động mạch, ngoài ra còn phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Trong nghiên cứu của chúng tôi không thấy có liên quan giữa nhóm thành công (2,5 ± 0,33 mm) và nhóm thất bại (2,3 ± 0,38 mm) cũng giống như các tác giả Tordoir J (2,5 mm so với 2,3 mm)(18) và Lockhart ME (cùng 2,7 mm)(8). Nhưng khi so sánh giữa giới nam (2,56 ± 0,33 mm) và nữ (2,29 ± 0,32 mm) thì có ý nghĩa (p=0,0013), cũng tương tự như Lockhart ME ở giới nam (2,8 ± 0,04 mm) và nữ (2,5 ± 0,04 mm) (p=0,0 3). Cho đến nay để xác định ngưỡng tối ưu đường kính cho tĩnh mạch đầu là bao nhiêu giữa các tác giả trên thế giới còn khác nhau. Một số tác giả Châu Âu phẫu thuật mổ tạo dò mà không quan tâm đến đường kính tĩnh mạch là bao nhiêu, có những tác giả khác thì quan tâm đến sự giãn nở mạch máu trước và sau băng ép để tiên lượng kết quả. Trong nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt có ý nghĩa (p = 0,03) đường kính tĩnh mạch đầu giữa 2 nhóm thành công (2,41 ± 0,42 mm) và thất bại (2,13 ± 0,46 mm). Bảng 8: So sánh với các tác giả khác. Số bệnh nhân Thành công Thất bại p Brimble KS và CS 106 2,51 mm 2,23 mm 0,04 Tordoir J và CS 43 2, 2 mm 1, 8 mm 0,04 Chúng tôi 70 2,41 mm 2,13 mm 0,03 Thông thường khám lâm sàng tĩnh mạch ở nữ giới khó hơn nam giới do lớp mỡ dày hơn, mạch máu ở sâu hơn thậm chí khi đã siêu âm mạch máu thì nữ giới tiến hành phẫu thuật ở cổ tay vẫn thấp hơn ở nam(18). Kết quả của chúng tôi sự khác biệt giữa nam (2,4 ± 0,42 mm) và nữ (2,2 ± 0,45 mm) đến kết quả tạo lỗ dò không có sự khác biệt (p =0,09). Bảng 9: So sánh tĩnh mạch đầu trung bình nam và nữ với các tác giả khác Nam Nữ p Brimble KS và CS 2,3 ± 0,08 mm 2,3 ± 0,1 mm E. Korten và CS 2,4 ± 1 mm 2,2 ± 0,7 mm 0,24 Lockhart M.E và CS 3,0 ± 0,04 mm 2,9 ± 0,03 mm 0,41 Chúng tôi 2,4 ± 0,42 mm 2,2 ± 0,45 mm 0,09 Diện tích dưới đường cong ROC đo được 0,69 là chấp nhận được nhưng chọn điểm cắt 2,3 mm với độ nhạy 64,29% và độ chuyên 65,71% còn hơi yếu có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn ít và phân bố không đều. Điểm cắt đường kính tĩnh mạch đầu của chúng tôi (2,3 mm) so với các tác giả khác như Wong (1,6 mm)(20), Lawrence J (2,5 mm)(16), Lockhart ME (2,5 mm)(7), Brener (the kidney) (2,5 mm)(2), Brimble KS (2,6 mm)(3). Như vậy, nhận thấy điểm cắt tối ưu cho tĩnh mạch đầu hiện nay cho phẫu thuật thành công tạo lỗ dò động tĩnh mạch ở cổ tay hiện cũng chưa thống nhất giữa các tác giả vì còn tùy thuộc vào thể trạng bệnh nhân, sự giãn nở mạch máu và nhất là kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Hạn chế đề tài của chúng tôi là: (1) Do bệnh nhân nhập viện suy thận mạn giai đoạn cuối Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 269 nên sau mổ khoảng 4 tuần là sử dụng lỗ dò nên chúng tôi không theo dõi được lâu hơn; (2) Đề tài của chúng tôi liên quan đến nhiều chuyên khoa như siêu âm, phẫu thuật và lọc máu nên chúng tôi không trực tiếp thực hiện mà nhờ đến sự giúp đỡ của các khoa liên quan; (3) Thời gian thực hiện đề tài ngắn, số lượng bệnh nhân còn ít và thời gian theo dõi chưa đủ dài để có kết luận khách quan hơn. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 70 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối được siêu âm Dopler mạch máu cổ tay trước khi tạo lỗ dò chúng tôi nhận thấy, đường kính và lưu lượng động mạch quay không liên quan đến kết quả tạo lỗ dò. Tĩnh mạch đầu được băng ép mức 60 mmHg có sự khác biệt đường kính trung bình giữa nhóm thành công (2,41 mm) và nhóm thất bại (2,13 mm) với p = 0,03, chọn điểm cắt 2,3 mm với độ nhạy 64,29%, độ chuyên 65,71%. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anton 10N., Sidawy, MD., Richard Gray, MD., et al (2002), Recommended standards for reports dealing with arteriovenous hemodialysis accesses. Volume 35, Issue 3, Pages 603-610. 2. Brenner BM (2008)16, Hemodialysis, The kidney, Saunders, 8th ed,Vol.2.Ch.58. pp.1957-1985 3. Brimble15 KS, Rabbat ChG, Treleaven DJ, Ingram AJ (2002), Utility of ultrasonographic venous assessment prior to forearm arteriovenous fistula creation. Clin Nephrol; 58(2):122-7. 4. Carlo Basile18, Giovanni Ruggieri, Luigi Vernaglione, Alessio Montanaro and Rosa Giordano (2004),The natural history of autogenous radio-cephalic wrist arteriovenous fistulas of haemodialysis patients:a prospective observational study.Nephrol Dial Transplant19:1231-1236. 5. Đặng Văn Duyên, Dương Quang Trí, Phạm Văn Bùi (2003), Siêu âm Doppler và phẫu thuật tạo dò động tĩnh mạch ở cổ tay trong chạy thận nhân tạo định kỳ.Tạp chí Y học TP.HCM,Tập 7, phụ bản số 1. 6. David G22. Cable, MD, Charles J. Mullany, MB, MS, Hartzell V. Schaff, MD (1999), The Allen test. Ann Thorac Surg; 67:876- 877. 7. Lockhart ME36, Robbin ML, Fineberg NS, Wells CG, Allon M (2006), Cephalic vein measurement before forearm fistula creation: does use of a tourniquet to meet the venous diameter threshold increase the number of usable fistulas?. Ultrasound Med; 25(12):1541-1545. 8. Lockhart ME38, MD, MPH, Michelle L. Robbin, MD and Michael Allon, MD (2004), Preoperative Sonographic Radial Artery Evaluation and Correlation With Subsequent Radiocephalic Fistula Outcome. J Ultrasound Med 23:161-168 • 0278-4297. 9. Malovrh M.MD44 (2009), The Role of Sonography in the Planning of Arteriovenous Fistulas for Hemodialysis. Seminars in Dialysis Volume 16 Issue 4, Pages 229-303 10. Malovrh M43. MD (1998), Non-invasive evaluation of vessels by duplex sonography prior to construction of arteriovenous fistulas for haemodialysis. Nephrol Dial Transplant; 13:125–129 11. Malovrh. M. MD45: Native arteiovenous fistula (2002), Preoperative evaluation. American Journal of Kidney Diseases Volume 39, Issue 6, Pages 1218-1225. 12. Martin Ferring46, John Henderson, Antonius Wilmink and Steve Smith (2008), Vascular ultrasound for the pre-operative evaluation prior to arteriovenous fistula formation for haemodialysis: review of the evidence. Nephrol Dial Transplant 23: 1809–1815. 13. Nguyễn Anh Dũng (2001), Nhận xét kết quả phẫu thuật tạo dò động tĩnh mạch để lọc máu tại bệnh viện Thống Nhất. Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Y học, ĐHYD TPHCM. 14. Nguyễn Văn Trí (2007), Đánh giá mạch máu bằng siêu âm màu Duplux: Bài giảng lớp siêu âm tim và mạch máu. ĐHYD TPHCM. 15. Nils Planken R52, Xavier H. A. Keuter, Arnold P. G. Hoeks, et al (2006), Diameter measurements of the forearm cephalic vein prior to vascular access creation in end-stage renal disease patients: graduated pressure cuff versus tourniquet vessel dilatation. Nephrology Dialysis Transplantation 21(3): 802-806. 16. Parmar. J, M. Aslam, N. Standfield: Pre-operative Radial Arterial Diameter Predicts Early Failure of Arteriovenous Fistula (AVF) for Haemodialysis. European Journal of Vascular and Endovascular Surgery, Volume 33, Issue 1, Pages 113 - 115 (2007 17. Silva MB Jr70, Hobson RW 2nd, Pappas PJ, et al (1998), A strategy for increasing use of autogenous hemodialysis access procedures: impact of preoperative noninvasive evaluation. Vasc Surg; 27(2):302-7; discussion 307-8. 18. Tordoir J72, Rooyens P, Dammers R, Van der Sande F, De Haan M, Ien Yo T (2003), Prospective evaluation of failure modes in autogenous radiocephalic wrist access for haemodialysis. Nephrol Dial transplant ; 18: 378–383 19. Trần Thị Bích Hương (2001),Các phương pháp thay thế thận. Bài giảng sau đại học. 20. Wong V79, Ward R, Taylor J, Selvakumar S, How TV, Bakran A. (1996), Factors associated with early failure of arteriovenous fistulae for haemodialysis access. Eur J Vasc Endovasc Surg; 12(2):207-13.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgia_tri_cua_sieu_am_doppler_mach_mau_trong_tien_doan_kha_nan.pdf